Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.53 KB, 24 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>1.4. Ảnh hưởng của nợ cơng đối với một quốc gia...3</b>
<i>1.4.1.Về tính trung lập của nợ công...3</i>
<i>1.4.2.Về hiệu suất của tác động từ nợ công đến tăng trưởng kinh tế...4</i>
<b>2.Thực trạng nợ công ở Việt Nam...4</b>
<b>2.1. Nợ công của các nước trên thế giới:...4</b>
<b>2.2. Nợ cơng của Việt Nam...6</b>
<i>2.2.1.Khái qt về tình hình nợ công của Việt Nam...6</i>
<i>2.2.2.Cơ cấu các khoản nợ công của Việt Nam...8</i>
<i>2.2.3.Nợ công Việt Nam và những mối nguy tiềm ẩn...10</i>
<b>3.Ngun nhân hình thành nợ cơng ở Việt Nam...14</b>
<b>3.1. Nguyên nhân chủ quan...14</b>
<b>3.2. Nguyên nhân khách quan...18</b>
<b>4.Giải pháp cho nợ cơng Việt Nam:...19</b>
KẾT LUẬN...21
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>MỞ ĐẦU</b>
Nhìn lại hai mươi năm năm qua, tính từ năm 1986, thời điểm Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, bộ mặt của đất nước đã có sự thay đổi một cách rõ rệt. Điều này được minh chứng thông qua các số liệu tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam qua các năm: giai đoạn 1986 – 1991 chỉ tăng trưởng 4,7%/năm; năm 1992 – 1997 tăng trưởng tới 8,7%/năm mà đỉnh cao là năm 1995 với GDP tăng 9,5%; năm 1998 – 2001 lại hạ xuống còn khoảng 6%/năm và năm 2002 – 2005 phục hồi với trên 7,6%/năm, sau đó là tăng trưởng ổn định qua các năm cụ thể là giai đoạn 2007-2010 đạt mức tăng trưởng trung bình là 6.6% có hơi giảm so với giai đoạn trước do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Để đạt được những thành tựu to lớn và mang ý nghĩa lịch sử trên, ta khơng thể phủ nhận vai trị của hai bộ phận quan trọng trong nền kinh tế là nhà nước và nhân dân. Trong điều kiện thế giới ngày càng xích lại gần nhau như hiện nay, cơ hội học tập, tiếp thu những tinh hoa, tiến bộ của nhân loại càng dễ dàng. Người Việt Nam cần biết nắm bắt, học hỏi, hồn thiện mình để góp phần tạo nên sự thịnh vượng của đất nước. Nhà nước ta ln khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi người dân tham gia vào các hoạt động kinh doanh. Mặc dù đã đạt được được những thành tựu nhất định, nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa phát triển đúng với tiềm năng vốn có bởi lẽ nó chịu sự chi phối quá lớn của Nhà nước. Phát huy “vai trò chủ đạo trong nền kinh tế”, Nhà nước đã và đang đầu tư vào nhiều dự án nhằm xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế lại không cao điều này đồng nghĩa với việc không bù đắp được nguồn vốn đã bỏ ra. Kết quả là Nhà nước khơng thanh tốn được các khoản nợ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm xuất hiện nợ cơng. Vậy nợ cơng là gì? Nợ cơng có vai trị như thế nào trong nền kinh tế? Tác động của nó ra sao đối với tình hình đất nước hiện nay? … Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề đồng thời mong muốn đưa ra những giải pháp, chúng tôi chọn vấn đề “Thực trạng nợ công ở Việt Nam và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu cho môn học của mình.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>1. Tổng quan về nợ cơng1.1. Khái niệm</b>
Nợ là khoản phải hồn trả, bao gồm khoản gốc, lãi, phí và chi phí khác có liên quan tại một thời điểm, phát sinh từ việc vay của chủ thể được phép vay vốn theo quy định của pháp luật Việt Nam .
Nợ công bao gồm: - Nợ chính phủ
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh - Nợ chính quyền địa phương
<b>1.2. Nguyên nhân xuất hiện nợ công</b>
Trước đây, các khoản nợ trên được xem là nợ chính phủ, nhưng tính từ thời điểm luật quản lý nợ công do quốc hội ban hành ngày 17/06/2009 có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 thì những khoản nợ này được gọi chung là nợ cơng. Vậy mục đích vay là:
- Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
- Bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay ngắn hạn.
- Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh. - Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại theo quy định của pháp luật.
- Các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia
<b>1.3. Phân loại</b>
Dựa vào thời gian hoàn trả nợ
- Khoản vay ngắn hạn là khoản vay có kỳ hạn dưới một năm.
- Khoản vay trung - dài hạn là khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên. Ngồi ra cịn chia thành:
- Nợ trong nước (các khoản vay từ nguồn cho vay trong nước). - Nợ nước ngoài (các khoản vay từ nguồn cho vay ngoài nước).
Việc phân rõ ràng các loại nợ này giúp cho nhà nước xác định đúng loại nợ cần vay sao cho phù hợp với nhu cầu, mục đích sử dụng và khả năng thanh tốn.
<b>1.4. Ảnh hưởng của nợ công đối với một quốc gia</b>
<i>1.4.1. Về tính trung lập của nợ cơng</i>
Có hai quan điểm chính về việc nợ cơng có tác động đến nền kinh tế hay không. - Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ cơng kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân, dấn đến tăng tổng cầu và
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">thu nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng đầu tư giảm và thu nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn.
<i>- Quan điểm Barro-Ricardo cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng</i>
nợ chính phủ khơng kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một thời điểm trong tương lai chính phủ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá.
