Tải bản đầy đủ (.pdf) (259 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: Chế định vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.63 MB, 259 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHE ĐỊNH VAT QUYEN

TRONG PHAP LUAT DAN SU VIET NAM HIEN DAI

MA SO: LH-2016-26/DHL-HN

Chi nhiém: TS. Nguyén Minh Oanh Thu ky: TS. Nguyén Van Hoi

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

I. BAN CHỦ NHIỆM ĐÈ TÀI

1. TS. Nguyễn Minh Oanh, Chủ nhiệm dé tài 2. TS. Nguyễn Văn Hợi, Thư ký đề tài

II. CỘNG TÁC VIÊN DE TÀI

<small>1. TS. Vương Thanh Thuy, Phó Trưởng Bộ môn Luật Dân sự, Khoa Pháp luậtDân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội</small>

2. ThS. Lê Thị Hoàng Thanh, Vụ Dân sự- Kinh tế, Bộ Tư pháp 3. ThS. Đỗ Thị Thuy Hang, Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp

4. ThS. NCS. Lê Đăng Khoa, Giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự và kiểm sát dân sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.

5. ThS. NCS. Nguyễn Văn Tiến, Giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự và kiểm sát <small>dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội</small>

6. TS. Kiều Thị Thuy Linh, Giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học

<small>Luật Hà Nội</small>

<small>7. ThS. NCS. Chu Thị Lam Giang, Trường Giang viên Khoa Pháp luật Dân sự,Đại học Luật Hà Nội</small>

<small>8. ThS. NCS. Hoàng Thị Loan, Giảng viên Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Dai</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

PHAN MỞ ĐẦU... 5-25-4441 0E43 07447741 2410241 0890p 1 1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ...--.--5- <5 scs<<ses<es 1 2. Tình hình nghiên cứu dé tài...---- 5-2 5° s s2 ses<esesseseesessesessesee 3 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài...---s-«- 14 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài...--5--<-s- scs<<sesesessesee 15 5. Những kết quả đạt được của đề tài ...---- 55c scs<csessesessesee 15 6. Kết cầu báo cáo tong hợp của đề tài ...--5- 55c scs<csesesessesee 16 <small>0:10/09)i050... 17</small> NHỮNG VAN DE LÝ LUẬN CƠ BẢN VE VAT QUYEN ... 17 1.1. Khái niệm và đặc điểm vật quyền ...---- 5-2 5 scs<<sessesesese 17 1.1.1. Khai nim VGt ng... 17 1.1.2. Đặc điểm pháp lý của vật QUYEN veecececccccscescesescesessestessssesvesestessesesseees 20 1.2. Nguyên tắc chủ yếu của vật quyÊn...---- s2 s<sesesses=sessese 25 1.2.1. Nguyên tắc vật quyên phải được pháp luật quy định...-- 25 1.2.2. Nguyên tắc tuyệt đỐi... - 5 5t SE TS EE11211112111121121111211111 E1 ye0 25 1.2.3. Nguyên tắc cơng kÌqi...-+- + + St+t‡EEEEEEE112111111211111111111 1x e6 26 1.2.4. Ngun tắc tin cậy (hiệu lực cơng tÍH))...----:- + ec+teE+xerzrrxee 27 1.3. Phân loại vật quyền và múi liên hệ giữa các vật quyền... 28 1.3.1. Phân loại vật qHÊN...----+- + E+E‡EEEEEEEE21E11211112112111E1111 1E xe 28 1.3.2. Mối liên hệ giữa các Vật qMyÊH...- c5 EEEEEEEEEEEEErkerkei 30 1.4. Xác lập, thực hiện, chấm dứt vật quyền ...--.--s- 5< ses<es2 32 1.4.1. Xác lập vật qHVỄN... - 5+5 ÉE EEEEEEEEEE211112111111211101111 2x. 32 1.4.2. Thực hiện vật quyền "— 36 1.4.3. Chấm itt Vật qHVỄN... 5-55 SE SE EEE1211112112111211212111 1n xe 37

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

1.5.1. Khải niệm bảo vệ vật quyền " __=... &. 39 1.5.2. Đặc điểm phương thức bảo vệ vật quyỄN...--- 5c cccccsrersskered 40 1.5.3. Phân loại phương thức bảo vệ vật qHVÊN...---c-5cccccccrersskered 4I 1.6. Khái quát sự phát triển của chế định vật quyền trong pháp luật dân <small>BIE YIỆT NINH THÍ sesecseesesscnessncsesnnes sss eae IES INR LARS RRR 41</small>

1.6.1.Ché định vật quyên trong pháp luật dân sự Việt Nam thời kỳ phong

<small>7. ... 4]</small>

1.6.2. Chế định vật quyên trong pháp luật dân sự Việt Nam thời kỳ Pháp

<small>7S cece cece cece cece eee eeeeeeeeeebeeeeebeeebeteeeeeeeteseeeseteseeeseseneseeeneeeeeeeeeeeegs 47</small>

1.6.3. Ché dinh vat quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam từ 1945 đến

2.1. Những quy định chung về vật quyền ...---- 5-2 5c <cse=ses<es 58 2.1.1. Về khái niệm và tên goi vật qIyÊMN...--- 2 ++scceE2E2E2ErEerxerxet 58 2.1.2. Xác lập, thực hiện, cham dứt vật quyên "— 59 2.1.3. Phương thức bảo vệ vật quyÊN...- c5 SE E2 tre 71 2.2. Các vật quyền cu thé theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam 85 L9) 7.0. nnn"nếsua... 85 2.2.2. Quyên địa dịcÌh...- 5c St ESEEE115112121151111211212112111121111 1n yeu 103 b. Quyên về tưới nước, tiêu nước trong canh tÁC...---c-cccs+cccsrsterei 110 c. Quyên về lỗi đi QUA ..eececececccsscssesesesessesvscssssvsssssssessssasssssevsesesevssevieeesees TII Diéu 246 BLDS năm 2015 ghi nhận: “Quyên đối với bat động sản liên kê được xác lap do địa thé tự nhiên, theo quy định của luật, theo thoả thuận

<small>hoặc theo di CÍHIÚC ”... - 11 1111111111515111111151111111 111111111111 111 1 1n xa 115</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2.2.4. Vật quyên bảo AGM cccccccccecccescsseesescssessssvssessssvesssssesevsusessesseseesseseees 144

<small>010/9)... ...)... 154</small>

KIÊN NGHỊ HOÀN THIEN PHAP LUẬT DAN SỰ VIỆT NAM... 154 \⁄?⁄.v909)0 4070777. ... 154 3.1. Hoàn thiện quy định chung về vật quyền ...--5- 2 s52 << 154 3.1.1. Về việc thừa nhận khái niệm vật QUVENeeeccceccccccescssesessesteeseeteseeeeee 154 3.1.2. (T. 11... nng... 158 3.1.3. Vé xdc lap, thuc hién, cham dit vat quyền "¬ = 159 3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về các vật quyền cụ thể ... 168 3.2.1. VỀ quyén sở liữi... 5c St EEEEEEEEE1E1181111E1121111211111111E1 ra. 1ó8 3.2.2. Về quyên địa dịChh...-- s5 CS EEKEEEEE 1112111111111, 174 3.2.3. Về quyên hưởng dHHHg... - Set EEEE E111 E11 tri 177 3.2.4. V quyên Dé MG ceccccccccccsescssessssessessesesssssssesessssvsassesevsusevsessesevseseeees 182 KET 0007.0007575... -...ÔỎ 190 DANH MỤC TÀI LIEU THAM KHẢO... 5-5-5 s©ss©ssess=se 192

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>Những van đê ly luận cơ ban về vật quyên</small>

Khái quát sự phát trién của chế định vật quyền trong

<small>pháp luật dân sự Việt Nam</small>

Xác lập, thực hiện chấm dứt vật quyền Phương thức bảo vệ vật quyền

Quyền sỡ hữu trong pháp luật dân sự Quyền địa dịch trong pháp luật dân sự Quyền hưởng dụng trong pháp luật dân sự Quyền bề mặt trong pháp luật dân sự Vật quyền bảo đảm trong pháp luật dân sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

BAO CAO PHUC TRINH

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu dé tài

Kể từ khi công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng năm 1986, đến nay nền kinh tế Việt Nam đã có những chun biến tính cực và đang khơng ngừng phát triển. Một trong những cơng cụ có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đây nền kinh tế thị trường phát triển chính là pháp luật trong đó phải kế đến Bộ luật dân sự (BLDS) - là đạo luật gốc đóng vai trị nịng cốt trong việc điều chỉnh những quan hệ tư giữa các chủ thé bình đăng về dia vị pháp lý. Có thể nói, BLDS năm 1995 rồi đến BLDS năm 2005 đã có những đóng góp khơng thê phủ nhận vào việc nâng cao công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng kinh tế thị trường, góp phần khơng nhỏ vào sự nghiệp giải phóng sức lao động, nâng cao sự phát triển của kinh tế-xã hội... Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận khách quan răng BLDS của chúng ta hiện nay vẫn chưa đạt đến mức độ hồn thiện dé có thé thích ứng được với hàng loạt những thay đổi của nền kinh tế thị trường cũng như xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là kế từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO và vừa xong là Hiệp

<small>định TPP, Hiệp định thương mại với EU và đặc biệt là việc hình thành nên cộng</small>

đồng ASEAN mà Việt Nam là một thành viên.

Trong BLDS 2005, chế định sở hữu - một trong những nội dung của vật quyén- và là chế định trung tâm của nền kinh tế thị trường cũng còn tồn tại nhiều hạn chế. Những nguyên ly của vật quyền và tác động của nó nên nền kinh tế thị trường dường như chưa được giải quyết thấu đáo. Kết cau của chế định này cũng chưa hợp lý bởi chưa khái quát được những quy định chung về vật quyền, chưa tách biệt được các vật quyền độc lập ra khỏi quyền sở hữu. Nội hàm của vật quyền cũng cịn bị bó hẹp trong quyền sở hữu và phạm vi các quyền năng của chủ sở hữu cũng chưa được ghi nhân một cách đây đủ, hồn chỉnh... Chính bởi còn tồn tại những hạn chế nhất định cũng như để góp phan thúc đây sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập với nền kinh tế thế giới và trong khu vực, sau khi Hiến pháp được sửa đối, BLDS 2005 cũng được xem xét sửa đổi dé đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Ngày 24/11/2015, BLDS 2015 đã được Quốc hội XIII kỳ hop thứ 10 thông qua và có hiệu lực vào ngày 01/01/2017. BLDS 2015 ngồi những sửa đổi khác thì một trong những sửa đổi, bố sung mang tính đột phá là đã ghi nhận và phát triển

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hữu và các vật quyền khác trong giao lưu dân sự, thương mại, làm tiền đề cho các quan hệ kinh tế khác phát trién. Tuy nhiên, ngay từ khi dự thảo Bộ luật còn xây dựng, chế định về vật quyền được ghi nhận cũng còn nhiều vấn đề vẫn còn vướng mắc và gây tranh luận khá gay gắt. Các chuyên gia pháp luật cũng như những người làm công tác thực tiễn còn nhiều trăn trở và băn khoăn về tên gọi, phạm vi và nội hàm của vật quyền trong BLDS mới. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu BLDS 2015, tác giả cũng thấy rằng một số quy định của Bộ luật còn chung chung chưa khái quát được bản chất của vật quyền, chưa ghi nhận được hết các loại vật quyền; chưa chuẩn xác, có nhiều cách hiểu khác nhau ví dụ như định nghĩa về quyền sở hữu (Điều 158), các quyền khác đối với tài sản (Điều 159), Quy định về thời điểm xác lập vật quyền (D161), Điều kiện thực hiện quyền định đoạt (Điều 163); Nội dung của quyền hưởng dụng (Điều 261, 262, 263, 264), Thời hạn của quyền hưởng dụng (Điều 260)... chưa làm rõ được sự khác biệt về bản chất của quyền sử dụng là một quyền năng của quyền sở hữu với quyền hưởng dụng là một vật quyền khác cũng như chưa phân định được quyền

bề mặt với quyền sử dụng đất...; cầu trúc của một số phần, nội dung chưa logic,

hợp lý ví dụ chưa có quy định chung về chấm dứt vật quyền, quy định về quyền chiếm hữu của người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản (Điều 187), Quyền chiếm hữu của người được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự (Điều 188) được đặt trong phần quyền chiếm hữu của chủ sở hữu.... Do đó, trong thời gian tới để đảm bảo sự nhận thức và áp dụng một cách chính xác và thống nhất trên thực tiễn, các luật chuyên ngành cũng như các văn bản dưới luật cần phải đảm bảo được tính khoa học và hợp lý, điều chỉnh và hướng dẫn một cách hiệu quả các quy định về vật quyền trong Bộ luật. Thật vậy, việc triển khai nghiên cứu về chế định vật quyền góp phần bổ sung lý luận, nâng cao nhận thức một cách sâu sắc về chế định vật quyên, hoàn thiện pháp luật về vật quyền là rất cần thiết, góp phần đáp ứng được nhu cau thực tế khách quan và thúc day nền kinh tế thị trường Việt Nam phát trién.

