Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.19 MB, 93 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

HOANG NGUYEN BẢO ANH

LUAN VAN THAC SY LUAT HOC

<small>(Dinh hướng ứng dung)</small>

HA NOI - NAM 2018

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

HOANG NGUYEN BẢO ANH

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tung hình sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

dưới sự hướng dan khoa học của TS. Bùi Kiên Điện — Trường Hải quan Hà

Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bồ trong bắt kỳ công trình nào khác. Những thơng tin, số liệu và trích dân trong luận văn là hồn tồn trung thực, có nguon gốc rõ rang và chính xác.

Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn

<small>Xác nhận của giáo viên hướng dan Tác giả luận văn</small>

TS. Bùi Kiên Điện Hoàng Nguyễn Bảo Anh

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

nhiệt tình của bạn bè, đồng nghiệp cùng với sự đóng góp của gia đình, tơi đã

<small>hồn thành Luận văn Thạc sỹ Luật học.</small>

Qua đây tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến:

Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường.

<small>Cám ơn Khoa Sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện</small>

quản lý đào tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như chương trình đào tạo một cach kip thời, tao điều kiện giúp hoàn thành luận văn này đúng tiến độ.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến thầy giáo TS Bùi Kiên Điện đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong quá trình học tập và thực hiện luận

Cám ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập.

<small>Tac giả luận van</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2. BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

<small>3. BPNC: Biện pháp ngăn chặn</small>

4. CQDT: Co quan diéu tra 5. DTV: Diéu tra vién 6. HDXX: Hội đồng xét xử 7. KSV: Kiểm sát viên

<small>8. LTHTGTG: Luat thi hanh tam gitr, tam giam9. TAND: Toa an nhan dan</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

LUAT TO TUNG HÌNH SỰ HIỆN HANH VE KIEM SÁT VIỆC TUẦN THEO PHAP LUẬT TRONG VIỆC ÁP DUNG BIEN PHAP NGAN <small>CHAN TAM GUAT ws. ccaccsencenrencencenresenrenmenenrenaacnen 9</small> 1.1. Những van đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp

<small>dụng biện pháp ngăn chặn tạm Ø1aím... --- + E311 33+ EEEEeeeereerseererres 9</small>

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm va ý nghĩa của hoạt động kiểm sát việc tuân theo

<small>pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm g1am...- -- 9</small>

1.1.2. Méi quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra, Tòa án khi kiếm

<small>sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam</small>

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về kiểm sát việc tuân theo pháp

<small>luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm Ø1am...--s«=<s««es« 22</small>

1.2.1. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam ở giai đoạn điều tra... 22 1.2.2. Kiểm sát việc áp dung biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử... 37 Kết luận chương 1 ...-o- << << 5£ s©s£ s£S£Es£EsES£EsEEsEseEsEsEsexesersesersersrse 41 CHUONG II: THUC TRANG VÀ GIẢI PHAP NANG CAO CHAT LƯỢNG KIEM SÁT VIỆC TUẦN THEO PHAP LUAT TRONG VIỆC AP DUNG BIEN PHAP NGAN CHAN TẠM GIAM... 43 2.1. Thực trạng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dung biện

<small>pháp ngăn chặn tam Ø1441m... s- < 5< 9 94.99. 9. 5 91.9005 9698996 08996 43</small>

2.1.1. Những kết quả đạt đưỢC...-- -- 5c St+ESEkEEEEEEEEEEEE1 11111111 ckrrkd 43 2.1.2. Những hạn ché, thiếu sót và nguyên nhân ...--- - 2 2 s2 s+sece2 50 2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật

<small>trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm Ø141m... s--< s5 << s «5< se a72.2.1. Giải pháp lập pháp ...- - .--- c 1 22111111211 111151 11181 1111811111811 re. 57</small>

<small>đe xa Coie OU PAI IE ws sees cece 0eEEck3.4880-500v003:120018/08003824/883H.8.230E38.1328.6/0038.5 ams Asa Be 66</small>

Kết luận chương 2 ...s-ss- << s2 ©s£ sEs£EsES£EsEsES£EsEEESEsESEsESsEseEsesrsersree 72 KET LUẬNN... 2 << << 33399 9 999g e9 62 73

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>Biện pháp ngăn chặn tạm giam (BPNC) là biện pháp nghiệp vụ của các</small>

cơ quan tiễn hành t6 tụng (THTT) thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Nó thé hiện sự cưỡng chế mạnh mẽ của Nhà nước đối với người phạm tội, đảm bảo cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu qua cao. Song nó cũng trực tiếp xâm hại đến quyén tự do của công dân được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy, địi hỏi biện pháp này phải được quy định đầy đủ, chặt chẽ trong Bộ luật t6 tụng hình sự (BLTTHS) và phải được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt dé, nham tránh tinh trang tam

<small>giam oan người vô tdi.</small>

Viện kiểm sát (VKS) có vị trí rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong những cơ quan có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam, VKS là cơ quan có vai trị rất quan trọng, đảm bảo biện pháp tạm giam được áp dụng đúng pháp luật. VKS khơng những là cơ quan có quyền trực tiếp áp dụng biện pháp tạm giam mà còn là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam của các cơ quan có thâm quyền khác. Cho nên, vai trị của VKS có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của việc áp

<small>dụng BPNC tạm giam.</small>

Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC

<small>tạm giam là một trong các công tác thực hiện chức năng của VKS theo quy</small>

định của Hiến pháp và pháp luật. Đối tượng của hoạt động kiểm sát của VKS

<small>trong việc áp dụng BPNC tạm giam là sự tuân thủ pháp luật của cơ quan, đơn</small>

VỊ và người có trách nhiệm trong việc tạm giam nhằm đảm bảo việc áp dụng BPNC tạm giam đúng theo quy định của pháp luật; chế độ tạm giam được chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền dân chủ của cơng dân góp phan thực hiện nhiệm vụ chung của ngành Kiểm sát.

Thực tiễn những năm qua cho thấy, trong cơng tác của mình, VKS đã thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng

<small>BPNC tạm giam, đảm bảo việc áp dụng BPNC tạm giam được thực hiện đúng</small>

pháp luật, hạn chế đáng kê việc giam giữ oan, sai. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trên thực tế vẫn còn những hạn chế nhất định như vẫn có

khơng ít những trường hợp tạm giam không đúng pháp luật, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Ngược lại, có trường hợp cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam nhưng không được áp dụng dẫn đến nhiều vụ án không được điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án do người phạm tội bỏ trốn, đã gây nên sự hoài nghi của quần chúng nhân dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tiễn hành tơ tụng. Những sai sót, hạn chế nêu trên có trách nhiệm của VKS, trực tiếp là công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam. Bên cạnh đó, những quy định của BLTTHS về BPNC tạm giam vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là những quy định liên quan đến kiểm sát việc áp dụng

<small>BPNC tạm giam. Thêm vào đó, cịn những ngun nhân chủ quan, ngun</small>

nhân khách quan khác như yếu tố con người, yếu tô cơ sở vật chất cũng làm phát sinh những vi phạm, ảnh hưởng phần nào đến việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam.

Vì vậy, địi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong việc áp dụng BPNC tạm giam, không chỉ dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà phải kết hợp đánh với đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam

<small>trong một sô năm gân đây, từ đó tìm ra những ngun nhân và đê xuât các</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam” làm đối tượng

<small>nghiên cứu cho Luận văn Thạc sỹ luật học của mình.</small>

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong công tác kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đã được một số chuyên gia và những người làm công tác thực tiễn nghiên cứu dưới dạng luận văn thạc sỹ, các bài báo, bài viết trên các tạp chí chun ngành, có thé kế đến một số cơng trình như sau:

<small>- Sách chun khảo:</small>

Thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn diéu tra, Lê Hữu Thé (chủ biên), năm 2005; “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về quan hệ giữa VKS và COPT trong tơ tụng hình sự Việt Nam”, Phạm Mạnh Hùng, năm 2007; Tài liệu tập huấn công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo duc người chấp hành án phạt tù của VKSND Tối cao, năm 2008; Tai liéu tập huấn giải đáp những vướng mắc về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của VKSND Tối cao, năm 2018...