Với những ly do như trên, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu dé tài “Chế định vật quyên trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại” là cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

2.1. Tình hình nghiên cứu đề tài trong nước

<small>Tính đên thời điêm hiện nay, đã có một sơ cơng trình nghiên cứu vê vậtquyên với các hướng tiép cận khác nhau làm cơ sở cho việc tiép cận và nghiêncứu của đê tài. Có thê kê đên các cơng trình như:</small>

<small>Luận văn, Luận án, đề tài nghiên cứu khoa học</small>

1. Lê Hồng Hạnh, “Nghiên cứu so sánh chế định sở hữu, hop đồng trong pháp luật dán sự Việt Nam và Trung Quốc ” Đề tài cấp Bo, 2015.

Công trình này tập trung vào việc nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt về chế định sở hữu, hợp đồng giữa pháp luật dân sự Việt Nam và Trung

Quốc. Về chế định sở hữu, cơng trình này đã nghiên cứu một cách khái lược vé SỞ

hữu và quan hệ sở hữu ở Việt Nam tir thời kỳ phong kiến cho đến nay. Ngồi ra, cơng trình này cũng nghiên cứu về quyền sở hữu đối với bất động sản, về hình thức sở hữu, về nội dung quyền sở hữu, về căn cứ xác lập quyền sở hữu, về bảo vệ quyền sở hữu theo phương thức dân sự. Tuy nhiên, mục đích nghiên cứu của cơng trình là so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật dân sự Việt Nam và Trung Quốc, nên cơng trình này khơng đi sâu nghiên cứu những ưu điểm và hạn chế trong quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về quyên sở hữu, nên việc hoàn thiện mới chỉ dừng lại ở mức định hướng chứ chưa có kiến nghị hồn thiện cụ thê đối với từng chương, điều có liên quan. Mặt khác, so với phạm vi nghiên cứu của đề tài nghiên cứu khoa học mà chúng tôi sẽ thực hiện, công trình này chưa nghiên cứu tất cả các nội dung của chế định vật quyền. Đồng thời, cơng trình này được thực hiện tại thời điểm Bộ luật dân sự năm 2015 chưa được thơng qua, nên cũng chưa có những phân tích, đánh giá nhằm hồn thiện các quy

định về vật quyền trong Bộ luật này. Trước thực tiễn này cho thấy, việc thực hiện

<small>dé tài nghiên cứu khoa hoc này là hoàn toàn cân thiệt.</small>

2. Đinh thị Tâm, “Kiện doi lại tài sản- Một số vấn dé Ly luận và thực tiễn ”,

<small>Luận văn thạc sĩ luật học, ĐH Luật Hà Nội, 2012.</small>

Cơng trình này nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu bằng phương

<small>thức kiện địi lại tài sản. Trong đó, cơng trình này tập trung nghiên cứu quy định</small>

trong BLDS 2005 về các van dé như chủ thé kiện đòi tài sản, đối tượng kiện địi,

<small>các trường hợp kiện địi, các trường hợp khơng kiện địi được. Qua đó, cơng</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>hiện, cơng trình này mới chỉ nghiên cứu một nội dung nhỏ trong các phương</small>

thức bảo vệ quyền sở hữu (phương thức kiện địi tài sản) chứ khơng nghiên cứu các phương thức khác (tự bảo vệ, kiện bồi thường, kiện yêu cầu ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm). Hơn nữa, cơng trình này được thực hiện khi Bộ

<small>luật dân sự năm 2015 chưa được thông qua, nên chưa có những phân tích, đánh</small>

giá để bảo đảm việc thực thi có hiệu quả những quy định trong Bộ luật này. Thực tế này cho thấy, việc nghiên cứu đề tài khoa học này là cần thiết.

3. Hà Thi Mai Hiên, “Quyên sở hữu của công dan Việt Nam”, Luận án Phó tiễn

<small>sỹ Luật học, Hà Nội 1996</small>

Cơng trình này được thực hiện tại thời điểm BLDS 1995 đã được thông qua. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài, cơng trình này đã giải quyết được một số van đề ly luận cũng như pháp lý về quyền sở hữu của cơng dân nói chung, ngồi ra cũng đưa ra những định hướng hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu của công dân. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu một cách tổng hợp về quyền sở hữu của công dân chứ không tập trung vào việc phân tích, đánh giá từng quy định cụ thé. Hơn nữa, tại thời điểm cơng trình được hồn thành, các quy định trong BLDS cũng chưa được thi hành trong thực tiễn nên cơng trình chưa có những đánh giá về hiệu quả áp dụng quy định pháp luật cũng như hướng hoàn thiện về thực tiễn áp dụng pháp luật. Ngoài ra, các quy định về nội dung quyền sở hữu, bảo vệ quyền sở hữu đã có nhiều thay đổi ké từ thời điểm cơng trình được hồn thành, nên việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện những van đề được dé cập trong cơng trình này vẫn thực sự cần thiết trong quá trình triển khai đề tài khoa học.

4. Nguyễn Văn Cường, “Một số vấn dé về quyên sở hữu trong BLDS Việt Nam”,

<small>Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội 2000;</small>

Cơng trình này tập trung nghiên cứu một số quy định về quyền sở hữu trong BLDS năm 1995. Trong đó, cơng trình đã nghiên cứu một số nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này như: nội dung cơ bản của quyền sở hữu; bảo vệ quyền sở hữu và thực tiễn giải quyết tranh chấp về sở hữu tại Tòa án. Tuy nhiên, những quy định trong BLDS năm 1995 đã được sửa đồi, bố sung <small>bởi hai BLDS năm 2005 và 2015, nên các nội dung mà công trình này tập trung</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cịn được ghi nhận là một vật quyền độc lập). Do đó, việc nghiên cứu những quy định về quyền sở hữu và vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trong đề tài nghiên cứu khoa học này vẫn là một trong những nôi dung quan trọng cần được triển khai. 5. Lê Thị Ngọc Mai, "Quyên bê mặt - Một số van dé ly luận và thực tiễn ”, Luận

<small>văn thạc sĩ luật học - Hà Nội, 2014</small>

Day là cơng trình nghiên cứu chi tiết về quyền bề mặt, một trong những loại vật quyền được quy định trong BLDS 2015. Trong đó tác giả đã giải quyết được các vẫn đề cả về lý luận và pháp lý có liên quan đến quyền bề mặt như: bản chất pháp lý của quyền bề mặt; quyền bề mặt trong pháp luật của một số quốc gia; quyên sử dụng đất đưới góc nhìn của quyền bề mặt; định hướng xây dựng các quy định về quyền bề mặt trong BLDS... Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu được thực hiện trước khi BLDS năm 2015 được thông qua, nên việc nghiên cứu hầu như chỉ dừng ở góc độ dự đốn và định hướng chứ chưa phân tích các quy định cụ thể từ khi quyền bề mặt được ghi nhận chính thức trong BLDS. Ngoài ra, tác giả cũng chưa làm rõ sự khác biệt giữa quyền của người có quyền bề mặt với quyền của người có quyền sử dụng đất thông qua giao dịch (quyền sử dụng đất của người th đất). Và quan trọng hơn, cơng trình này cũng chỉ mới nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế định vật quyền. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện quy định pháp luật về quyền bề mặt trong mối quan hệ với các quy định khác về vật quyên là cần thiết.

6. Lê Thi Thanh, ”Căn cứ xác lap quyên sở hữu - Một số van dé ly luận và thực tiền ” khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2012

Cơng trình nay tập trung phân tích một số van dé lý luận và pháp lý về căn cứ xác lập quyền sở hữu, đưa ra được một số kiến nghị hoàn thiện quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu có giá trị tham khảo. Tuy nhiên, cơng trình này chỉ nghiên cứu một số căn cứ xác lập quyền sở hữu chứ không nghiên cứu toàn diện các căn cứ xác lập quyên sở hữu trong BLDS. Mặt khác, nội dung các căn cứ xác lập quyền sở hữu đã có nhiều thay đổi từ khi BLDS năm 2015 được thông qua nên việc nghiên cứu cơng trình này vẫn chưa góp phần vào việc giải quyết những vẫn đề vướng mắc có liên quan trong BLDS năm 2015. Do đó, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu trong pháp luật dân sự hiện đại

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

7. Lê Vĩnh Long, ”Căn cứ xác lập quyên sở hữu của cá nhân trong Bộ luật Dân <small>sự năm 2005”, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2013</small>

<small>Trong cơng trình này, tác giả tập trung phân tích quy định trong BLDS</small>

năm 2005 vẻ căn cứ phát sinh quyền sở hữu của cá nhân. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã phân tích và xây dựng khái niệm quyền sở hữu của cá nhân và căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra một số bất cập trong BLDS về căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân. So với phạm vi của đề tài nghiên cứu, cơng trình này mới chỉ nghiên cứu ở một góc độ nhỏ của chế định vật quyền (căn cứ xác lập một loại vật quyền đó là quyên sở hữu) chứ chưa nghiên cứu đầy đủ các căn cứ xác lập các loại vật quyền nói chung (chưa nghiên cứu căn cứ xác lập các vật quyền hạn chế). Đồng thời, cơng trình này cũng khơng đề cập đến các vấn đề khác của chế định vật quyền như căn cứ chấm dứt, bảo vệ vật quyền, ... Hơn nữa, từ khi BLDS năm 2015 được thông qua, các quy định về căn cứ xác lập vật quyền đã có nhiều thay đơi, nên việc tiếp tục nghiên cứu nhằm so sánh những điểm tiến bộ trong quy định của pháp luật về vấn đề này là cần thiết.

8. Hoàng Ngọc Thinh, “Quyên sở hữu của cá nhân và phương thức bảo vệ", Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001

Cơng trình này chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến quyền sở hữu của cá nhân và phương thức bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân. Trong đó, cơng trình nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản như: căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu của cá nhân; phương thức thực hiện quyền sở hữu của cá nhân; bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân theo trình tự hành chính, hình sự và dân sự; thực trạng pháp luật, thực tiễn giải quyết tranh chấp và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Như vậy, so với phạm vi nghiên cứu của đề

<small>tài khoa học mà chúng tơi thực hiện, cơng trình này cũng chỉ tập trung nghiên</small>

cứu một khía cạnh nhỏ của chế định vật quyền. Hơn nữa, cơng trình được thực

hiện khi BLDS năm 1995 đang có hiệu lực thi hành, nên những sửa đổi, bố sung qua hai lần ban hành BLDS không được thê hiện trong cơng trình này, đặc biệt là những thay đổi lớn của BLDS năm 2015. Theo đó, việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định vật quyên là định hướng nghiên cứu phù hợp hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Đây là cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề. Cơng trình này đã giải quyết các vấn đề có liên quan như: các van dé lý luận; căn cứ phát sinh; các nhóm quyền cụ thé trong nhóm quyền sử dụng hạn chế bat động sản liền kề; thực trạng áp dụng pháp luật và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật. Nếu so với phạm vi của đề tài khoa học

<small>mà chúng tôi thực hiện, cơng trình này cũng chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ</small>

trong chế định vật quyền. Hơn nữa, cơng trình này được thực hiện trong thời điểm BLDS năm 1995 đang có hiệu lực thi hành, nên những thay đổi trong quy định pháp luật từ thời điểm đó đến nay không được cập nhật, đặc biệt là những quy định mới trong BLDS năm 2015 về quyên đối với bất động sản liền kề. Do

<small>đó, việc nghiên cứu, triên khai đê tài khoa học này là hoàn toàn cân thiết.Bài báo. tạp chí</small>

1. Bùi Thi Thanh Hang, “Dé xuất nội dung chế định quyên sở hữu cho

<small>2. Bộ luật dân sự Việt Nam tương lai”, Nhà nước và Pháp luật, Viện Nha</small> nước và Pháp luật, Số 1/2015, tr. 59 - 67.