- Các đề tài khoa học:

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tu pháp của Viện khoa học kiểm sát VKSND Tối cao; cơng trình dự giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học”: Biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2001; đề tài khoa học cấp Bộ: Vai tro của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tỉnh thân Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị của Viện khoa học kiểm sát VKSND tối cao; dé tài cấp cơ sở: Thực trang áp dụng các

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>Pham Duy Trường: “Vai tro cua VKS trong việc ap dụng biện pháptạm giam ” (bảo vệ năm 2006); Vương Thị Thanh Huong: “Chic năng</small>

cua VKSND trong giai đoạn diéu tra vụ án hình sự” (bảo vệ năm 2010); Nguyễn Vũ Quang: “Chức năng, nhiệm vụ, quyên han của Viện kiểm sát

<small>nhân dân trong việc ap dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định cua</small>

Bộ luật tổ tụng hình sự” (bảo vệ năm 2011); Bùi Ngọc Tú: “Nhiệm vụ, quyên hạn của VKS khi kiểm sát điều tra” (bảo vệ năm 2013); Nguyễn Thị Thu Phượng: “Nhiệm vụ, quyễn hạn cua VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam” (bảo vệ năm 2013); Tăng Ngọc Kim Mỹ: “Kiểm sát việc

tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” (bảo vệ năm 2016)... - Các bài viết khác trên tạp chí chun ngành:

“Hồn thiện một số quy định của BLTTHS về tạm giam nhằm đáp ứng yêu cau cải cách tu pháp ”, (Tạp chí Kiểm sát năm số 9/2008) của tác giả Lê Minh Tuấn; “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về biện pháp tạm giam ” (Tạp chí Kiểm sát số 21/2012) của tác giả Trần Văn Độ; “Nội dung quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với cơ quan điêu tra trong điều tra, xử lý các vụ án hình sự” (Tạp chí kiểm sát số 16/2017) của tác giả Lại Anh Tuấn; “Biện pháp ngăn chặn tam giam theo quy định cua Bộ luật T 6 tung hình sự năm 2015” (Tạp chi Kiểm sát số 07/2018) của tác giả Hồng Tam

<small>Cac tài liệu, giáo trình giảng day của các trường dai hoc như: Giáo</small>

trình Luật tố tụng hình sự của các trường đại học Luật Hà Nội, khoa Luật đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát tập III, tập V của trường đại học Kiểm sát Hà Nội cũng dé cập tới van dé này.

Nhìn chung, những cơng trình khoa học, những bài viết, sách chuyên khảo, tài liệu, giáo trình trên đây đã đề cập một cách khái quát, cơ bản về

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

khoa học nhất định và đáng trân trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, về vấn đề “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam” vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chun sâu, trực tiếp, có hệ thống, tồn điện về mặt lý luận và thực tiễn.

Xuất phát từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy, cần phải có nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn về công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

<small>việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, đánh giá biện pháp ngăn chặn</small>

này ở những góc độ khác nhau để phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế trong thực tiễn áp dụng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

<small>3.1. Mục dich</small>

Luận văn nghiên cứu những van dé ly luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong việc áp dụng BPNC tạm giam; đồng thời phân tích kết quả thực tiễn của hoạt động này dé đánh giá những ưu điểm cũng như han chế và nguyên nhân của những hạn chế đó, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam ở

<small>nước ta giai đoạn hiện nay.3.2. Nhiệm vụ</small>

Với mục đích nêu trên, đề tài tập trung làm rõ các nhiệm vụ sau:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam và mối quan hệ giữa VKS với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc

<small>áp dụng BPNC tạm giam.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

- Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng kiểm sát việc tuân theo

<small>pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam trong thời gian qua.- Phân tích ngun nhân của thực trạng đó.</small>

- Trên cơ sở những nguyên nhân đó, tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng công tác kiểm sát việc tuân theo

<small>pháp luật của VKS trong việc áp dụng BPNC tạm giam.</small>

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam của VKSND đảm bảo việc tuân

<small>thủ pháp luật trong việc 4p dụng BPNC tạm giam. Ngoài ra, luận văn cũng</small>

nghiên cứu và làm rõ những điểm mới trong các quy định về kiểm sát việc áp

<small>dụng BPNC tạm giam của BLTTHS năm 2015.- Phạm vi nghiên cứu:</small>

Về nội dung: “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam” là một đề tài có tính khái qt cao, nội dung rất rộng và phong phú. Vì vậy, trong khn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập

<small>trung nghiên cứu những quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật khác</small>

liên quan đến chức năng, vai trò của VKS trong việc áp dụng BPNC tạm giam như: Luật tô chức VKSND năm 2014, Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/QD-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng VKSND Tối cao, Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/QD-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSND Tối cao..., kết hợp với đánh giá thực tiễn công tác kiểm sát việc tuân theo pháp trong việc áp

<small>dụng BPNC tạm giam.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

phạm vi toàn quốc.

<small>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn</small>

<small>5.1. Cơ sở lý luận</small>

Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nha nước pháp quyên và van đề cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan có thâm quyền áp dụng BPNC tạm giam và công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam của VKSND.

<small>3.2. Phương pháp nghiên cứu</small>

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật

<small>lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác — Lénin. Các phương pháp cụ</small>

thé được sử dụng kết hợp đó là: thống kê, phân tích, so sánh, tong hợp dựa

<small>trên các quy phạm pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo liên quan, các</small>

bài viết của các tác giả đã nghiên cứu trước đó, kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn dé đánh giá thực tiễn áp dung để hồn thành luận văn này một cách có chất lượng.

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

Bằng việc nghiên cứu, đánh giá những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam xoay quanh chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong việc áp dụng BPNC tạm giam ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sẽ tạo ra được một cách nhìn mới về van dé này. Đề tài tổng hợp một cách khoa học đưa ra những nguyên nhân, tồn tại, vướng mắc trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam của VKSND. Đưa ra những giải pháp để xây dựng, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Nghiên cứu công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam mang một ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, dé tài làm rõ lý luận về vị trí, vai trị của VKSND trong cơng tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Từ đó, có thé áp dụng vào thực tiễn nhằm đảm bảo đúng quy định của pháp luật, góp phần đảm bảo tốt hơn quyền con người nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam theo quy định của Hiến pháp nước Cộng

<small>hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, cũng như tháo gỡ những vướng</small>

mắc, bất cập trong công tác kiểm sát này. Về mặt thực tiễn, để đáp ứng và không ngừng nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong tình hình tồn Ngành tơ chức thực hiện các đạo luật tư pháp có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018, luận văn được sử dụng như là một tài liệu tham khảo về kiến thức chuyên sâu cho cán bộ, Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam và tất cả những ai quan tâm lĩnh vực này, cũng có thể nói rằng đây là đề tài có giá trị như tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy đối với các chức danh tư pháp nói chung và chức danh Kiểm sát viên nói riêng.

8. Kết cầu của luận văn

Ngồi lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

<small>02 chương:</small>

Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện

<small>pháp ngăn chặn tạm giam</small>

Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc

<small>tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

PHAP LUAT TRONG VIEC AP DUNG BIEN PHAP NGAN CHAN

<small>TAM GIAM</small>

1.1. Những van đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

<small>việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam</small>

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động kiểm sát việc tuân

<small>theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam</small>

1.1.1.1. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng

<small>biện pháp ngăn chặn tạm giam</small>

Kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam là một trong những công tác để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Hoạt động này giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính thống nhất, cơng bằng và nghiêm minh của pháp luật, phục vụ cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ của công dân ở nơi tạm giam. Việc hiểu, nhận thức đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về BPNC tạm giam và công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam là yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ kiểm sát làm công tác kiểm sát tạm giam.