Trong bai viết này, tác giả tập trung vào phân tích dé chỉ ra những bat cập của BLDS năm 2005 về nội dung quyền sở hữu, trong đó đặc biệt là bất cập khi chỉ ghi nhận quyền chiếm hữu là một quyền năng của chủ sở hữu. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra những bất cập của Dự thảo BLDS ngày 05 tháng 01 năm 2015. Qua đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện Dự thảo Bộ luật dân sự này theo hướng: cần phải ghi nhận chiếm hữu là một vật quyền; cần phải xây

dựng khái niệm chiếm hữu theo một học thuyết chủ đạo; cần chỉ rõ thứ tự ưu

tiên vé vị thế giữa người chiếm hữu trước và người đang chiếm hữu vật.

Mặc dù bài viết đã đưa ra những kiến nghị có giá trị tham khảo, tuy nhiên lại chỉ tập trung vào việc xác định chiếm hữu thành một vật quyền độc lập mà chưa có những ý kiến liên quan đến các nội dung khác của chế định vật quyên. Hơn nữa, bài viết được nghiên cứu khi dự thảo BLDS chưa được thông qua và còn nhiều thay đổi nên chưa giải quyết được nhiều vấn đề liên quan đến chế

<small>định này.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

pháp- Văn phòng Quốc hội, Số 1/2014, tr. 25 - 33.

Bài viết này chỉ tập trung vào việc đưa ra những kiến nghị sửa đổi BLDS năm 2005 về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các vật quyền bảo đảm mà chưa nghiên cứu toàn diện về nội dung các vấn đề có liên quan đến vật quyền bảo đảm như: thời điểm xác lập vật quyền bảo đảm; đăng ký bảo đảm; vấn đề xử lý tài sản bảo đảm. Do đó, bài viết chưa giải quyết được triệt để các nội dung có

<small>liên quan đên vật quyên bảo đảm.</small>

3. Đỗ Thành Công, “Quyên doi lại tài sản từ người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật”, Tap chí Toa an nhân dân, Số 15/2010, tr. 24- 30.

Trong bài viết này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu quy định tại các Điều 256, 257, 258 BLDS năm 2005. Xét dưới góc độ bảo vệ quyền sở hữu, bài viết này mới chỉ nghiên cứu và đưa ra quan điểm về một trong các phương thức bảo vệ quyền sở hữu. Tức là phạm vi nghiên cứu của bài viết còn hẹp, chưa giải quyết được nhiều vấn đề có liên quan đến chế định vật quyền. Hơn nữa, bài viết <small>được thực hiện trước khi BLDS năm 2015 được thơng qua, trong khi đó quy</small> định về quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật đã có nhiều thay đổi nên nhiều nội dung trong bài viết khơng cịn tính thời sự cao. 4. Dương Đăng Huệ, “Nên sử dụng khải niệm vật quyền trong Bộ luật Dan sự ”, Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp, Số 13/2015, tr. 4 - 9, 54.

Bài viết được thực hiện trong bối cảnh sửa đổi, b6 sung BLDS năm 2005. Trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề như: tại sao lại có khái niệm vật quyên trong khoa học pháp lý dân sự của các nước Phương Tây; các cách hiểu khác nhau của vật quyền; các loại vật quyền và tại sao Việt Nam phải áp dụng lý thuyết vật quyền vào việc sửa đổi, b6 sung BLDS. Mặc dù bài viết là cơ sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu, xây dựng chế định vật quyền ở Việt Nam, nhưng tác giả chi tập trung vào các vấn dé liên quan đến khái niệm vật quyền mà chưa giải quyết được các nội dung quan trọng khác của chế định vật qun. Do đó, xét về phạm vi thì bài viết mới chỉ bước dau tiếp cận

<small>đên chê định vật quyên chứ chưa nghiên cứu toàn diện về chê định này.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Bài viết này chỉ tập trung vào việc nghiên cứu vấn đề bảo đảm và bảo vệ quyền sở hữu của công dân Việt Nam chứ chưa nghiên cứu đến các nội dung

khác của chế định vật quyên. Hơn nữa, nội dung bài viết được triển khai dưới

góc độ chính trị, kinh tế là chủ yếu chứ chưa đi vào phân tích, đánh giá cụ thể các quy định pháp luật về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu bằng các phương thức kiện dân sự. So với các nội dung được triển khai trong đề tài, bài viết này chưa

<small>nghiên cứu đên các nội dung cụ thê sẽ được triên khai.</small>

6. Hà Thị Mai Hiên “Hoàn thiện pháp luật về sở hữu”, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 21/2013, tr. 3 - 11.

Bài viết này tập trung giải quyết một số nội dung như:

(1) Thực trạng nhận thức lý luận pháp luật về sở hữu, trong đó tác giả chỉ đưa ra các quan điểm về mặc nhận thức về sở hữu mà không đưa ra các khái niệm cụ thê về sở hữu. Ngoài ra, tác giả đưa ra những nhận định về mức độ hoàn thiện của nhận thức lý luận pháp lý về quyền sở hữu, trong đó tác giả chỉ ra pháp luật Việt Nam chưa có cách tiếp cận khoa học về điều chỉnh pháp luật các quan hệ sở hữu; chưa phân biệt rõ sở hữu với quyền sở hữu, quyền tài sản; chưa phân biệt rõ khái niệm vật quyền và trái quyền; phương thức bảo vệ quyền sở hữu

<small>chưa đông bộ, kém hiệu quả; ...</small>

(2) Đánh giá những quy định pháp luật về hình thức sở hữu một cách chung chung chứ chưa có đánh giá những bat cập của từng quy định cụ thé;

(3) Phương hướng và giải pháp hoàn thiện chế định sở hữu ở Việt Nam được đưa ra trong bài viết chỉ mang tính định hướng chung. Tức là tác giả chưa

<small>kiên nghị cụ thê phải sửa đôi quy định nào, sửa đôi như thê nào.</small>

7. Hoang Thị Thúy Hang, “Chế định vật quyên và van dé sửa đổi phan "tài sản và quyên sở hữu" trong Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam”, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 4/2013, tr. 15 — 23.

Bài viết này tập trung giải quyết một số van dé như: (i) Sự can thiết tiếp cận chế định sở hữu trong BLDS trên lý thuyết vật quyên. Trong đó tác giả đưa ra các nguyên tắc của vật quyền làm cơ sở lý giải cho sự cần thiết xây dựng chế định vật quyền trong Bộ luật dân su; (ii) Những hạn chế, bat cập của Phần “Tài

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

sản và quyền sở hữu” trong BLDS Việt Nam và phương hướng sửa đổi BLDS năm 2005. Trong nội dung này, tác giả chủ yếu đưa ra định hướng xây dựng hệ thống các quy định pháp luật về vật quyền chứ chưa có những đánh giá cụ thé về từng quy định cụ thể trong chế định này.

8. Lê Hồng Hạnh, “Sử dung khái niệm quyển tài sản thay cho vật quyển trong

Dự thao Bộ luật dan sự (stra đổi) ” Nhà nước và Pháp luật- Viện Nhà nước va

Pháp luật, Số 4/2015, tr. 3 - 10.

Bài viết này chỉ tập trung giải quyết vẫn đề cần sử dụng khái niệm quyền tài sản thay cho khái niệm vật quyền. Trong đó, tác giả tập trung chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của dự thảo BLDS liên quan đến khái niệm vật quyền. Tác giả cho rằng, tên gọi của phần II không sử dụng khái niệm vật quyền nhưng nội dung của 20 điều trong Dự thảo vẫn sử dụng khái niệm vật quyền là khơng nhất qn. Ngồi ra, tác giả cũng đi vào nghiên cứu khái niệm vật và vật quyền trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Từ những phân tích của mình, tác giả cho rằng BLDS nên sử dụng khái niệm quyền tài sản chứ không nên sử dụng khái niệm vật quyên.

9. Nguyễn Hải An, “Luận bàn về "Quyên sở hữu bê mặt" dưới góc độ vật quyền ”„ Dân chủ và Pháp luật- Bộ Tư pháp, Số 4/2010, tr. 15 - 20.

Bài viết được thực hiện trong bối cảnh sửa đôi, bố sung BLDS năm 2005. Bài viết chỉ tập vào vấn đề quyền sở hữu đối với quyền bề mặt. Theo đó, tác giả bài viết đã phân tích các nội dung có liên quan đến quyền bề mặt trên thực tiễn

trong Bộ luật dân sự cũng như Luật đất đai. Qua đó khăng định các quy định

pháp luật về quyên bề mặt cũng như thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt còn nhiều điểm bất cập. hạn chế. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị sửa đơi, bồ sung các quy định có liên quan đến quyền bề mặt dé tránh những tranh chap có thể xảy ra. Như vậy, bài viết đã phần nào đưa ra những vấn đề cơ bản về quyền bề mặt, nhưng lại được thực hiện trước khi BLDS năm 2015 được thông qua nên chưa đánh giá được những quy định pháp luật cụ thể về quyền bề mặt. 10. Nguyễn Ngọc Điện, “Lợi ích của việc xây dựng chế định vật quyên đối với việc hoàn thiện hệ thong pháp luật tài sản”, Nghiên cứu lập pháp- Văn phòng Quốc hội, Số 2 + 3/2011, tr. 92 — 96.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Bài viết tập trung giải quyết một số van dé cơ bản như: chủ thé của vật quyền có lợi hơn chủ thé của trái quyền; đưa ra định hướng xây dung lại khái niệm tài sản; cần xây dựng lại quan niệm về địa dịch; một số quan điểm về vật quyền và bảo đảm nghĩa vụ. Nhìn chung, bài viết chỉ đưa ra một số quan điểm thé hiện những lợi ích của việc ghi nhận và xây dựng chế định (mà thực chất là khái niệm) vật quyên. Bài viết chưa giải quyết được nhiều van dé cụ thé (quy định cụ thé) về chế định vật quyền như căn cứ xác lập, cham dứt vật quyền; các

<small>loại vật quyên; bảo vệ vật quyên ...</small>

11. Nguyễn Ngọc Điện, “Quyển sở hữu và quyên chiếm hữu - bài học về tính hướng luật xa rời thực tién” Nghiên cứu lập pháp- Văn phòng Quốc hội, Số 2 + <small>3/2013, tr. 56 - 62.</small>

Bài viết này chỉ tập trung vào quyền sở hữu và quyên chiếm hữu, nhưng tac giả khơng đi vào phân tích cụ thé các quy định pháp luật về quyền sở hữu và quyền chiếm hữu mà lại tập trung vào các nội dung như: Khái quát một cách cơ bản nhất nội dung của quyền sở hữu và chiếm hữu theo pháp luật của một số nước tiên tiễn; Đưa ra một số quan điểm cá nhân về quyền sở hữu và chiếm hữu trong luật Việt Nam; kiến nghị viết lại các điều luật liên quan đến quyên sở hữu và chiếm hữu. Nghiên cứu bài viết cho thấy, tác giả khơng tập trung vào việc phân tích, đánh giá cũng như không đưa ra những định hướng cụ thé nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về vật quyên.

12. Nguyễn Ngọc Điện, “Sự cẩn thiết của việc vận dung lý thuyết về vật quyên bảo đảm vào quả trình sửa đổi Bộ luật dân sự”, Nghiên cứu lập pháp- Văn phòng Quốc hội, Số 2 + 3/2014, tr. 39 - 46.

Trong bài viết nay, tác giả chi tập trung vao việc phân tích, đánh giá và sự cần thiết của việc công nhận vật quyên bảo dam, cụ thé: trên cơ sở sự hình thành lý thuyết về vật quyền trong luật Latinh, tác giả cho rang vật quyền bảo đảm là hệ quả tất yêu của sự phát triển lý thuyết vật quyên; tác giả đưa ra những đặc điểm của vật quyền bảo đảm; tác giả cho rằng sự thiếu vắng lý thuyết vật quyền trong quan hệ bảo đảm dẫn đến những khó khăn, bề tắc trong việc xử lý tài sản bảo đảm khi người bảo đảm không chịu hợp tác dé xử lý tai sản bảo đảm, điều đó cũng dẫn đến những kiểu ứng xử phi chuẩn mực trong quá trình xử lý nợ. Như vậy, nội dung bài viết chỉ hướng tới xác định vai trò của lý thuyết vật quyền trong quan hệ

<small>bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (sự cân thiệt của việc xây dựng vật quyên bảo</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

đảm trong dự thảo BLDS sửa đổi). Xét về phạm vi, bài viết mới chỉ giải quyết một phan nhỏ trong toàn bộ nội dung của chế định vật quyền.

13. Nguyễn Ngọc Điện, “Sự cần thiết của việc xây dựng các chế định vật quyên và trai quyên trong luật dân sự”, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số <small>23/2010, tr. 56 - 61.</small>

Nội dung bài viết chỉ tập trung vào việc phân biệt khái niệm vật quyền và

trái quyền, và những lợi ích của việc phân biệt hại khái niệm này. Qua những

phân tích này, tác giả chỉ ra sự cần thiết của việc xây dựng các chế định vật quyền và trái quyền trong BLDS. Mặc dù bài viết đã đưa ra được những cơ sở lý luận quan trọng để xây dựng hệ thống vật quyền và trái quyền trong Luật dân sự, nhưng bài viết không đi vào phân tích, đánh giá cụ thể cũng như khơng có kiến nghị sửa đổi, bổ sung cụ thé các quy định về vật quyền trong pháp luật dân

<small>sự Việt Nam.</small>

14. Nguyễn Ngọc Điện, “Xáy dựng lại chế định chiếm hữu bằng chất liệu khoa học phù hợp ”, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 14/2010, tr. 26 - 32.

Trong bài viết này, tác giả đã làm rõ một số nội dung như sau: (i) nghiên cứu về chiếm hữu trong luật các nước như La Mã cô đại, luật của các nước Châu Âu; (ii) chỉ ra những điểm bat hop lý trong BLDS năm 2005 về chiếm hữu; dé xuất tách quyền chiếm hữu ra khỏi quyền sở hữu. Như vậy, qua nghiên cứu có thé thấy bài viết chi tập trung vào phân tích dé kiến nghị xây dựng chiếm hữu thành quyền độc lập mà chưa có những phân tích, đánh giá cụ thé các quy định về chiếm hữu.

15. Phạm Văn Tuyết, “Quyển sở hữu và các vật quyên khác trong Dự thảo Bộ

luật dân sự (sửa đổi) ” Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số đặc

biệt: Góp ý hồn thiện Dự thảo BLDS (sửa d6i)/2015, tr. 92 - 96.

Đây là cơng trình nghiên cứu, đánh giá một số nội dung về quyền sở hữu va các vật quyên khác trong dự thảo sửa đổi BLDS. Tuy nhiên, thời điểm cơng trình này được thực hiện, có nhiều dự thảo khác nhau đã được ban hành, và đặc biệt BLDS 2015 được thơng qua đã có nhiều thay đổi rõ rệt so với các nội dung được phân tích trong cơng trình này. Mặc dù nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá và hồn thiện trong cơng trình này vẫn có giá trị về mặt khoa học cho đến thời điểm hiện nay song nếu chỉ dừng lại ở đây thì tính thời sự của những nội dung

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

được nghiên cứu trong bài viết sẽ giảm đi. Do đó, việc triển khai đề tài nghiên cứu khoa học để tiếp tục phát triển những quan điểm khoa học trong cơng trình này, đồng thời nhằm hồn thiện quy định có liên quan trong BLDS năm 2015 là

<small>hồn toàn cân thiệt.</small>

16. Vũ Thi Hồng Yến, “Ap dung nguyên tắc vật quyên nhằm khắc phục những han chế của chế định tài sản và quyên Sở hữu trong Bộ luật dân sự”, Luật học, Trường

Đại học Luật Hà Nội, Số đặc biệt: Góp y hồn thiện Dự thảo BLDS (sửa d6i)/2015,

<small>tr. 82 - 91.</small>

<small>Cơng trình nay được thực hiện trước khi BLDS năm 2015 được thơng qua.</small>

Trong đó tác giả tập trung vào việc nghiên cứu các vấn đề cơ bản như: các nguyên tắc cơ bản của chủ thuyết vật quyền; hệ quả pháp lý của học thuyết vật quyền; hạn chế của chế định tai sản và quyền sở hữu trong BLDS năm 2005, trong dự thảo và những kiến nghị. Mặc dù đây là những nghiên cứu được đưa ra gần với thời điểm

<small>BLDS năm 2015 được thơng qua, nhưng những nội dung có liên quan mà cơng</small>

trình này triển khai đã được thay đổi cơ bản trong BLDS năm 2015. Những thay đổi này cũng có những điểm hợp lý và bất hợp lý cần phải được giải quyết triệt đề, <small>nhăm bảo đảm việc áp dụng có hiệu quả trên thực tê.</small>

Ngồi những cơng trình kế trên cịn nhiều cơng trình khác được đăng trên các báo, các tạp chí nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau của vật quyên. Tuy nhiên, các cơng trình nêu trên và các cơng trình khác đều chỉ nghiên cứu một nội dung đơn lẻ hoặc đề cập đến vật quyền dưới một góc độ cụ thé chứ chưa đi nghiên cứu tổng thé về vật quyền cũng như hoàn thiện chế định vật quyền trong pháp luật dân sự.... Có thể nói, tính đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có một đề tài nghiên cứu khoa học nào được thực hiện dé nghiên cứu một cach tồn diện nhất về vật quyền nói chung và chế định vật quyền trong pháp luật Dân sự

<small>nói riêng.</small>

2.2. Tình hình nghiên cứu dé tài ở nước ngồi

Cho đến thời điểm hiện tại, có nhiều cơng trình nghiên cứu về vật quyền ở <small>nước ngồi ví dụ như: (1) Stoebuck, W. B., and Dale A. Whitman, The Law ofProperty, 3rd. ed. St. Paul MN: West Group Publishing, 2000; (2) Thomas,</small>

<small>David A., ed., Thompson on Real Property, Charlottesville VA: Michie Co,1996; (3) Ackerman, B., R. Ellickson, and C.M. Rose, Perspectives on Property</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>Law, 3rd ed., Aspen Law and Business, 2002; (4) Tom Belthell, NoblestTriumph: Property and Prosperity through the Ages, St Martin's Press,1998. (5) Jeremy Waldron, The Right to Private Property, Oxford Univ. Press,</small>

1988. Tuy nhiên, các cơng trình trên hoặc các cơng trình khác đều nghiên cứu về lý thuyết chung về tai sản, luật về tài sản hoặc quyên tài sản nói chung... mà chưa có cơng trình nào nghiên cứu về chế định vật quyền trong pháp luật dân sự

<small>Việt Nam.</small>

3. Mục dich và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Mục đích nghiên cứu dé tài

<small>+ Làm sáng tỏ những van dé lý luận co bản vê vật quyền, cung cap hệ lý</small>

luận cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về vật quyên.

+ Dua ra những luận điểm, luận cứ về việc điều chỉnh quan hệ vật quyền

<small>trong BLDS Việt Nam.</small>

+ Đánh giá được những những nội dung tiến bộ và chưa phù hợp của chế định vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại trong sự so sánh với lý

<small>luận và pháp luật của một sô quôc gia trên thê giới.</small>

<small>+ Đưa ra những kiến nghị cụ thé dé hoàn thiện và nâng cao hiệu quả điều</small> chỉnh pháp luật của chế định vật quyền góp phan thúc đây giao lưu dân sự phát triển góp phần hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

<small>Việt Nam.</small>

- Pham vi nghiên cứu dé tài:

Đề tài tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp

luật dân sự Việt Nam về vật quyên, cụ thể:

- Nghiên cứu các van dé lý luận co ban về vật quyền như khái niệm, đặc

điểm, nguyên tắc, nội dung của vật quyền, các loại vật quyền và mỗi liên hệ

giữa các vật quyên.

- Nghiên cứu lược sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về chế định vật quyền dé làm sáng tỏ quá trình thay đổi, phát triển của các nội dung này trong hệ thống pháp luật.

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về vật quyền đặt

<small>trong môi quan hệ so sánh với pháp luật của một sô quôc gia trên thê giới.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Trong sự giới hạn về thời gian và phạm vi, đề tài không đi nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vật quyền. Hy vọng trong tương lai gần sẽ có các cơng trình khác nghiên cứu một cách toàn diện hơn vẻ van đề thực thi chế định vật quyền tại Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác- Lénin dé làm sáng tỏ môi quan hệ biện chứng giữa lý luận và pháp luật; phương pháp luận duy vật lịch sử để đánh giá và kiểm nghiệm sự kế thừa và phát triển của chế định vật quyền qua các giai đoạn lịch sử.

Đề tài có sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích dé làm rõ các van đề lý luận, các quy định của pháp luật về vật quyền; phương pháp so sánh để làm rõ sự tương đồng và khác biệt của pháp luật Việt Nam đương thời với pháp luật trước đây cũng như với một số quốc gia trên thế giới có chế định vật quyền phát triển; phương pháp khái quát, tổng hợp dé làm đưa ra những kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vật quyên... 5. Những kết quả đạt được của đề tài

Qua thời gian nỗ lực nghiên cứu của nhóm tác giả, đề tài đã hoàn thành các mục tiêu đặt ra và đạt được những kết quả nhất định:

(1) Dé tài đã làm sáng tỏ những van dé lý luận cơ bản về vật quyền như khái niệm, đặc điểm, các loại vật quyền và nguyên tắc của vật quyền.

(2) Dé tài đã khái quát được quá trình phát triển của pháp luật dân sự Việt

Nam về vật quyên, trên cơ sở đó chỉ ra được những điểm tiễn bộ của pháp luật

làm cơ sở kế thừa và hoàn thiện pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại.

(3) Đề tài nghiên cứu sâu, toàn diện các quy định chung về vật quyền như

xác lập, thực hiện, chấm dứt vật quyên, bảo vệ vật qun. .. mà trước đây chưa có

<small>cơng trình nào nghiên cứu.</small>

(4) Đề tài đánh giá được những điểm tiễn bộ và hạn chế của BLDS Việt Nam về vật quyền trong sự so sánh đối chiếu với lý luận và pháp luật các nước.

(5) Đề tài đã đưa ra được những kiến nghị cụ thé hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế định vật quyên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

6. Kết cầu báo cáo tong hop của đề tài

Chương 1: Những van dé lý luận cơ bản về vật quyền

Chương 2: Chế định Vật quyền trong pháp luật Dân sự Việt Nam

Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện chế định vật quyền trong pháp luật

<small>dân sự Việt Nam</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>CHUONG 1</small>

NHUNG VAN DE LY LUAN CO BAN VE VAT QUYEN 1.1. Khai niệm va đặc điểm vật quyền

1.1.1. Khái niệm vật quyên

Quyền đối với vat (real right) và quyền yêu cầu hay trái quyền (right under an obligation —or personal right) đã tồn tai từ trong pháp luật La Mã (cách đây hơn 2000 năm). Trên cơ sở các quy định vật quyên, pháp luật đã xác lập thẩm quyên (quyển năng) trực tiếp và thường xuyên của chủ thé - người có quyền sử dụng toàn bộ hay một phần hoặc toàn bộ đồ vật nằm trong các quan hệ vật quyền vì lợi ich của mình!. Mặc dù các luật gia La Mã không nêu ra định nghĩa cụ thé về vật quyền nhưng khái niệm vật quyên và trái quyền đã tồn tại từ thời kỳ này. Đến thời kỳ cận đại, BLDS đầu tiên và nỗi tiếng trên thế giới (Bộ luật Napoleon — 1804) cũng đã ghi nhận về các loại vật quyền.? Theo thời gian, việc vận dụng lý thuyết vật quyền - trái quyền đem lại lợi ích chung cho tất cả các hệ thống pháp luật dân sự, từ phương diện cấu trúc lập pháp, đến phương diện thực tiễn.