Trước hết, cần làm rõ khái niệm BPNC tạm giam trong t6 tụng hình sự. Trong lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, biện pháp tạm giam với tính chất là BPNC được quy định lần đầu tiên tại Luật số 103-SL/L005 ngày 20/5/1957 về bao đảm quyền tự do thân thé và quyền bat kha xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Tại Điều 6 quy định: “Cơ quan tư pháp, Công an từ cấp tỉnh hoặc thành pho trở lên, hoặc Tòa án binh... quyết định việc tha han, tạm tha, hoặc tạm giam. Lệnh tạm giam can phạm do cơ quan tr pháp từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên hoặc Tòa án binh ký”. Dé hướng dẫn chi tiết một số nội dung của Luật số 103-SL/L005

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

nói trên, ngày 10/7/1957 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 301-Ttg, trong đó tại Điều 6 quy định: “1c ra lệnh tạm giam, hoặc gia han tạm

<small>giam một người phạm pháp, cơ quan tư pháp phải báo tin cho thân nhân</small>

người ấy biết lý do việc tạm giam ``.

Ngày 15/3/1976, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Sắc luật số 02-SL/76, quy định về việc bắt buộc phải có phê chuẩn của VKS nếu lệnh tạm giam do các cơ quan khác ban hành. Tại Điều 5 quy định: “Sau khỉ bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp pham tội quả tang hoặc trường hợp khẩn cấp, cơ quan an ninh hoặc VKSND phải xét hỏi ngay. Nếu xét thay can thiết phải tạm giam, thì việc tạm giam phải có lệnh viết của VKSND từ cấp huyện, quận, thị xã, thành pho thuộc tinh trở lên, hoặc lệnh viét của Cơ quan an ninh cấp tương đương, đã được sự phê chuẩn của VKSND cùng cap”.

Những quy định về BPNC tạm giam được quy định ở nhiều văn bản luật khác nhau, chỉ đến khi BLTTHS năm 1988 được Quốc hội nước Cộng hòa xã

<small>hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành vào ngày 18/6/1988, có hiệu lực thi hành từ</small>

ngày 01/01/1989 thì những quy định về BPNC tạm giam nói riêng và quy định về tố tụng hình sự nói chung mới được pháp điển hóa trong một bộ luật. Qua nhiều lần sửa đổi, b6 sung và mới đây nhất là năm 2015 những quy định về biện pháp ngăn chặn tạm giam đã ngày càng được hoàn chỉnh hơn.

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm BPNC tạm giam nhưng còn chưa thật sự đầy đủ, chưa bao hàm được hết mục đích, phạm vi đối tượng cũng như thâm quyền áp dụng BPNC này. Theo từ điển Luật học thì

<small>tạm giam là “biện pháp cách ly bi can, bị cáo với xã hội trong một thời gian</small>

nhất định, nhằm ngăn chặn hành vi tron tránh pháp luật, can tro diéu tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thuận lợi”". Mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và hành vi trỗn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tô, xét xử hoặc thi hành án được tiễn hành đúng đắn, cịn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án

<small>1 Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr 690.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

áp dụng nhằm trừng phạt người phạm tội và nhằm mục đích cải tạo họ trở

<small>thành người có ích cho xã hội.</small>

Có tác giả đưa ra quan điểm: “Zam giam là biện pháp tạm thời tước bỏ tu do, do Cơ quan diéu tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng với bị can, bị cáo trong trường hợp do luật định”. Khái niệm này tuy khá đầy đủ nhưng chưa chỉ ra mục đích cụ thê của BPNC này.

Theo Giáo trình Luật tổ tụng hình sự của trường Đại học Kiểm sát thì: “Tam giam là biện pháp ngăn chặn do người có thẩm qun tiến hành tơ tung ap dụng, hạn chế tự do thân thể trong một thời hạn nhất định đối với bị can, bi cáo khi có căn cứ do BLTTHS quy định nhằm ngăn chặn việc bị can, bi cáo sẽ gây khó khăn cho việc diéu tra, truy tô, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án ”°. Tác giả cho rang khái niệm này là hợp lý hon cả bởi vì nó đã chỉ ra được đối tượng áp dụng BPNC này là bị can, bị cáo tức là những người đã bị khởi tố hình sự hoặc những người bị Tịa án quyết định

<small>đưa ra xét xử. Căn cứ áp dụng là những căn cứ do BLTTHS quy định. Việc ap</small>

dụng BPNC tạm giam này được thực hiện bởi những người có thâm quyền của CQDT, VKS, Toa án. Đồng thời, khái niệm cũng khái quát được mục đích áp dụng BPNC này. Việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về BPNC tạm giam này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dung đúng pháp luật, giam đúng người, đúng tội, tránh oan sai, xâm phạm đến quyền bat khả xâm phạm về thân thé và quyền tự do của cơng dân. Đồng thời góp phần giải quyết kịp thời, nhanh chóng vụ án hình sự, đảm bảo trật tự an

<small>tồn xã hội.</small>

Tóm lại, về mặt khoa học pháp lý có thé định nghĩa: “Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật to tụng hình sự, do người

<small>có thám qun cua Cơ quan diéu tra, Viện kiêm sát, Toa an ap dụng doi với</small>

<small>2 Hoàng Tám Phi (2018), “Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015”, Tạp</small>

<small>chí kiểm sát (7), tr 46 - 49.</small>

<small>3 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,</small>

<small>tr 242.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

người đã bị khởi tô về hình sự hoặc người đã bị Tịa án quyết định đưa ra xét

xử khi có những căn cứ do BLTTHS quy định nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo bỏ tron, tiếp tục phạm tội cũng như tạo diéu kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự ”.

Về khái niệm kiểm sát, theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia xuất bản năm 2000 thì “kiểm sát” có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp

<small>hành pháp luật của Nhà nước.</small>

Theo Từ điển Luật học thì kiểm sát hoạt động tư pháp có nghĩa là “kiểm tra, xem xét theo doi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động diéu tra, truy 10, xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tô tụng va giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân bảo dam cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thong nhất ”.

Từ cách giải thích khái niệm “kiểm sát” của các cuốn từ điển nêu trên, tác giả cho răng kiểm sát gốm hai loại hình hoạt động là kiểm tra và giám sát. Hoạt động kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh giá hoạt động của người, cơ quan bị kiểm tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối tượng bị giám sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện pháp tác động phù hợp dé yêu cầu người, co quan bị giám sát có hành vi vi phạm pháp luật

<small>sửa chữa vi phạm đó.</small>

Hoạt động áp dụng BPNC tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, vì vậy cần có quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện kịp thời và khắc phục những vi phạm trong việc áp dụng

<small>BPNC tạm giam. VKS là cơ quan được Nhà nước giao thực hiện chức năng</small>

này. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định “Viện kiểm sát nhân dan thực hành quyên công tố, kiểm sát hoạt động tr pháp” và “Viện kiểm sát nhân dan có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyên con người, quyên công dân, bảo

<small>vệ chê độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyên và lợi ích hợp</small>

<small>4 Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr 443.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

pháp của tơ chức, cá nhân, góp phan bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thong nhất”. Có thé thay chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là chức năng hiến định nhằm bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất và nghiêm chỉnh, có nội dung là giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, qua đó bảo đảm Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, tơn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam là một công tác quan trọng, thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. Căn cứ để VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam là các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTHS và các văn bản pháp luật có liên quan để kiểm tra, xem xét, đánh giá tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, cá nhân trong áp