Trong quan niệm của người La Mã cô đại, vật quyền (jus in re) được hiểu là quyền được chủ thé (người có quyên) thực hiện trực tiếp và tức thì trên một vật mà khơng can vai trò trung gian của một người khác?. Quan hệ vật quyền trên nguyên tắc hình thành từ hai yếu tố: chủ thé của quyền (con người) và đối tượng của quyền (vật). Quan hệ ấy vận hành mà không cần đến vai trò của một chủ thể khác, đặc biệt là không cần sự hợp tác hoặc trợ lực của chủ thé khác. Moi chủ thé khác đều phải tôn trong quyền nay‘. Tính chat trực tiếp va tức thi của vật quyền được thể hiện trong cách thức tác động bằng hành vi vật chất và cả hành vi pháp ly của chủ thé lên đối tượng của quyền. Chang han, chủ sở hữu một chiếc xe có

<small>thê tự mình đi xe hoặc đem cho mượn, cho thuê mà không cân sự đông ý của</small>

<small>! Nguyễn Ngọc Đào (2000), Luậi La Mã, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai, tr. 32.</small>

<small>2 BLDS Phap da quy dinh về quyền sở hữu, quyền hưởng hoa lợi, lợi tức, quyền sử dụng, quyền cư dụng va</small>

<small>quyền địa dịch.</small>

<small>3 Xem, F. Terré va Ph. Théry, Droit civil- Les biens, Dalloz, Paris, 1992, tr. 30 ; Ph. Malaurie va Laurent Aynés,</small>

<small>Droit civil-Les biens, Cujas, Paris, 1998, tr 87.</small>

<small>4 Chang hạn như chủ sở hữu tài sản có quyền kiện địi lại tài san của minh đang nằm trong tay người khác; chủnợ nhận thé chấp có quyền kê biên tài sản thé chap dé bán và ưu tiên thu tiền trừ nợ mà chủ sở hữu cũng như batkỳ ai khác khơng có quyền phản đối.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

người nào khác. Tương tự, người có quyền hưởng dụng được hưởng hoa lợi từ tai

<small>sản (ví dụ: hái quả, lây g6,...) mà khơng ai có qun can thiệp”.</small>

Như vậy, theo cách hiểu trên thì khái niệm vật quyền được dùng theo cách của người La Mã cơ đại có nghĩa hẹp - là quyền được thực hiện trực tiếp trên một vật chất cụ thé và xác định khái niệm vật (res) sẽ không bao ham tài sản như cổ tức, trái phiếu, chứng khoán, quyền ưu tiên, quyền tương lai, quyền đối với tài sản cầm có, thế chap... Tuy nhiên, có thé thay răng một số loại tài sản như giấy tờ có giá, quyền tài sản khơng được đề cập đến trong pháp luật La Mã là bởi chúng chưa xuất hiện và tồn tại trong đời sống kinh tế của La Mã cô dai. Hơn nữa, khi nghiên cứu về khái niệm vật quyền trong pháp luật La Mã, tác giả Edinburgh cho

rằng: “Mot thứ gi do (thing) được nhìn nhận là vat (res) trong luật La Ma là thứ

mà người La Mã dùng để chỉ tài sản thuộc sở hữu của một người nào đó

<small>(person s property). Vat (res) trong luật La Ma không chỉ là vật với nghĩa “vat</small>

chat” và “hữu hình” mà cịn bao gơm cả những thứ “phi vật chat” và “vơ hình” giống như qun đối với tài sản. Nói cách khác, vật (res) trong luật La Mã dùng để chỉ tất cả những thứ mà có thể là đối tượng của một quyên hoặc thơng qua nó dé các quyền được thực hiện bởi các chủ thể, bao gom các đổi tượng vật chat (vat) và tai sản vơ hình (qun) như qun thừa kế, dich quyén,...°

<small>Trong quan niệm của các nước theo văn hoá pháp lý Romano-Germanic,</small>

cũng như trong khoa học pháp lý hiện đại ngày nay, đối tượng của vật quyền không chỉ được hình dung là một yậz cụ thể, mà vật quyền được hiểu là quyền của một chủ thể đối với một tai sdn’, cho phép chủ thé trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với một tdi sadn’. Theo tiếng Anh, thuật ngữ “things” với thuật ngữ property (tài sản) có nội hàm về cơ bản là

<small>giông nhau”. "Things” được hiệu là những đôi tượng của sự chiêm hữu hoặc5 Xem: PGS,TS. Nguyễn Ngọc Điện. “Lợi ích của việc xây dựng chế định vật quyên đối với việc hoàn thiện hệthống pháp luật tài sản” tại website:</small>

<small> page id=&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=6180489</small>

<small>5 R.D. Mellville, A manual of the priciples of Roman Law relating to persons, property and obligation, nhà xuất</small>

<small>ban W. Green & Son, Edinburgh, 1915, trang 197.</small>

<small>7 Gullifer (L.) (ed), Goode on Legal Problems of Credit and Security, Sweet & Maxwell, 4" edn, 2008, paras. </small>

<small>1-06 and 107 and 1-17 and seq.</small>

<small>8 Xem: F. Terré va Ph. Théry, Droit civil- Les biens, Dalloz, Paris, 1992, tr. 30 ; Ph. Malaurie va Laurent Aynés,</small>

<small>Droit civil-Les biens, Cujas, Paris, 1998, tr 87</small>

<small>? Tuy nhiên, khi dich ra tiếng Việt và trong quy định pháp luật một số nước như Đức, Nhật, từ "things" lại biếnthé thành nghĩa “vá?” - được hiểu là cái có hình khối, có thể nhận biết được, điều này làm cho khái niệm "vậtquyền" được nhiều người hiểu với phạm vi hẹp hơn rất nhiều nội hàm thuật ngữ quyền đối với tài sản</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

được hiểu là tài sản. Bên cạnh đó, khái niệm “property” (tài sản) được định nghĩa theo nghĩa rộng hơn và tiếp cận ở góc độ pháp lý, là toàn bộ những quyền mà một chủ thể có được đối với một tài sản nhất định và được Nhà nước bảo vệ!?, Với cách hiểu này, khái niệm tài sản được mở ra đối với bat cứ loại quyền và lợi ích có giá tri nào theo không gian đa chiều, bao gồm cả tài sản cố định va

<small>tài sản lưu động, hữu hình và vơ hình, tài sản đã hình thành hoặc chưa hình</small>

thành, vấn đề nhượng quyền, địa dịch... Khái niệm tài sản rộng, có tính khái

qt cao nên hệ thống pháp luật của nhiều nước đã phát triển thành quyền tài sản. “Tai sản không phải là một vật mà là một quyên hoặc một loạt quyên được cưỡng chế thực hiện trong quan hệ với những người khác. Giải thích cách khác, thuật ngữ tài sản có nghĩa là những quan hệ giữa con người liên quan đến các yêu câu đối với những thứ hữu hình va vơ hình”!'. Ngày nay, thuật ngữ vật quyền (real right) đang dần được thay thé bởi một thuật ngữ hiện đại hon là quyền đối với tài san (“property right” hoặc “law on property”), được hiểu là "uyên mà một người có đối với tài sản và có tinh doi kháng với người khác `2.

Như vậy, cùng với sự phát triển của lý luận và pháp luật, khái niệm vật quyên trong xã hội hiện đại ngày nay có thé được hiểu dưới hai góc độ chủ quan

<small>và khách quan.</small>

Theo nghĩa chủ quan vat guyén có thé được hiểu là quyên của một chủ thé bằng hành vi của mình tác động lên tài sản theo ý chí của mình mà khơng phụ thuộc vào người khác để nhằm thỏa mãn lợi ích của mình. Theo nghĩa này vật quyền là quyền đối vật cho phép chủ thé trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với tài sản, khác với trái quyền là quyền của một

người yêu cầu một người khác thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất

định (quyên đối nhân).

Theo nghĩa khách quan thì vật qun là tồn bộ các quy phạm pháp luật quy định về các loại vật quyên và nội dung của từng loại vật quyên, vé căn cứ phát sinh, chấm dứt các loại vật quyên, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ vật quyên, <small>về các hạn chê quyên mà người có vật quyên phải tuân thủ khi thực hiện các</small>

<small>!9 Black Law Dictionary, Sixth Edition, St Paul, Minn, West Publishing Co., 1990, 1216.</small>

<small>!! Xem: GS.TS. Lê Hồng Hạnh - “Sử dung khái niệm quyền tài sản thay cho vật quyền trong Dự thao Bộ luật</small>

<small>Dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 04/2015.</small>

<small>12 Calnan (R.), Proprietary Rights and Insolvency, Oxford University Press, 2010.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

quyên năng của mình!3. Theo nghĩa này thì vật quyền được hiểu là một chế định pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật về vật quyền được ghi nhận trong pháp luật dân sự dé phan biét voi cac chế định khác như chế định thừa ké, hợp đồng, hoặc bồi thường thiệt hại...

1.1.2. Đặc điểm pháp lý của vật quyên

Vật quyền với cách hiểu chung nhất là quyền của một người đối với một vật, là quyền chi phối trực tiếp của người đó đối với vật. Vật quyền là quyền

tuyệt đôi, áp dụng đối với tất cả mọi người. Trên cơ sở đó, vật quyền hàm chứa

những đặc điểm pháp lý nhất định của nó mà trên ngun tắc, quyền đối nhân (trái quyền) khơng có, đó là!*:

Tứ nhất, tính đối vật (qun chỉ phối trực tiếp với vật)

Phải khẳng định rằng thông qua vật quyền cho phép chủ thể có quyền được trực tiếp tác động lên tài sản hay là quyền chi phối trực tiếp đối với tài sản đó. Vật quyền thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa người có quyền và tai sản.

Tính đối vật của vật quyền thê hiện sự chỉ phối của các chủ thê lên tài sản. Các

chủ thé thực hiện vật quyền thông qua hành vi của mình nhằm tác động trực tiếp lên tài sản như năm giữ, khai thác công dụng, sử dụng, bảo quản, giữ gìn tài sản....Tính đối vật trong vật quyền thê hiện mối liên hệ trực tiếp giữa người với vật (tài sản) mà khơng cần có vai trị của bất kỳ người thứ ba nào khác. Đồng thời, tính đối vật của vật quyền cịn thê hiện thơng qua các trường hợp là trực tiếp tác động lên tài sản của mình hoặc trực tiếp tác động lên tài sản của người khác. Quyền sở hữu là một vật quyền thể hiện sự trực tiếp tác động lên tài sản của minh. Chủ sở hữu có quyền tự mình nam giữ, chi phối tài sản, tự mình khai thác cơng dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản hoặc định đoạt về mặt pháp lý hoặc về mặt thực tế đối với tài sản. Ngồi ra, chủ thé có vật quyền có thé trực tiếp tác động lên tài sản của người khác thé hiện thông qua các vật quyền khác như Quyền hưởng dụng, Quyền bề mặt, Quyên địa dịch... Trong khi quyền đối

<small>'3PGS. TS Dương Đăng Huệ (2015), Nên sử dung khái niệm vật quyên trong Bộ luật Dân sự, Tạp chí Nghiên</small>

<small>cứu lập pháp, Văn phịng Quoc hội, sô 13 (293)/2015, Tr. 5.</small>

<small>! Xem thêm: PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, “Góp ý sửa đổi BLDS — Vận dụng lý thuyết vật quyền vào việc hoànthiện pháp luật về tài sản”, tại website:</small>

<small> 1 4/duthaoboluatdansu/UserControls/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/dtblds/Lists/TinTuc&ListlId=8993ced7-82ed-4a34-80e9-465099dbfl </small>

<small>70&Siteld=5a26f722-7f89-4244-ba6d-c2d0d7ad02da&ItemID=36&OptionLogo=0&SiteRootID=63d81917-clc4-48e4-bebb-f2afcd969 1e5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<small>nhân địi hỏi người có qun phải u câu người có tài sản thực hiện nghĩa vụgiao tài sản hoặc lợi ích vật chât găn liên với tài sản cho mình.</small>

<small>Thứ hai, tính tuyệt doi (có hiệu lực doi với tat ca mọi người)</small>

Vật quyền có hiệu lực đối với tất cả mọi người và phải được mọi người

tôn trọng. Vật quyền được bảo vệ một cách tuyệt đối, không bị xâm phạm bởi

bat kỳ chủ thé nào khác. Tat nhiên, để đối kháng được với người thứ ba, thì điều cần thiết là vật quyền phải được người thứ ba nhận biết rõ ràng, chứ không thể tồn tại một cách mập mờ, lúc ẩn, lúc hiện. Khi vật quyền có hiệu lực thì mọi người khác trong xã hội đều phải có nghĩa vụ tơn trọng người có vật quyền, khơng được xâm phạm đến quyền của người có vật quyền. Dé bảo đảm quyền của người có vật quyên, pháp luật dân sự quy định cho người có vật quyền đối với tài sản được quyền tự mình sử dụng mọi biện pháp khơng trái với quy định của pháp luật nhằm bảo vệ, ngăn chặn người khác có hành vi xâm phạm quyền của minh. Đồng thời, họ cũng được quyền khởi kiện chống lại mọi hành vi xâm phạm từ phía chủ thể khác.

Đối lập với việc bảo vệ vật quyền, trái quyền cũng được pháp luật bảo vệ nhưng khơng mang tính tuyệt đối giống như bảo vệ vật quyền. Trái quyền chỉ được bảo vệ một cách tương đối khỏi sự xâm phạm của chủ thê mang nghĩa vụ xác định. Người có trái quyền có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ của mình để bảo đảm quyền, lợi ích của mình. Việc u cầu này chỉ có tác động đối với bên vi phạm nghĩa vụ mà không ảnh hưởng đến những người khác trong xã hội. Ví dụ: bên bán có quyền u cầu bên mua trả tiền hàng cho mình khi đến

<small>hạn phải trả.</small>

Thứ ba, tinh lâu dài của vật quyên

Các vật quyền ton tại lâu dài, không bị hạn chế bởi thời gian cu thể. Tính lâu dài của vật quyền khơng được hiểu là ton tại mãi mãi, vô thời hạn, không có thời điểm xác định mà sự tơn tại của các vật quyền thường gan liền với sự tồn tại của tài sản. Người có vật quyền sẽ có quyên tác động, chi phối đến tai sản trong khoảng thời gian dài. Vật quyền sẽ mất đi trong trường hợp tài sản đó khơng cịn tồn tại nữa. Đối với chủ thé mang vật quyền sẽ có được vật quyền lâu dài kế từ khi được xác lập vật quyền. Nếu vật quyền được chuyên dịch từ chủ thể này sang chủ thé khác thì vật quyền đó sẽ tiếp tục tồn tại đối với chủ thé mới thé

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

quyên. Tính lâu dài của vật quyền cũng là một tính chất nhằm để phân biệt giữa vật quyền và trái quyền. Trái quyền chỉ tồn tại trong một khoản thời gian xác định cụ thé mà đã được xác định theo thoả thuận giữa các bên hoặc được xác <small>định theo tập quán hoặc quy định của pháp luật.</small>

Thứ tư, tinh theo đuổi vật

Vật quyên cho phép người có qun thực hiện qun của mình đối với tài sản bắt ké vật dang nam trong tay bắt kỳ người nào, trong bat kỳ hoàn cảnh nào. Đặc tinh này được hiểu là người có quyên đổi vật có thể thực hiện qun của mình đối với tài sản, bat kể tài sản dang nằm trong tay người nào và trong bat kỳ hồn cảnh nào!Š. Đây chính là tính dõi theo vật được thé hiện trong các vật quyên. Tức là, chủ thể có vật quyền có quyền được tác động lên tài sản của mình dù cho tài sản đã được chuyên dịch, nam trong sự kiểm soát của bất ké chủ thé nào khác trong xã hội. Khi thay đổi chủ sở hữu tài sản (quyền sở hữu tài sản được dịch chuyên từ chủ thê này sang chủ thê khác) thì các vật quyền khác đang ton tại đối với tài sản vẫn được bảo lưu. Ví du: Chủ sở hữu của đại dịch hưởng quyền vẫn được thực hiện quyền của mình trên bất động sản chịu địa dịch dù bất động sản chịu địa dịch đó được chuyên nhượng lần lượt cho nhiều người; chủ sở hữu tài sản thế chấp phải tôn trọng quyền kê biên tài sản của chủ nợ nhận thế chấp; chủ sở hữu có quyền kiện địi lại tài sản của mình do người khác chiếm giữ mà khơng có sự đồng ý của mình...

Tính theo đi vật hay tính dõi theo vật được thê hiện rất rõ ràng trong pháp luật một số nước. Điển hình, trong pháp luật của Pháp, người được chuyển nhượng tài sản thé chấp không phải là người bảo lãnh đối vật. Don giản, chủ nợ nhận thé chấp ln có tài sản thé chấp để bảo đảm cho việc thu hơi nợ. Người mắc nợ có thể chuyển nhượng tài sản thé chấp mà chủ nợ không thé phan doi; nhưng, khi nợ đến han, chủ nợ có quyên yêu cau kê biên tài san thé chap để ban và nhận tiền thanh tốn, dù lúc đó tài sản khơng cịn thuộc về người mac nợ'9.

Đặc tính dõi theo vật cịn mang ý nghĩa rất quan trọng đó là đảm bảo cho sự ton tại độc lập của các vật quyền khỏi sự lệ thuộc vào quyền sở hữu. Do đó, các vật qun khác ngồi qun sở hữu vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyên

<small>!5Nguyễn Ngọc Điện (2000), nghiên cứu về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh,</small>

<small>2000, tr. 124. ;</small>

<small>'6 Nguyễn Ngọc Điện (2000), nghiên cứu về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh,2000, tr. 125.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

sở hữu được chuyên giao. Việc không lệ thuộc giữa vật quyền khác so với quyền sở hữu cũng là dé khang định tính chất tuyệt đối của các vật quyên.

Tht năm, việc thực hiện vật quyên không làm cham dứt vật quyên

Các chủ thé có vật quyền sẽ thực hiện các hành vi tác động lên tài sản theo nội dung của vật quyền đó (vi dụ như sử dụng ngơi nhà, dùng lối đi, hưởng

hoa lợi từ khai thác bề mặt đất...). Tuy nhiên, một điểm quan trọng là khi các

chủ thé này thực hiện vật quyền không làm chấm dứt vật quyền. Đây là một đặc điểm cơ bản dé phân biệt vật quyền với trái quyền. Ví dụ: khi một chủ thé có quyền địa dịch về lối đi trên đất nhà hàng xóm thì việc thực hiện qun về lối đi này liên tục, lâu dai và không mất đi. Vật quyên sẽ ton tại trong suốt quá trình ton tại của tài sản. Trong khi đó, việc thực hiện trái quyền sẽ là căn cứ làm cham dứt trái quyền. Bản chất trái quyền là quyền đối nhân, là quyền yêu cầu người khác thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định để đem lại lợi ích cho người yêu cầu. Do đó khi bên có nghĩa vụ thực hiện xong thì nghĩa vụ được coi là hoàn thành và quan hệ nghĩa vụ chấm dứt.

Thư sau, tính dịch chuyển được

Tính dịch chuyên được cũng là một đặc tính của vật quyên. Tính dịch

chuyên được hiểu là vật quyền có thé được dịch chuyên từ chủ thé này sang chủ thê khác. Tính dịch chuyên được kết hợp với tính tuyệt đối đảm bảo cho các vật qun có tính độc lập trong việc dịch chun. Ngồi chủ sở hữu thì khi một chủ thê được cấp quyền bề mặt, quyền địa dịch hoặc quyền hưởng dụng muốn dịch chuyển quyền sang cho chủ thể khác cũng không cần đến sự đồng ý, cho phép của chủ sở hữu tài sản. Đặc tính này cũng là đặc tính nhằm làm rõ sự khác biệt giữa vật quyền và trái quyền. Ví dụ, trường hợp A thuê đất dài hạn của B, thời hạn thuê đất chưa hết, nhưng nếu A muốn cho thuê lại mảnh đất trên cho C thì cần phải có sự cho phép của B. Bản chất việc thuê đất dài hạn khác với việc A được cấp quyền bề mặt đối với mảnh đất trên. Trường hợp A thuê đất dài hạn, A chỉ được quyền sử dụng đất đó theo đúng với thoả thuận được hai bên ghi nhận, do vậy, khi chuyên nhượng lại cho C thì nhất thiết cần phải có ý kiến của chủ đất là B. Khi A có quyền bề mặt (với đặc tính chuyển dịch được và tính tuyệt đối), thì trong thời hạn được cấp quyền, A có tồn quyền dịch chuyển

<small>qun bê mặt mà khơng cân có sự đơng ý của chủ sở hữu đât là B.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Thứ bảy, vật quyên cho phép người có quyên được ưu tiên thực hiện quyên của mình đối với tài sản

Vật quyền cho phép người có quyền thực hiện quyền của mình đối với tài sản nhăm thỏa mãn lợi ích theo đi trước những người khác, đặc biệt là những người theo đi có cùng lợi ich đó. Qun này gọi là quyền ưu tiên”. Người có quyền đối vật có thé loại tat cả những người có quyền đối nhân và cả những người có quyền đối vật xếp sau minh theo thứ tự đăng ký ra khỏi cuộc chạy dua nhằm thực hiện các quyền đối với tài sản liên quan. Người mua tài sản, sau khi quyền sở hữu tài sản mua đã được chuyên giao mà tài sản chưa được giao, có quyền ưu tiên đối với tài sản so với các chủ nợ của người bán trong trường hợp người bán lâm vào tình trạng phá sản. Nếu người mua tuyên bồ nhận tài sản, thì các chủ nợ của người bán khơng có quyền u cầu kê biên tài sản đó!Š. Trong thực tiễn, quyền ưu tiên của người có quyền đối vật được thể hiện rõ nét qua việc thực hiện quyền của người nhận cầm có, nhận thé chấp tài sản. Những người này có quyền được ưu tiên thanh tốn bằng số tiền bán tài sản thế chấp hoặc cầm cố trước các chủ nợ khơng có bảo đảm. Đặc điểm này nhằm phân biệt rõ giữa vật quyên và trái quyên, tức là người có vật quyền được ưu tiên hơn so với người có trái qun.

<small>Thứ tám, tính lợi ích</small>

Các vật quyền khi được xác lập ln nhằm mục đích mang lại lợi ích cho chủ thé mang quyền. Các chủ thé có vật quyền sẽ có những lợi ích nhất định như được sử dụng bề mặt, được hưởng dụng tài sản, được dùng lỗi đi qua đất của người khác...Có thê nói khi chủ thé xác lập vật quyền thì sẽ gan liền với những lợi ích nhất định được đi kèm với loại vật quyền đó. Tính lợi ích của vật quyền không phải là đặc điểm cơ bản để phân biệt vật quyên với trái quyền nhưng đây là đặc điểm cần thiết phải chỉ ra làm cơ sở để phân biệt vật quyền đối với các quyền khác mà cũng có sự tác động vào tài sản nhưng lại khơng được coi là vật qun, ví dụ: quyên của bên giữ tài sản trong hợp đồng gửi giữ tài sản. Trong hop đồng gửi giữ tài sản, bên giữ tài sản có thực hiện các hành vi như bảo quản, giữ gìn tai sản...nhưng quyén của bên giữ tài sản không thé trở thành vật quyền

<small>Lê Thị Hoàng Thanh và Đỗ Thị Thúy Hằng, Giới thiéu nội dung cơ bản của chế định vật quyên và vấn dé hoànthiện Bộ luật Dân sự Việt Nam, Tạp chíThơng tin Khoa học Pháp ly, Bộ Tư pháp, số 5/2015, tr. 7.</small>

<small>!#Nguyễn Ngọc Điện (2000), nghiên cứu về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh,</small>

<small>2000, tr. 125 — 126.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

vì hành vi của bên giữ tài sản khơng nhằm khai thác lợi ích hay khai thác giá trị từ tài sản, mà hành vi trên chỉ nhằm đáp ứng bảo vệ tốt cho tài sản của người gửi và nhận thù lao từ cơng việc này nếu có thoả thuận.

1.2. Nguyên tắc chủ yếu của vật quyền!

1.2.1. Nguyên tắc vật quyền phải được pháp luật quy định

Vật quyền có thé phát sinh từ quy định của luật, thỏa thuận, hành vi pháp ly đơn phương của các chủ thé và phán quyết của tòa án. Tuy nhiên, về nguyên tac, các loại vật quyền và nội dung của vật quyền phải được quy định trong luật, các bên trong hợp đồng khơng thể tạo ra vật quyền mới ngồi các vật quyền đã được quy định. Nếu ký kết hợp đồng nhằm hình thành vật qun khơng được quy định trong luật thì theo nguyên tắc vật quyền luật định, vật quyền này sẽ không được tạo ra. Thoả thuận trên của hai bên chỉ hình thành nên trái quyền. Trái quyền chi trở thành vật quyền nếu có đủ hai điều kiện: được pháp luật thừa nhận và có cơ chế cơng bố cơng khai quyền với bên thứ ba. Như vậy, có thé thấy nguyên tắc luật định là nguyên tắc quan trọng để khang định quyền nào là vật quyền và không là vật quyền. Nguyên tắc luật định cũng có vai trị quan trọng trong việc khơng để cho các bên thoả thuận hình thành vật quyền một cách vô nguyên tắc, dẫn đến những thiệt hại, gây rắc rối cho cả hai bên. Pháp luật dân sự các nước đều tôn trọng nguyên tắc này. Điển hình, pháp luật dân sự Nhật bản dành riêng một điều luật để quy định về nguyên tắc luật định của vật quyền tại Điều 175 BLDS Nhật Bản: “Không một vật quyên nào được xác lập khác với các quyển

<small>quy định trong Bộ luật này và các luật khác”. BLDS Pháp 1804, BLDS Việt</small>

Nam 2015 không dành quy định riêng về xác lập vật quyền theo luật định như BLDS Nhật Bản nhưng về cơ bản những vật quyền nào được quy định trong các

<small>bộ luật này thì mới được thừa nhận.</small>

1.2.2. Nguyên tắc tuyệt đối

Vật quyên được coi là quyền có tính chất tuyệt đối. Vật quyên có hiệu lực đổi với tat cả mọi người và mọi người phải tơn trọng??. Trong khi đó, trái quyền

<small>lại có tính chât tương đơi, tức là có hiệu lực trong mơi quan hệ giữa người có</small>

<small>và định hướng sửa đôi - tham luận tại Hội thảo lây ý kiên chuyên gia góp ý Dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đơi),thành phơ Hơ Chí Minh, ngày 11/4/2014.</small>