<small>dụng BPNC tạm giam. VKS có trách nhiệm áp dung mọi biện pháp do pháp</small>

luật quy định như kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu... để loại trừ việc vi phạm pháp luật của các cơ quan, người có thâm quyền trong việc áp dụng BPNC tạm giam ké từ khi có quyết định áp dụng BPNC tạm giam đến khi những quyền cơ bản của công dân là người bị áp dụng BPNC tạm giam được phục hồi. Phạm vi của kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam bắt đầu từ khi các cơ quan THTT ra quyết định áp dụng BPNC tạm giam và kết thúc khi người bị

tạm giam có quyết định thi hành án hình sự, hoặc họ được hủy bỏ BPNC tam

<small>giam khi vụ án bị đình chỉ, được trả tự do vì khơng phạm tội.</small>

Trong q trình giải quyết vụ án hình sự, khơng phải tất cả các cơ quan tư pháp đều có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam mà pháp luật tố tụng hình sự chỉ giao quyền áp dụng biện pháp tạm giam cho CQDT, VKS và Toa án. Khi các cơ quan THTT áp dụng BPNC tạm giam, kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho việc ra quyết định, tổ chức thực hiện BPNC tạm

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

giam được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy, đối tượng của kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam là hành vi xử sự của cơ quan, người có thâm quyền ra lệnh tạm giam theo quy định của pháp luật, bao gồm CQDT,

<small>Tòa án.</small>

Khi phát hiện vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng BPNC tạm giam, VKS có nhiệm vụ và quyền ban hành các văn bản yêu cầu các cơ quan đó khắc phục vi phạm như có biện pháp sửa chữa, thay thế các văn bản, quyết định áp dụng BPNC tạm giam đảm bảo đúng thâm qun, trình tự, thủ tục; khơi phục các quyền lợi của người bị tạm giam không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng, bảo vệ. Nội dung của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam là những quyền năng pháp lý của VKS được pháp luật quy định quyền phát hiện vi phạm pháp luật, yêu cầu các cơ quan THTT khắc phục và xử lý vi phạm trong việc áp dụng BPNC tạm giam thông qua ban hành yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị đối với CQĐT, Tòa án. Các cơ quan có trách nhiệm thực hiện những yêu cầu, kiến nghị,

<small>kháng nghị của VKS.</small>

Từ những phân tích trên có thé đưa ra khái niệm kiểm sát việc tuân theo

<small>pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam là hoat động thực hiện chức</small>

năng của VKSND bằng những quyên năng pháp lý được pháp luật quy định để kiểm sát tinh có căn cứ và tinh hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyên trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về tam giam nhằm đảm bảo việc áp dụng BPNC tạm giam theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ các quyên tự do của con người, góp phan đấu tranh phịng, chong tội phạm ”.

1.1.1.2. Đặc điểm của kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam có những đặc điểm như sau:

Thứ nhất, kiêm sat việc áp dụng BPNC tạm giam mang tính quyền lực

<small>Nhà nước, đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong quá trình hoạt động tư pháp</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

của các chủ thé. Dé hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng pháp luật và hiệu quả, ngoài việc chấp hành pháp luật và tự giám sát, kiểm tra nội bộ của các cơ quan tư pháp, Hiến pháp và các đạo luật đã quy định cơ chế giám sát và quy định các cơ quan tư pháp phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội và cơ quan được Quốc hội giao quyền kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật. Thực tế cho thay, từ khi có Hiến pháp năm 1959 đến nay, Quốc hội không thé và không can thiết phải tự mình trực tiếp giám sát tồn bộ hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Quốc hội đã giao cho VKS thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong phạm vi được Quốc hội giao cho (quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội từ năm 1960 đến năm 2002 và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp từ năm 2002 đến nay). Việc Quốc hội giao cho VKS thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội trước đây và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp hiện nay là xuất phát từ lý do VKS do cơ quan lập pháp cao nhất của nhà nước là Quốc hội lập ra, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thông nhất và độc lập so với các cơ quan nhà nước khác. VKS là cơ quan không nam trong hệ thong các cơ quan hành pháp và cơ quan xét xử. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS luôn hướng tới mục tiêu bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của công dân va của các chủ thé trong xã hội được bảo đảm một cách tốt nhất, không bị vi phạm. Trong hoạt động tạm giam, khi phát hiện vi phạm VKS có quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị các cơ quan, cá nhân khắc phục vi phạm. Các yêu cầu, kiến nghị của VKS khi kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam phải được các cơ quan, chủ thé chấp hành. Day là chức năng hiến định, được ghi nhận trong Hién pháp năm 2013 và buộc các chủ thé bị kiểm sát phải tơn trọng và chấp hành.

Thứ hai, chỉ có VKS mới có thê tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám

<small>sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam một cách trực</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

tiếp, cụ thé, liên tục. Tính liên tục thé hiện ở chỗ VKS có quyên và nghĩa vu có mặt tại tat cả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, ké từ khi có quyết định áp dụng BPNC tạm giam đến khi những quyền cơ bản của công dân là người bị áp dụng BPNC tạm giam được phục hồi. Tính cụ thé chính là việc VKS có quyền giám sát chỉ tiết, ti mi các hoạt động cụ thé: kiểm sát chủ thé ra lệnh tam giam, kiểm sát căn cứ tạm giam,... VKS kiểm sát một cách trực tiếp đối với việc áp dụng BPNC tạm giam thể hiện ở việc có mặt, theo sát, nhắc nhở kịp thời khi các cơ quan THTT trong việc tạm giam khắc phục vi phạm khi thực hiện hoạt động áp dụng biện pháp này.

Thứ ba, mục đích của việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc

<small>áp dụng BPNC tạm giam là việc đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các cơquan THTT và người THTT trong việc áp dụng BPNC tạm giam. Đây là một</small>

nội dung quan trọng, có ý nghĩa phân biệt kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam với kiểm sát các BPNC khác. Tạm giam được đánh giá là BPNC nghiêm khắc nhất trong số các BPNC, theo đó người bị tạm giam sẽ bị hạn chế một số quyền tự do và bị giam giữ, quản lý theo một chế độ đặc biệt. So với biện pháp tạm giam, các biện pháp cắm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị dé bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại hoặc quyền và lợi ich hợp pháp về tài sản mà không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như quyên bất khả xâm phạm về thân thé, quyền tự do giao tiếp,... So với biện pháp tạm giữ thì tạm giam là biện pháp có thời gian hạn chế tự do của người bị áp dụng lâu hơn. Các chế độ tạm giam nghiêm khắc hơn so với chế độ áp dụng đối với người bị tạm giữ. Vì vậy việc quy định VKS kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam là rất cần thiết nhằm đạt được mục đích đảm bảo quyền con người, quyền công dân được tôn trọng trong

<small>công tác thực thi pháp luật của các cơ quan THTT.</small>

1.1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật

<small>trong việc áp dụng biện pháp tạm giam</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Trong thâm quyền được giao của mình, việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam của VKS có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, kiểm sát việc tạm giam nhằm đảm bảo Pháp chế xã hội chủ nghĩa góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo đó, khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý tối thượng là Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLHS, BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan để xem xét, bảo đảm sự tuân theo pháp luật của các chủ thê bị kiểm sát, cũng như bảo đảm tính hợp pháp của ngay chính các hoạt động kiểm sát của VKS. Việc kiểm sát tạm giam của VKS là kiểm sát việc tiến hành tạm giam đúng theo căn cứ, theo đúng trình tự thủ tục, đúng thời gian và đúng người có thâm quyền ra quyết định tạm giam. Công tác kiểm sát tạm giam nhằm đảm bảo bị can bị cáo tạm giam phải có lệnh hoặc quyết định hợp pháp của người có thâm quyên. Khi VKS thực hiện hoạt động kiểm sát tạm giam của mình tức là kiểm tra và giám sát các cơ quan THTT,

<small>người THTT có thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật hay</small>

khơng. Ngồi ra thơng qua việc kiểm tra giám sát, VKS phát hiện được những

<small>vi phạm pháp luật trong thực hiện các thủ tục tạm giam, qua đó xử lý nghiêm</small>

những trường hợp vi phạm và u cầu khắc phục hậu quả. Chính vì vậy, khi VKS thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ kiểm sát của mình thì sẽ đảm bảo cho hoạt động tạm giam trong giai đoạn điều tra được diễn ra theo đúng quy định của pháp luật; tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng và bảo vệ, từ đó góp phần đảm bảo được pháp chế xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta.