<small>? ThS. Lê Thị Hoàng Oanh & ThS. Đỗ Thị Thuý Hằng, giới thiệu nội dung cơ bản của chế định vật quyền, tạp</small>

<small>chí Thơng tin Khoa học pháp ly, Sơ 5/ 2015, trang 7.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>quyên yêu câu và người có nghĩa vụ, người thứ ba khơng cân biêt đên môi quanhệ này.</small>

<small>Nguyên tặc này cua vật quyên nham chong lại tác động, gây roi loạn cua</small> Ê!, Tinh chất tuyệt doi (theo tiếng La tinh la “erga omnes”) người khác đối với va

của học thuyết vật quyên được thể hiện ở chỗ quyên này có hiệu lực đối với tat cả mọi người và bat kỳ ai cũng phải tôn trọng. Vat quyên là quyên chỉ phối trực tiếp doi với vật nên không thé xác lập cùng lúc cùng một vật quyên có cùng nội dung về cùng một vật (tính loại trừ của vật quyên)??. Như vay, cũng đã có một số quan điểm của các học giả thừa nhận nguyên tắc tuyệt đối của vật quyền. Cụ thể hơn, các quan điểm này cho rằng nguyên tắc tuyệt đối thê hiện tính loại trừ của vật quyền mà thuộc tính này khơng có ở trái qun. Vì có tính loại trừ nên có thé thay không thể xác lập cùng một thời điểm về cùng một vật quyền có cùng nội dung về cùng một vật, ví dụ: anh C khơng thể xác lập đồng thời quyền bề mặt của mảnh đất vào cùng một thời điểm cho cả anh A và anh B. Ngược lại, đối với trái quyền thì có thể xác lập từ hai trái quyền trở lên đối với một nội dung yêu cầu cùng một người có nghĩa vụ thực hiện hành vi với cùng một nội dung, ví dụ: anh K yêu cầu anh H thanh toán khoản nợ bằng việc bán ngôi nhà anh H đang ở là tài sản đảm bảo khoản nợ và bán tài sản thế chấp là chiếc ô tô của anh H. Như vậy, thơng qua tính loại trừ để thấy được ngun tắc vật quyền là tuyệt đối và bất khả xâm phạm và trái quyền chỉ là tương đối. Nguyên tắc tuyệt đối của vật quyền còn thể hiện trong sự xung đột giữa các vật quyền. Khi có nhiều vật quyền xung đột với nhau thì vật quyền nào có vật quyền trước thì được ưu tiên, dựa trên tiêu chí ai được quyền cơng khai vật quyền trước. Trong trường hợp, có sự xung đột giữa vật quyên và trái quyền thì vật quyền được ưu tiên thực hiện trước. Điều này cũng thể hiện nguyên tắc tuyệt đối của vật quyên. 1.2.3. Nguyên tắc công khai

Vật quyên phải được đảm bảo nguyên tắc công khai của vật quyền. Trong đời sống xã hội thì việc tồn tại các vật quyền và nhu cầu sự chuyên dịch vật quyền là sự thật khách quan. Do vậy, việc công khai vật quyền nhằm đảm bao <small>các bên thứ ba có thê nhận biệt được sự tôn tại của vật quyên và sự chuyên dich</small>

<small>21 TS. Hoàng Thi Thuy Hang, chế định vật quyền và van dé sửa đổi phần “Tài sản và quyền sở hữu” trong BLDS2005 của Việt Nam, tạp chí Luật học, số 4/2013 trang 16.</small>

<small>?2 TS. Vũ Thị Hồng Yến, áp dụng nguyên tắc vật quyền nhằm khắc phục những hạn chế của chế định tài sản vàquyền sở hữu trong Bộ luật dân sự, Tạp chí Luật học, sỐ đặc biệt 6/2015, trang 83.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

của vat quyền. Nguyên tac công khai vừa là nhằm ghi nhận quyền cho người có vật quyền vừa nhằm tránh rủi ro cho các bên thứ ba. Công khai vật quyền cũng là nguyên tắc cần thiết nhăm mục đích an tồn trong giao dịch. Biện pháp thực hiện việc cơng khai ở mỗi quốc gia cũng có những sự khác nhau. Pháp luật một số quốc gia (Nhật Bản, Pháp, Nga...) và pháp luật dân sự Việt Nam (BLDS 2015) đều thừa nhận chiếm hữu thực tế là cách thức công khai quyên. Tuy nhiên, việc chiếm hữu thực tế cũng khó có thé coi là cách thức cơng khai có tính chính xác va đầy đủ cao. Dé thực hiện tốt việc cơng khai thì cần phải thực hiện thông qua chế độ đăng ký. Vậy thơng qua chế độ đăng ký thì hiệu lực của nguyên tắc công khai được thé hiện thé nào?. 4⁄ớ/ ld, nguyên tac công khai là điều kiện dé việc chuyển dịch quyền hiệu lực. Tức là, khi chuyển dịch vật quyền mà khơng kèm theo sự cơng khai thì việc dịch chun đó khơng có hiệu lực. Ngun tắc này được áp dung ở một số nước như Đức, Nga... Hai là, nguyên tắc công khai là điều kiện để đối kháng với người thứ ba. Theo đó, sự chuyên dịch vật quyền giữa các bên không cần công khai cũng vẫn có hiệu lực nhưng nếu khơng cơng khai thì khơng thê đối kháng với người thứ ba.

1.2.4. Nguyên tắc tin cậy (hiệu lực công tin)

Nguyên tắc tin cậy được thiết lập trên cơ sở sự xác nhận của một cơ quan

nhà nước có thâm quyên, người nào đã tin vào của sự xác nhận đó thì họ có

quyên tin vào sự tồn tại hợp pháp của một vật quyền và được bảo vệ, ké cả trường hợp sự xác nhận của cơ quan nhà nước có sai sót, nham lẫn. Ngun tắc tin cậy nhằm mục đích bảo vệ người thứ ba ngay tình — người đã căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ky tại cơ quan nhà nước có thâm quyền mà xác lập giao dịch thì được bảo vệ. Nhìn chung, những nước quy định thời điểm xác lập, chuyền dịch quyền sở hữu, vật quyền khác đối với tài sản tinh từ thời điểm đăng ký thường lựa chọn chính sách “hiệu lực cơng tín". Tuy nhiên, u cầu của việc thực hiện nguyên tắc này là cơ chế đăng ký tài sản phải chặt chẽ, rõ ràng và chính xác. Tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt với các nước có nền kinh tế phát triển như: Pháp, Đức, Nhật Ban..., pháp luật về đăng ký tài sản -gồm việc đăng ký tài sản theo quy định của pháp luật va đăng ký tài sản theo yêu cầu của các chủ thé trong xã hội - giữ vi trí quan trọng trong hệ thống pháp luật. Theo đó, hệ thống đăng ký tài sản khơng chỉ phục vụ mục tiêu quản lý nhà

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

nước, mà còn nhằm thúc day các giao dich được thực hiện an tồn, minh bạch

<small>và cơng khai.</small>

1.3. Phân loại vật quyền và múi liên hệ giữa các vật quyền 1.3.1. Phân loại vật quyên

Có nhiều cách dé phân loại vật quyền trong luật học của các nước, trong đó, hai cách đáng chú ý nhất: một cách dựa vào mối quan hệ của chủ thể có quyền với tài sản cách còn lại dựa vào mức độ tác động vật chất mà chủ thê

<small>được phép thực hiện đôi với vật khi tìm kiêm lợi ích”.</small>

<small>Thứ nhát, dựa vào mơi quan hệ của chủ thê có qun với tài sản</small>

<small>Dựa vào tiêu chí này, vật quyên được phân biệt thành hai nhóm:</small>

(i) Quyền sở hữu (cịn gọi là quyền trên tài sản của mình): gồm quyền tự do sử dụng, hưởng lợi và định đoạt. Quyền sở hữu được coi là vật quyền thứ nhất, tuyệt đối, trọn vẹn nhất. Nó có tác dụng thiết lập độc quyền của chủ thé đối với tài sản, một cách hoàn hảo, từ nắm giữ, kiểm soát về phương diện vật chất, cho đến khai thác công năng kinh tế và cả số phận vật chất, pháp lý của tài sản đó.

(ii) Các vật quyền khác (còn gọi là quyền trên tài sản của người khác, hoặc dịch quyền (servitude), hoặc là một số quyền của người không phải là chủ sở hữu). Gồm có các quyền như quyền hưởng dụng (usufruct), quyền sử dụng (use), quyền ngụ cư (inhabitation), quyền thuê dai hạn (emphyteusis), quyền bề mặt (superficies), quyền khai thác kinh tế và quyền quản lý nghiệp vụ, quyền địa dịch, quyền ưu tiên, vật quyền bảo đảm... Ngoài ra, cịn có các vật quyền đặc

<small>biệt trên tài sản cơng được tạo lập bởi Nhà nước vì lợi ích của chính mình, hay</small>

vì lợi ích của tư nhân. Chắng hạn, quyền khai thác mỏ, quyền đánh cá, quyền

<small>khai thác rừng...</small>

Thứ hai, dựa vào mức độ tác động vật chất mà chủ thể được phép thực hiện đối với vật trong khn khổ tìm kiếm lợi ích, có thé chia vật quyền thành vật quyên chính và vật quyên phụ.

<small>3 Xem: PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, “Góp ý sửa đổi Bộ luật Dân sự - Vận dụng lý thuyết vật quyền vào việchoàn thiện pháp luật về tài sản”, tại website:</small>

<small> 1 4/duthaoboluatdansu/UserControls/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/dtblds/Lists/TinTuc&ListlId=8993ced7-82ed-4a34-80e9-465099dbfl </small>

<small>70&Siteld=5a26f722-7f89-4244-ba6d-c2d0d7ad02da&ItemID=36&OptionLogo=0&SiteRootID=63d81917-clc4-48e4-bebb-f2afcd969 1e5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

(i) Vật quyền chính: là các quyền cho phép người có quyền khơng chỉ nam giữ việc kiểm soát vật chất đối với tài sản, mà cịn có thê khai thác các khả năng và đặc biệt là giá trị kinh tế của tài sản. Quyền sở hữu đứng đầu nhóm vật quyền này do tính chất hồn hảo của quyền năng: nó tạo điều kiện cho người có quyền thu được lợi ích từ việc khai thác một cách trọn vẹn các khả năng kinh té của tài sản. Các vật quyền chính khác có mức độ hồn hảo của quyền năng thấp hơn: quyền hưởng dụng chỉ cho phép người có quyên thu hoa lợi từ việc khai thác tài sản, chứ không cho phép định đoạt tài sản; với quyền địa dịch, người có quyền chỉ được khai thác được tài sản ở một khía cạnh nào đó (chang han, sự tiện lợi về tầm nhìn, lối đi qua)... Trong pháp luật Việt Nam hiện hành có một số vật quyền mang tính chất này. Tuy nhiên, do khái niệm vật quyền chưa được chính thức thừa nhận, chúng chỉ được ghi nhớ bằng những tên gọi đặc thù: quyền sở hữu, quyền sử dụng hạn chế bat động sản liền kề, quyền thuê quyền sử dung đất ở, đất chuyên dùng. Trừ quyền sở hữu, tất cả các quyền còn lại có đặc điểm

<small>chung là được thực hiện trên tài sản của người khác.</small>

(ii) Vật quyền phụ (còn gọi là vật quyền bao đảm thực hiện nghĩa vụ) chỉ có tác dụng tạo ra sự an tồn cho người có quyên trong quá trình tham gia vào một

<small>quan hệ nghĩa vụ với tư cách trái chủ. Thay vì phải lệ thuộc vào vai trị chủ động</small>

của thụ trái để có được sự thực hiện nghĩa vụ thoả đáng, người có vật quyền có thé tác động vào giá trị tiền tệ của tài sản. Loại vật quyền này chỉ trao cho người có quyền các quyền năng hạn chế đối với vật. Các quyền năng này chỉ phát huy <small>tác dụng trong những trường hợp được ghi nhận trong luật và được thực hiện theo</small> những quy định nghiêm ngặt. Quyền của chủ nợ nhận thé chấp, nhận cầm có là những vi dụ tiêu biểu cho các vật quyền thuộc nhóm này. Trong chừng mực nao đó, người ta nói răng vật quyền được gọi là phụ, bởi vì tài sản đối tượng của quyền được coi như một thứ “dự trữ giá trị” (value reserve)??. Dự trữ đó sẽ được và chỉ được mang ra sử dụng một khi người có quyền khơng cịn sự lựa chọn khác cho việc thực hiện trái quyền của mình. Vật quyền phụ khơng trao cho người có quyền những cơng cụ khai thác các khả năng của tài sản để phục vụ cho cuộc song, sinh hoạt của mình, như các vật quyền chính. Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa xây dựng khái niệm vật quyền phụ này. Trong luật thực định có ghi nhận

<small>các biện pháp bảo đảm đơi vật cho việc thực hiện nghĩa vụ, như câm cô, thê châp</small>

<small>2G. Cornu, Droit civil. Introduction. Les personnes. Les biens, Montchrestien, Paris, 1990, tr. 132</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

tài sản”. Với các biện pháp ấy, người thụ hưởng cũng không có các quyền trực tiếp đối với đối tượng, mà chỉ có quyền đối với giá trị của đối tượng đó và trong phạm vi giá trị của quyền chủ nợ có bảo đảm. Ví dụ: trong trường hợp người cẦm có khơng thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp cầm có, thì người nhận cầm cơ có quyên yêu cầu xử lý tài sản theo thoả thuận hoặc yêu cầu bán dau giá tài sản và được ưu tiên thanh toán băng tiền bán tài sản; nếu sau khi đã thanh toán cho người thụ hưởng biện pháp bảo đảm mà tiền bán tài sản vẫn cịn lại một

<small>phân, thì phân cịn lại đó thuộc vê người câm cơ.</small>

Ngồi ra, pháp luật một số nước (chang hạn pháp luật Đức) chia vật quyền thành hai loại: vật quyền về nội dung và vật quyền về hình thức. Vật quyền về nội dung được quy định tại Bộ luật Dân sự và các đạo luật khác (chăng hạn như pháp luật về nhà ở, xây dựng...). Vật quyền hình thức được quy định tại các văn bản điều chỉnh về thủ tục như pháp luật về đăng ký tài sản, đăng ký bất động sản... Bên cạnh đó, người ta có thể phân loại vật quyền thành vật quyền luật định và vật quyền ước định. Vật quyền với tính chất là quyền tuyệt đối của chủ thé có qun, có tính loại trừ, đối kháng với chủ thê khác, có tính chi phối trực tiếp đối với tai sản, nên phải được pháp luật quy định. Vật quyền ước định là quyền đối với tài sản được xác lập trên cơ sở một hợp đồng (hợp đồng cầm có, thế chấp...) và được pháp luật quy định. Nội dung các loại vật quyền, hiệu lực của vật quyền và cách thức công khai, công bé vật quyền được pháp luật ghi nhận.

1.3.2. Mỗi liên hệ giữa các vật quyền

Thứ nhất, môi liên hệ giữa vật quyền chính và vật quyền phụ.

Vật quyền chính được tạo ra để giúp cho các chủ thé tác động trực tiếp vào tài sản, khai thác các giá trị của tài sản. Vật quyền chính thường có trước vật qun phụ và là cơ sở dé phát sinh vật quyền phụ trong quan hệ dân sự. Ví du, A có quyền sở hữu tài sản thì A mới có quyền cầm có, thế chấp tài sản đó cho B. Khi B nhận cầm có, thế chấp thì mới phát sinh vật quyền bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Hoặc ví dụ, H có quyền bề mặt, H mang quyền bề mặt đó đi thế chấp vay ngân hàng một khoản tiền. Quyền của người nhận thế chấp được phát sinh

<small>? Đôi khi quyền sở hữu lại được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, như trong trường hợp bán với điều kiệnbảo lưu quyền sở hữu của người bán trong một thời hạn, được quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự năm 2005.Khi đó, quyền sở hữu lại thuộc về nhóm thứ hai chứ khơng phải nhóm thứ nhất. Tuy nhiên, khó có thê gọi đây làbiện pháp bảo đảm đối vật đúng nghĩa, bởi suy cho cùng, quyền sở hữu được đem ra bảo đảm vốn chưa bao giờthuộc về người bảo đảm, tức là người mua, cho đến khi nghĩa vụ trả tiền được thực hiện.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

sau khi hai bên cam kết thoả thuận. Vat quyền chính và vật quyền phụ cùng có điểm chung là khi thực hiện đều tác động lên tài sản. Vật quyền chính tác động lên tài sản nhằm khai thác lợi ích từ tài sản cịn vật quyền phụ tác động lên tài <small>sản nhăm bảo đảm cho một nghĩa vụ được thực hiện.</small>

<small>Thir hai, môi liên hệ giữa các vật quyên trong cùng một nhóm quyên.</small>

Nhóm vật quyền chính bao gồm quyền sở hữu và các vật quyền chính khác (quyền bề mặt, quyền hưởng dụng, quyền địa dịch). Trong nhóm vật quyền chính, quyền sở hữu là trung tâm của các vật quyền còn lại. Quyền sở hữu là nguyên gốc, là quyền ban dau, tao cơ sở phát sinh cho các vật quyền còn lại. Các vật quyền còn lại được phái sinh từ quyền sở hữu. Các vật quyền trong nhóm vật quyên chính đều có tác động lên tài sản nhưng mức độ tác động, mức độ hoàn hảo của quyền là khác nhau. Quyền sở hữu của chủ sở hữu là quyền có mức độ tác động rộng lớn nhất, hồn hảo nhất. Các vật quyền khác tác động lên tài sản ở mức độ hạn chế hơn thông qua một phần quyền của quyền sở hữu đối với vật. Quyền sở hữu là cơ sở ban dau, là xuất phát điểm làm phát sinh các vật quyền khác. Ngược lại, các vật quyền khác được hình thành có tác động trở lại quyền sở hữu, mở rộng quyền sở hữu. Các vật quyền khác giúp cho chủ sở hữu có khả năng cấp một phần quyền trong quyền sở hữu cho chủ thể khác (quyền

<small>chiêm hữu, quyên sử dung...) đê nhăm khai thác được các giá tri của tai sản.Thứ ba, môi liên hệ chung giữa các vật quyên.</small>

Các vật quyền có mối liên hệ chung là đều có sự tác động, hướng đến một tài sản nhất định nhưng được thơng qua những sự tác động khác nhau. Ví dụ, A có tài sản (ngơi nhà, mảnh đất,...) thì quyền sở hữu hướng đến tài sản đó theo nội dung của quyền sở hữu. Nhưng nếu A đã cầm có, thế chấp tài sản trên cho B thì B cũng sẽ hướng tới tài sản cua A dưới góc độ nhằm bảo vệ cho lợi ích của mình. Nếu A cấp quyền bề mặt cho C thì C cũng hướng đến tài sản của A dưới góc độ sử dụng bề mặt tài sản đó phù hợp theo quy định của pháp luật. Trong hệ thống vật quyền, quyền sở hữu là vật quyên trung tâm, có ảnh hưởng, chi phối đến tất cả các vật quyền còn lại. Ngược lại, các vật quyền cịn lại cũng có tác động người trở lại quyền sở hữu theo như nội dung của vật quyền đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

1.4. Xác lập, thực hiện, chấm dứt vật quyền 1.4.1. Xác lập vật quyên

a. Căn cứ xác lập vật quyên

Về lí luận, quyền của chủ thể khơng được hình thành một cách tự nhiên mà chỉ xuất hiện khi được pháp luật quy định hoặc công nhận. Là sự ghi nhận về mặt pháp lí của chủ thé đối với tài sản nên cũng như các quyền khác, vật quyền chỉ được xác lập dựa trên những sự kiện pháp lí nhất định, bao gồm:

Thư nhất, được xác lập theo ý chi của các chủ thể thông qua hợp đồng hoặc

<small>giao dịch một bên</small>

Quan hệ dân sự chủ yếu được thiết lập dựa vào sự thoả thuận, tự định đoạt của các chủ thé thơng qua giao dịch dân sự. Do đó, khi tham gia vào quan hệ dân sự, trong đó có quan hệ vật quyền thì sự tự định đoạt của các bên thông qua hợp đồng hoặc giao dịch một bên là một căn cứ phố biến. Hợp đồng là sự thoả thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể làm phát sinh vật quyền của một hoặc các bên chủ thé. Các hợp đồng chuyền giao quyền sở hữu hoặc các vật quyền khác như hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, chuyển giao quyền bề mặt, quyền hưởng dụng hoặc quyền địa dịch... nếu phù hợp với quy định của pháp luật sẽ là căn cứ xác lập vật quyền cho chủ thé được cấp hoặc chuyên giao. Tuy thuộc vào đối tượng của hợp đồng mà thời điểm xác lập quyền cho chủ thể sẽ khác nhau, có thể là thời điểm đăng kí hoặc thời điểm chuyền giao tài sản...

Giao dịch một bên là sự thê hiện ý chí của một bên chủ thể làm phát sinh hậu quả pháp lí đó là xác lập một vật quyền đối với tài sản cho một chủ thé nhất định. Ví dụ như một người lập di chúc để lại tài sản cho người khác hoặc cho phép một người có quyền hưởng dụng, có quyền bê mặt hoặc quyên địa dịch đối với tài sản của mình sau khi mình chết thì khi di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật, những người được chỉ định trong di chúc sẽ có quyền đối với tài sản đó; hoặc khi một người tuyên bố hứa thưởng cho người nào thực hiện các điều kiện <small>do bên hứa thưởng đưa ra thì khi bên hứa thưởng trao thưởng cho bên thực hiện</small> được các điều kiện đó sẽ làm xác lập quyền sở hữu của bên được trao thưởng đối với tài sản....

<small>Thứ hai, xác lập theo quy định của pháp luật</small>

Vật quyền mang tính chất tuyệt đối, pháp định nên bên cạnh sự thê hiện ý chí

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

của một hoặc các bên chủ thé khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự thì trong nhiều trường hợp, nhằm thực hiện việc quản lí nhà nước, bảo vệ lợi ích của người yếu thế trong xã hội, vì lợi ích cơng cộng, vì lợi ích của chính các bên trong quan hệ... mà pháp luật quy định về những sự kiện pháp lí làm phát sinh vật quyền của chủ thể. Có thé ké đến các trường hợp cụ thé xác lập vật quyền do pháp luật quy định như: 1) Xác lập quyền sở hữu do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến; xác lập quyền sở hữu do phát hiện tài sản vô chủ, nhặt được tài sản đánh rơi, bỏ qn, tìm được tài sản chơn giấu, chim đắm..; 2) Xác lập quyền hưởng dụng do chiếm hữu gia súc, gia cầm thất lạc; xác lập quyền hưởng dụng đối với hoa lợi, lợi tức do chiếm hữu khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình..; 3) Xác lập quyền địa dich do vị trí như quyền sử dụng lối đi qua bat động sản liền kể; quyền về mac đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản khác; quyền cấp thoát nước qua bất động sản liền kề, quyền về tưới tiêu nước trong

<small>canh tác...</small>

<small>Thứ ba, xác lập theo những căn cứ riêng biệt khác</small>

Trong những trường hợp đặc biệt, vật quyền có thể được xác lập dựa trên những căn cứ khác như bản án, quyết định của toà án hoặc các quyết định tố tụng, hành chính khác của cơ quan nhà nước có thâm quyền hoặc theo thời hiệu... Ví dụ như quyết định tịch thu tài sản, bản án có hiệu lực phân chia tài sản chung hoặc quyết định, ban án giao quyền hưởng dụng, địa dịch hoặc bề mặt cho một chủ thể nhất định...

Xuất phát từ nguyên tắc trên, hầu hết pháp luật của các nước đều ghi nhận việc xác lập vật quyền dựa trên những căn cứ này. Ví dụ như trong luật La Mã, “Servitus”) phát sinh theo ý chí của chủ sở hữu đồ vật dùng dé cho người khác sử dụng hoặc theo một hợp đồng giữa chủ sở hữu và chủ thể “Servitus”. “Servitus” cũng có thé phát sinh theo quyết định của toà án.”” BLDS Pháp quy định quyền hưởng hoa lợi, lợi tức được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc theo ý chí của chủ thé (Điều 579); Điều 639 quy định dịch quyền phat sinh do địa thế tự nhiên của bất động sản, theo quy định của pháp luật hoặc theo thoả

<small>(25). “Servitus” là loại quyền thuê đất của người khác để đảm bảo việc sản xuất và sinh hoạt trên đất của mìnhkhi ở đó khơng đủ mọi điều kiện tối thiểu nhất. Xem: Nguyễn Ngọc Dao, Ludt La Mã (Tài liệu dành cho sinhviên khoa luật các trường đại học), Trường đại học tổng hợp Hà Nội, 1994, tr. 65.</small>

<small>(7). Nguyễn Ngọc Đào, Ludt La Mã, tldd, tr. 68.</small>

</div>

×