Thứ hai, kiểm sát tạm giam nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam. Đó là các quyền được bảo về về tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bi tạm giam và các quyền khác của họ

<small>không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng và bảo vệ.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp 2013 khang định nguyên tắc: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; “quyên con người, quyền công dân chỉ có thé bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp can thiết vi lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (Khoản 2 Điều 14). Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thé hiện tư tưởng pháp quyền, dé cao trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân, đồng thời là cơ sở pháp ly cao nhất dé mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyên con người, quyền công dân của mình. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, dé đạt được mục đích cao nhất là phát hiện tội phạm và người phạm tội, pháp luật của tất cả các nước đều cho phép áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Song van dé cần nhân mạnh là, không phải bat cứ đối tượng nào cũng có thé bị áp dụng biện pháp này. Trường hợp cần phải áp dụng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền cơng dân thì phải đáp ứng đầy đủ căn cứ luật định, phải trên cơ sở và chỉ trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Theo đó, đối với các biện pháp có tính chất hạn chế quyền tự do của con người phải được VKS quyết định hoặc phê chuẩn nếu vụ án ở giai đoạn điều tra.

Thứ ba, kiém sat tạm giam nhằm dam bảo thuận loi cho các hoạt động tố tụng. Tạm giam là một BPNC được quy định trong BLTTHS nhằm ngăn chặn tội phạm và các hành vi khác gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho CQDT có thé tiễn hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bi can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ. Vì vậy, thực hiện tốt việc kiểm sát tạm giam sẽ bảo đảm sự có mặt của bị can theo giấy triệu tap của cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo sự chính xác, khách

quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

tìm cách xóa dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án. Từ đó sé day nhanh qua trình xác định sự thực khách quan, làm sáng tỏ vu án, dam bảo cho các giai đoạn tố tụng sau này như giai đoạn truy tố của VKS, xét xử

<small>của Tòa án được thực hiện đúng và nhanh chóng theo quy định của pháp luật.</small>

Việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau

<small>khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.</small>

Với ý nghĩa như trên, đề thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm sát tạm giam phải được thực hiện nghiêm túc, khách quan. Kiểm sát tạm giam phải gắn liền với nhiệm vụ bảo đảm quyên và lợi ích của người bị tạm giam. Nếu một người bị tạm giam trái pháp luật thì thơng qua hoạt động kiểm sát tạm giam, KSV cần nhanh chóng phát hiện để kịp thời

<small>trả tự do cho người bị giam giữ khơng có căn cứ và trái pháp luật.</small>

1.1.2. Mỗi quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra, Tòa án khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn

<small>chặn tạm giam</small>

1.1.2.1. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Cơ quan diéu tra

Trong giai đoạn điều tra, CQDT là chủ thé chính áp dụng BPNC tạm giam và VKSND với tư cách tô tụng là chủ thé kiểm tra, giám sát và phối hợp. Trong việc thực hiện biện pháp tạm giam, mối quan hệ giữa VKS với CQDT ln thê hiện rõ tính phối hợp và chế ước.

Sự phối hợp giữa VKS và CQDT trong việc áp dụng biện pháp ngăn

<small>chặn tạm giam là sự hợp tác việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS và</small>

của CQDT nhằm kip thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án theo đúng quy định của pháp luật. Về hình thức, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phối hợp bằng nhiều cách thức, cấp độ, tần suất khác nhau, như: Phối hợp theo quy định của pháp luật (Bộ luật Tố tụng Hình sự, Thông tư liên tịch...), các quy định giữa hai ngành, hai đơn vị cùng cấp (quy chế, quy định phối hợp); phối hợp thường

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

xuyên định kỳ theo chương trình, kế hoạch hoặc đột xuất thơng qua việc kiểm sát trực tiếp. Về chủ thể, có sự phối hợp giữa Lãnh đạo Viện kiểm sát với lãnh đạo CQDT hoặc giữa DTV với KSV. Về hình thức phối hợp thông qua văn bản hoặc trao đôi trực tiếp... Về nội dung, CQDT va VKS phối hợp trong việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn. Trong đó, CQĐt và VKS cùng có sự phối hợp chặt chẽ, bình đắng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm;

chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp phụ thuộc chủ yếu vào sự tích cực phối hợp của cả hai chủ thể này. Trường hợp xét thấy việc quyết định tạm

<small>giam người khơng có căn cứ và trái pháp luật thì thực hiện theo quy định tại</small>

Mục 1 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của VKSND tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng về quan hệ phối hợp giữa CQDT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003. Trong trường hợp cần thiết phải gia hạn tạm giam thì thực hiện theo quy định tại Điều 173 BLTTHS năm 2015. Trong giai đoạn điều tra, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị can hoặc cần phải thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn khác thì Điều tra viên trao đổi thống nhất ý kiến với Kiểm sát viên. Nếu quan điểm của Điều tra viên và Kiểm sát viên khơng thống nhất thì Điều tra viên chủ động báo cáo đề xuất lãnh đạo CQDT tô chức họp lãnh đạo hai đơn vị dé cho ý kiến chỉ đạo”.

<small>Giữa VKS và CQDT trong việc áp dụng biện pháp ngăn chan tạm giam</small>

có mối quan hệ tố tung đặc biệt, trong đó VKS có quyên giám sát, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định, hành vi khơng có căn cứ và trái pháp luật của CQDT và Điều tra viên. Quyền này của VKS có hiệu lực rất cao và CQDT phải chấp hành nên có thể nói nó mang tính chế ước của VKS đối với CQĐT. Trong việc áp dụng biện pháp tạm giam, khi xét thay có căn cứ tạm giam đối với một bi can nhưng CQDT khơng áp dụng biện pháp tạm giam thì VKS yêu cau CQDT ra lệnh tạm giam sau đó VKS phê chuẩn. Theo quy định tại Điều 167

<small>5 Lại Anh Tuấn (2017), “Nội dung quan hệ giữa VKSND với CQĐT trong điều tra, xử lý các vụ án hìnhsự”, Tạp chí Kiểm sát (16), trang 5-10.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

BLTTHS năm 2015, CQDT bắt buộc phải thực hiện các yêu cầu của VKS, trong đó bao gồm cả yêu cầu áp dụng biện pháp tạm giam. Mặc dù vậy, trong nhiều trường hợp, khi VKS đã có yêu cầu nhưng CQDT không ra lệnh tạm giam ngay dẫn đến mục đích ngăn chặn khơng được đảm bảo kịp thời. Trong trường hợp này VKS có thé trực tiếp ra lệnh tạm giam, sau đó chuyển CQDT thực hiện. Tính chế ước của VKS nhăm bắt buộc CQDT thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tạm giam nhằm ngăn ngừa, loại bỏ các vi phạm pháp luật trong quá trình tạm giam, bảo đảm quyên và lợi ích hợp pháp của

<small>người bi tạm giam.</small>

1.1.2.2. Mỗi quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án

Các cơ quan THTT nói chung đều có chung nhiệm vụ là đấu tranh, phịng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, an tồn xã hội và cùng có trách nhiệm là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, không dé lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, tôn trọng quyền và lợi ích của cơng dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính từ mục đích chung đó đã hình thành nên mối quan hệ phối hợp trong tố tụng hình sự giữa VKS va Toa án như là một van dé tất yếu. Mối quan hệ giữa VKS và Tòa án thường chỉ xuất hiện sau khi vụ án đã được VKS truy tố và chuyên hồ sơ đến Tòa án dé đưa vụ án ra xét xử. Khi đề cập đến giai đoạn xét xử, người ta thường nhắc đến vai trò trung tâm của Tịa án, việc áp dụng

<small>BPNC nói chung và việc áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng ở giai đoạn</small>

này hồn tồn do Tịa án trực tiếp quyết định. Cơ sở của sự phối hợp là chỉ khi xảy ra việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPNC và dựa trên các nguyên tắc cơ bản BLTTHS đã định, trong đó là nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan tố tụng hình sự với các cơ quan, tổ chức nhà nước. Bên cạnh đó quan hệ phối hợp giữa Toa án và VKS trong tơ tụng hình sự còn xuất phat từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của người THTT; việc thực hiện các quy định của pháp luật do có sự bất cập, chưa hồn thiện, do đó địi hỏi có sự phối

hợp hoạt động đề đạt hiệu quả trong hoạt động áp dụng BPNC tạm giam và áp

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

dụng thống nhất căn cứ pháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Theo quy

<small>định của BLTTHS thì lệnh tạm giam của Tòa án phải được gửi ngay cho VKS</small>

cùng cấp, điều này sẽ giúp cho quá trình kiểm sát được thực hiện kịp thời. Như vậy, trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, mối quan hệ giữa VKS và Tịa án có mối quan hệ phối hợp trong việc trao đổi, cung cấp những thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ có liên quan đến tạm giam.

Pháp luật nước ta xác lập quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát không những là quan hệ phối hợp mà còn là chế ước. Sự tác động qua lại của hai chủ thể này trong những điều kiện nhất định giúp cho việc thực thi công vụ đúng dan, tránh lạm quyền. Nói cụ thê ra là đảm bảo cho hoạt động t6 tụng hình sự

tránh sai sót, vi phạm pháp luật dẫn đến việc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, nhà nước và xã hội. Quan hệ chế ước giữa các chủ thé thể hiện ở chỗ: khi việc áp dụng biện pháp tạm giam của Tịa án khơng có căn cứ và khơng đúng pháp luật thì VKS ban hành kiến nghị, kháng nghị để yêu cầu Tòa án kịp thời khắc phục.

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về kiểm sát việc tuân

<small>theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam</small>

1.2.1. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam ở giai đoạn điều tra Cơ sở pháp lý dé VKS dựa vào để thực hiện hoạt động kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam trong giai đoạn điều tra là căn cứ được quy định tại Điều 20, điểm p khoản 2 Điều 41, điểm c, điểm o Điều 42, Điều 109, Điều 119, Điều 166 BLTTHS năm 2015, ngoài ra đối với người dưới 18 tuổi phạm tội việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra còn phải căn cứ quy định tại Điều 419 BLTTHS năm 2015.

Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm kiểm sát việc tn theo pháp luật trong việc tạm giam của CQDT thể hiện qua việc VKS là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chất quyết định như xét phê chuẩn, không phê chuẩn các lệnh, quyết định tạm giam của CQDT. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam được

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

thực hiện gián tiếp băng việc nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu liên quan đến việc đề nghị áp dụng BPNC tạm giam mà CQDT chuyển cho VKS. Để thực hiện tốt chức năng kiểm sát VKS phải đảm bảo việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh, quyết định tạm giam của CQDT được chính xác, đúng pháp luật, địi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQDT quyết định áp dụng, hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy răng, quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có căn cứ và hợp pháp thi VKS sẽ quyết định phê chuẩn dé thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của CQDT khơng có căn cứ và khơng hợp pháp, VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của CQDT, đồng thời yêu cầu CQDT chấm dứt ngay các hoạt động t6 tung.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 119 BLTTHS năm 2015 thì “Lệnh tam giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điểu 113 của Bộ luật này phải duoc VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”. Do đó, dé phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh tạm giam của CQDT thì Kiểm sát viên phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ, đối chiếu với quy định tại các điều 113, 119 và 173 BLTTHS năm 2015 dé xác định thâm quyền, đối tượng, căn cứ, điều

kiện tạm giam, thời hạn tạm giam đối với từng bị can; báo cáo, đề xuất lãnh

dao đơn vi, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc không phê

chuẩn và trả hồ sơ cho cơ quan đề nghị phê chuẩn ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn. VKS tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giam của CQDT nhăm bảo đảm lệnh tạm giam có căn cứ và hợp pháp, nếu qua hoạt động kiểm sát xét thấy lệnh tạm giam có căn cứ và hợp pháp thì VKS quyết định phê chuẩn dé CQDT tiến hành hoạt

<small>động tạm giam, ngược lại lệnh tạm giam khơng có căn cứ thì lệnh tạm giam</small>

đó khơng được phê chuẩn. Trong thời hạn nhất định, VKS phải phê chuẩn

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của CQDT: “7rong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, dé nghị xét phê chuẩn và hô sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan diéu tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn. ” (khoản 5 Điều 119 BLTTHS

<small>năm 2015).</small>

Quá trình VKS xét phê chuẩn lệnh tạm giam của CQĐT là q trình VKS kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp về mặt hình thức cũng như về mặt nội dung của lệnh tạm giam đó. Những vấn đề về mặt nội dung của lệnh tạm giam bao gồm những van đề liên quan đến căn cứ tạm giam, đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giam, điều kiện tạm giam. Những vấn đề liên quan đến mặt hình thức của lệnh tạm giam bao gồm những vấn đề liên quan đến thời

hạn, thâm quyên, thủ tục ban hành lệnh tạm giam.

Thứ nhát, về kiểm sát việc thực hiện quy định cua BLTTHS năm 2015 về căn cứ, đối tượng tạm giam và điều kiện tam giam:

* Kiểm sát việc thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 VỀ can cứ tạm giam: KSV phải kiểm tra từng đối tượng, từng trường hop cụ thé dé báo cáo đề xuất Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc KSV được Viện trưởng ủy quyền xem xét, xác định đối tượng đó có đúng căn cứ để áp dụng BPNC tạm

<small>giam hay khơng.</small>

Như đã phân tích ở phần trên tạm giam là BPNC có tính nghiêm khắc nhất so với các BPNC khác và đây là một trong những biện pháp cưỡng chế Nhà nước nên xu hướng chung của pháp luật tố tụng hình sự là hạn chế việc áp dụng BPNC tạm giam và quy định chặt chẽ về các vấn đề liên quan đến tạm giam, vì vậy căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cũng được quy định rất chặt chẽ và chỉ được áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra khi có các căn cứ sau đây (Điều 109 BLTTHS năm 2015):

<small>- Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việcđiêu tra, truy tô, xét xử. Người bị buộc tội là một khái niệm mới, được quy</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015, đó là người bi bắt, người bị

<small>tạm giữ, bị can, bị cáo. Căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn</small>

cho việc điều tra, truy tơ, xét xử được thé hiện qua việc bỏ trỗn, làm giả chứng cứ hoặc tiêu hủy chứng cứ, thông cung... nhằm trốn tránh pháp luật, mua chuộc, đe doa, khống chế người làm chứng, người bị hại... gây khó khăn

<small>phức tạp cho việc xác định, làm rõ sự thật khách quan vụ án.</small>

- Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội tiếp tục phạm tội. Đây là trường hợp người bi buộc tội đã thực hiện it nhất một tội phạm nhưng có căn cứ cho rằng họ có thé tiếp tục phạm tội. Vì vậy việc áp dụng BPNC tạm giam dé cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội một thời gian hoặc hạn chế điều kiện cản trở việc thực hiện tội phạm là rất quan trọng. Khi áp dụng căn cứ chứng td người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội phải đánh giá một cách tổng hợp dựa vào những dấu hiệu như nhân thân người phạm tội, có khả năng thực hiện đe dọa bị hại, người làm chứng hoặc đang chuẩn bị sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội... Cụ thể:

+ Về nhân thân bị can, bị cáo: Bị can, bị cáo là những đơi tượng có nhân thân xấu, Ví dụ: bị can, bị cáo là người có ý thức chống đối giai cấp sâu sắc, những phần tử thuộc diện lưu manh, côn dé, hung han... Bi can, bi cao là những người đã có nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Ví dụ: bị can, bị cáo là người chuyên sống bằng các nghé như trộm cắp, lừa đảo...

+ Về hành vi của các bị can, bị cáo: Bị can, bị cáo đã có những biểu hiện sẽ tiếp tục phạm tội thé hiện như: De doa trả thù người tố giác, đe dọa trả thù người bị hại, người làm chứng và đã có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện hoặc các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm và xét thay bi can, bi

<small>cáo có khả năng thực hiện được sự de doa đó.</small>

* Kiểm sát về đối tượng: KSV cần kiêm tra từng đối tượng, đối chiếu từng trường hợp cụ thé dé báo cáo đề xuất Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

KSV được Viện trưởng ủy quyền xem xét, xác định đối tượng nào cần phải giam, đối tượng nào không cần giam, đối tượng nào không được giam.

Theo quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015 thì đối tượng có thé bị áp dụng BPNC tạm giam trong giai đoạn điều tra chỉ có thê là bị can. Những người chưa bị khởi tố bị can không phải là đối tượng của tạm giam.

* Kiểm sát về trường hop tạm giam: KSV cần kiềm tra từng đối tượng, đối chiếu từng trường hợp cụ thé dé báo cáo đề xuất Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc KSV được Viện trưởng ủy quyền xem xét, xác định đối tượng bị

<small>áp dụng BPNC tạm giam có đúng trường hợp hay không.</small>

Theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 119 BLTTHS, BPNC tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp

Trường hợp thứ nhất: BỊ can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của BLHS, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên

<small>15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc</small>

phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Việc áp dụng BPNC tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện:

- Người thực hiện tội phạm là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị thâm phán ra quyết định đưa vu án ra xét xử với tư cách là bi cáo;

- BỊ can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng. Trường hợp thứ hai: Nếu như BLTTHS 2003 quy định: Bi can, bị cáo

<small>phạm tội nghiêm trọng; phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình</small>

phat tù trên hai năm và có căn cứ cho răng người đó có thé trốn hoặc cản trở việc điều tra; truy tơ; xét xử hoặc có thé tiếp tục phạm tội thì có thé áp dụng biện pháp tạm giam, thì BLTTHS 2015 đã bỏ những căn cứ mang tính chất chung chung, khó xác định cụ thé như “cản frở việc diéu tra; truy tố; xét xử” thay vào đó là những căn cứ mang tính định lượng cụ thê như: (1) Đã bị áp

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; (2) Không có nơi cư trú rõ</small>

ràng hoặc khơng xác định được lý lịch bị can; (3) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; (4) Tiếp tục phạm tội hoặc có dau hiệu tiếp tục phạm tội; (5) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian đối, cung cấp tài liệu sai sự thật; (6) Tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tâu tán tài sản liên quan đến vụ án; (7) De dọa, khống ché, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Việc sửa đổi các căn cứ áp dụng BPNC tam giam trong BLTTHS năm 2015 là rất quan trọng. Bởi lẽ, quy định như vậy sẽ góp phần hạn chế sự tùy tiện, lạm dụng áp dụng biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án. Đáp ứng được yêu cầu của Đảng và Nhà nước đã được thé hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm xã

Như vậy, để tạm giam trong trường hợp này cần có ba điều kiện: - Đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo;

<small>- BỊ can, bi cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng ma</small>

<small>BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm. Đây là trường hợp bị can, bị cáophạm tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng mà BLHS quy định mức cao</small>

nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên hai năm tù. Trong một điều luật có nhiều khoản thì phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể tạm giam, phạm tội thuộc khoản có mức hình phạt từ hai năm tù trở xuống thì khơng được tạm giam;

- Việc tạm giam chỉ có thể được áp dụng khi thuộc các trường hợp sau

<small>+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;</small>

<small>+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc khơng xác định được lý lịch của bị</small>

<small>6 Hoàng Tam Phi, tldd chú thích 2, tr 49.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

+ Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; + Tiếp tục phạm tội hoặc có dau hiệu tiếp tục phạm tội;

<small>+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giuc người khác khai báo gian</small>

dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật

của vụ án, tâu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của

<small>những người này.</small>

Truong hop thứ ba: bị can, bị cáo đang bị điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà BLHS quy định mức phạt tù đến hai năm có thể áp dụng biện pháp tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trỗn và bi bắt theo

<small>lệnh truy nã.</small>

Nhằm khắc phục vướng mắc trên thực tế áp dụng BLTTHS năm 2003

<small>khi xảy ra tình trạng những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng có mức</small>

phat tù quy định trong BLHS dưới 02 năm thì khơng thé áp dụng BPNC tam giam được; điều này gây khó khăn trong thực tiễn giải quyết vụ án. Bởi vì, trên thực tế có những đối tượng phạm tội ít nghiêm trọng như: Trộm cắp giá trị nhỏ, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giá trị nhỏ... nhưng bỏ tron khi bị khởi tố, tiếp tục phạm tội ít nghiêm trọng... thì các cơ quan THTT không thể áp dụng biện pháp tạm giam được. Khắc phục nhược điểm này, BLTTHS

<small>nam 2015 đã quy định thêm trường hợp tạm giam nói trên.</small>

<small>Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng</small>

BPNC tạm giam. Tuy vậy, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yêu, người bị bệnh nặng mà

<small>nơi cư trú rõ ràng thì khơng tạm giam mà phải áp dụng BPNC khác, trừnhững trường hợp sau:</small>

+ Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;

+ Bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Đối với trường hợp này, BLTTHS 2015 đã mở rộng thêm điều kiện bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội không kê đã

<small>áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hay chưa;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>+ Bi can, bi cáo có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác</small>

khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy gia mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tâu tán tài sản có liên quan đến vụ án; đe dọa, khống

chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân

<small>thích của những người này;</small>

+ Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu khơng tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc

Với quy định nay, BLTTHS năm 2015 đã thé hiện khá rõ nét nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em. Với điều kiện sinh hoạt trong các trại tạm giam thì khơng thể đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ mang thai, nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuôi người già yêu và người bị bệnh nặng. Hơn nữa trong những trường hợp này thì bị can, bị cáo đã có nơi cư trú rõ ràng, nếu họ không thuộc các trường hợp đặc biệt kể trên, các cơ quan THTT có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.

* Kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giam đối với bị can dưới 18 tuổi

<small>Ngoài các trường hợp nêu trên thì BLTTHS năm 2015 cịn quy định một</small>

số trường hợp ngoại lệ có thể bị áp dụng BPNC tạm giam đối với người dưới 18 tuôi phạm tội. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung mới đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế nhằm đảm bảo việc xử lý người chưa thành niên phạm tội được khách quan, chính xác, nhân đạo, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Điều 419 BLTTHS 2015 đã được sửa đổi, bố sung theo hướng quy định chặt chẽ các căn cứ, điều kiện nhằm hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng đối với người dưới 18 tuổi

<small>phạm tội, đó là:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

- Chỉ áp dụng BPNC tạm giam trong trường hợp thật cần thiết. Chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện

<small>pháp giám sat và các BPNC khác không hiệu quả. Lưu ý, thoi hạn tam giam</small>

đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng 2/3 thời hạn tạm giam

đổi với người đủ tuổi 18 trở lên.

- Kiểm sát việc thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 về căn cứ, điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giam:

(1) Người đủ từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thé bị tạm giam về tội phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 nếu có các căn cứ tạm giam quy dinh tai diém a, b, c, d, d khoan 2 Diéu 119 BLTTHS 2015.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cơ ý gây thương tích hoặc gây tơn hại sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tudi đến dưới 16 tuôi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và tội rat nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều: Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (Tội mua bán người); Điều 151 (Tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 170 ( Tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (Tội cướp giật tài sản); Điều 173 (Tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); Điều 248 (Tội sản xuất trái phép chat ma túy); Điều 250 (Tội vận chuyền trái phép chất ma túy); Điều 251 (Tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (Tội chiếm đoạt chat ma túy); Điều 265 (Tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (Tội đua xe trái phép); Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (Tội phát tán chương trình tin học gây hai cho hoạt động mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử); Điều 287 (Tội cản trở hoặc gây rỗi loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử); Điều 289 (Tội xâm phạm trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (Tội sử dụng mạng máy

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); Điều 299 (Tội khủng bố); Điều 303 (Tội phá hủy cơng trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Diéu 304 (Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyên, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng,

<small>phương tiện kỹ thuật quân sự).</small>

Như vậy, với các trường hợp cụ thé này, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tudi đến đưới 16 tuôi đã được thu hẹp so với trước đây, đồng nghĩa với việc tạm giam đối với họ cũng được thu hẹp, chỉ áp dụng khi

<small>họ phạm tội và có một trong các căn cứ trên.</small>

(2) Người đủ từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thé tạm giam về tội nghiêm trọng do cơ ý, toi rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu có các căn cứ tạm giam quy định tại các điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 119 BLTTHS

(3) Bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến đưới 18 tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm thì cũng có thể bị tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

- Trong thời han 24 giờ kế từ khi tạm giam thì người ra các lệnh trên phải thông báo cho người đại diện của họ biết, nhằm xác định cụ thê trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng; đồng thời, tạo những thủ tục minh bạch, bảo đảm việc công khai thông tin dé người bi buộc tội là người dưới 18 tuổi và người đại diện của họ có được những điều kiện tốt nhất để thực hiện các quyên, nhất là quyền bào chữa của ho.

Tóm lại, đối với các trường hợp trên, KSV phải kiểm tra kỹ các tài liệu phản ánh về độ tuổi của bị can; tình trạng sức khỏe, nơi cư trú; về tiền án, tiền sự; các dấu hiệu chứng tỏ có hay không hành động cản trở đến hoạt động điều tra, truy tố,. wi

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Thứ hai, kiểm sát việc thực hiện quy định cua BLTTHS năm 2015 về

thẩm quyên, thủ tục ban hành lệnh tạm giam, thời hạn ghi trong lệnh tạm

* Kiểm sát về thẩm quyên: KSV phải căn cứ vào quy định quy định tại khoản 5 Điều 119 BLTTHS năm 2015 dé kiểm tra về thắm quyền ra lệnh tam giam của CQĐT có đúng quy định của pháp luật không. Khi kiểm tra nếu thay khơng đúng thâm quyền thì tùy từng trường hợp cụ thé KSV báo cáo đề xuất Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc KSV được Viện trưởng ủy quyền ra quyết định không phê chuẩn lệnh tạm giam.

Khoản 5 Điều 119 BLTTHS năm 2015 quy định những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm giam (những người có quyên ra lệnh bắt bị can, bị cáo dé tạm giam được quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015, những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

- Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND và VKS Quân sự các cấp;

- Chánh án, Phó chánh án Tịa án nhân dân và Tồ án qn sự các cấp;

- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQDT các cấp. Trong trường hop nay, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, thâm quyén áp dụng biện pháp

tạm giam là Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND và VKS Quân sự các cấp;

Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp.

* Kiểm sát việc thực hiện quy định của BLTTHS năm 2015 vé thit tục

<small>tam giam:</small>

<small>Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì việc tam giam phải có lệnh</small>

của người có thâm quyên. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm; dia điểm ban hành lệnh; họ tên, chức vụ, chữ ký của người ra lệnh và đóng dấu;

<small>họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 BLTTHS. Theo quy định tại khoản 5 Điều 119 BLTTHS năm 2015, lệnh tạm giam của CQDT phải được Viện trưởng VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam,

tránh trường hợp nhằm lẫn. Đồng thời cơ quan đã ra lệnh tạm giam cần phải thơng báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho cơ quan chính quyền xã, phường, thị tran hoặc cơ quan, tô chức nơi người bi tạm giam cư trú, làm việc biết để gia đình họ cũng như các cơ quan tô chức biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm khơng cần thiết, gây tốn kém.

* Kiểm sát việc thực hiện quy định cua BLTTHS năm 2015 về thời hạn tam giam: Kiểm sát viên cần theo dõi thời hạn tạm giam (được quy định tại Điều 173 BLTTHS năm 2015) để việc áp dụng lệnh tạm giam đúng quy định

<small>pháp luật, tránh tinh trạng qua hạn tạm giam và kip thời báo cáo Viện trưởng,</small>

Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng ủy quyền xem xét, xử

<small>ly như sau:</small>

- Nếu còn thời han tạm giam nhưng thay BPNC tam giam đối với bị can không cịn cần thiết thì u cầu CQDT có văn bản đề nghị VKS ra quyết định hủy bỏ BPNC tạm giam hoặc thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác;

- Nếu thời han tạm giam cịn khơng q 10 ngày mà CQDT chưa có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam thì KSV yêu cầu DTV báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT ra văn bản đề nghị gia hạn hoặc thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam. Trong thời hạn 05 ngày trước khi hết hạn tạm giam, KSV

thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng dé xem xét, quyết định một trong các phương án xử lý việc tạm giam bị can như: yêu cầu CQDT có văn bản đề nghị VKS ra quyết định hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm giam,

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

VKS trực tiếp hủy bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can, gia hạn tạm giam đối với bị can’.

So với Điều 120 BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã rút ngắn thời hạn tạm giam dé điều tra. Thời hạn tam giam bị can dé điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, khơng q 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và

<small>tội đặc biệt nghiêm trọng.</small>

Việc gia hạn tạm giam: Đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng chỉ được phép gia hạn tạm giam một lần thay vì gia hạn hai lần như BLTTHS năm 2003; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chỉ được phép gia hạn hai lần thay vì gia hạn ba lần như BLTTHS năm 2003. Theo đó:

+ Thời hạn tạm giam dé điều tra đối với tội phạm nghiêm trọng được rút ngắn 01 tháng. Thời han tạm giam tôi đa là 05 tháng.

<small>+ Thời hạn tạm giam dé điều tra đối với tội phạm rất nghiêm trọng được</small>

rút ngăn 02 tháng. Thời hạn tạm giam tối đa là 07 tháng.

+ Đối với tội phạm it nghiêm trong và tội đặc biệt nghiêm trong, thời hạn tạm giam tối đa dé điều tra không thay đổi.

Trường hợp cần thiết đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKSND tối cao có quyền gia hạn thêm một lần khơng q 04 tháng. Trường hợp thời hạn gia hạn quy định tại khoản này đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và khơng có căn cứ dé thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng VKSND tối cao có quyên gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp đặc biệt đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia mà khơng có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm

<small>7 VKSND tối cao (2017), Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điềutra, truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng VKSNDtối cao</small>

</div>

×