<i>1.4.2. Về hiệu suất của tác động từ nợ công đến tăng trưởng kinh tế</i>
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một khoản nợ công lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
- Nếu một quốc gia có nợ nước ngồi lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngồi và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
- Một khoản nợ công lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu cơng ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
- Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ cơng dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế gây ra tổn thất vơ ích về phúc lợi xã hội.
<b>2.Thực trạng nợ cơng ở Việt Nam. </b>
Để có cái nhìn khách quan về tình hình nợ cơng của Việt Nam, chúng ta hãy tìm hiểu đơi nét về tình hình nợ công của các nước trên thế giới
<b>2.1.Nợ công của các nước trên thế giới:</b>
Con số nợ công đến mức báo động đang diễn ra ở hàng loạt các nước và đang đe dọa đến nền kinh tế toàn cầu.Tạp chí kinh tế thế giới đã thiết lập đồng hồ đo nợ cơng của tồn thế giới, đồng hồ nợ này đang liên tục quay theo chiều tăng, cho thấy mức nợ cơng của tồn thế giới đang khơng ngừng tăng lên.
Trên bản đồ nợ được đặt dưới đồng hồ nợ công, The Economist đã phân loại các quốc gia theo mức nợ cơng tính trên đầu người, tổng mức nợ công, mức nợ công thay đổi theo năm, tổng nợ cơng tính trên GDP. Trong đó, những quốc gia nặng nợ nhất được tơ màu đỏ, cịn những quốc gia ít nợ nần nhất được tơ màu xanh đậm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Theo biểu đồ trên, Mỹ là con nợ lớn thuộc loại hàng đầu thế giới với tổng số nợ lên tới 13.000 tỷ USD, chiếm khoảng 93% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Nhật Bản đã từng có thời người ta tưởng có thể sẽ “mua hết nước Mỹ”, thế mà bây giờ trở thành một con nợ lớn với mức nợ tương đương với 227 % GDP.
Rồi đến Trung Quốc, nước hiện được coi là chủ nợ nước ngoài lớn của Mỹ và nhiều nước khác với nguồn dự trữ quốc gia trên 2000 tỷ USD cũng không phải là không mắc nợ. Theo Giáo sư Victor Shih từ trường Đại học Northwestern của Mỹ, các chính quyền địa phương của Trung Quốc đã vay mượn tổng cộng trên 11 nghìn tỷ nhân dân tệ (tương đương với 1,68 nghìn tỷ USD Mỹ) từ năm 2004 tới cuối năm ngoái.
Ấn Độ, một nền kinh tế lớn đang lên ở châu Á cũng đang đối mặt với tình trạng nợ công nặng nề. Tỷ lệ nợ so với GDP năm 2009 lên tới 88,9%.
Trong liên minh châu Âu (EU), chẳng nước nào thoát khỏi nợ nần. Ngay cả Đức, nền kinh tế mạnh nhất châu Âu, cũng đẫm mình trong nợ với mức 84,5% GDP. Nợ cơng của Pháp cuối năm 2009 đã lên xấp xỉ 1500 tỷ euro, tương đương với 82,6 % GDP, mức thâm hụt ngân sách -7,6 % và dự kiến còn tiếp tục với mức -7,1% năm
<b>2010. Tình hình của Italy lại cịn đáng buồn hơn với mức nợ công lên tới 120 % GDP</b>
năm ngoái và dự kiến thâm hụt ngân sách -5,6% năm 2010, trong khi tăng trưởng kinh
<b>tế tiếp tục khó khăn (-2,3%). Một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Băng Đảo,</b>
Ai-ơ-len cũng đang lâm tình cảnh nợ lần bi đát. Các nước này đều có tỷ lệ nợ gần
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">ngang, thậm chí có nước còn lớn hơn GDP và thâm hụt ngân sách vượt xa mức quy định (-3%) của EU.
<b>2.2. Nợ công của Việt Nam</b>
<i>2.2.1. Khái qt về tình hình nợ cơng của Việt Nam</i>
Như số liệu đã đưa ra ở trên, Theo Bảng xếp hạng nợ công của nhiều tổ chức tài chính quốc tế thì năm 2008, nợ cơng của Việt Nam tương đương 52,6% GDP (con số này cũng được Bộ Tài chính xác nhận), đứng vị trí thứ 44 về nợ công trong tổng số gần 200 nền kinh tế được xếp hạng và thấp hơn mức bình quân của thế giới là 56% GDP, nhìn chung số liệu trên là tương đối an toàn tuy nhiên nhằm cứu vãn nền kinh tế sau khủng hoảng, cũng như nhiều quốc gia khác, năm 2010, Việt Nam phải tiếp tục vay nợ để đầu tư dẫn đến nợ công trong năm 2010 đã tăng mạnh so với 2008. Mặc dù theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh thì nợ cơng của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an tồn và Bộ Tài chính hồn tồn có thể kiểm soát được vấn đề này, bởi trong cơ cấu nợ, các khoản vay trung và dài hạn chiếm đến 86,5% với thời hạn vay lên tới 40 năm trong khi chỉ phải trả lãi suất 0,75% - 1,0%/năm tuy nhiên nhìn vào thực tế trong vịng 10 năm trở lại đây, mức nợ công tăng khá nhanh và liệu có đúng là mọt thứ vẫn đang “an tồn”?
<i>Biểu đồ nợ cơng của Việt Nam từ 2001-2009</i>
Cơ quan Tình báo kinh tế (EIU) cho biết nợ công của Việt Nam tăng liên tục từ 36% GDP trong năm 2001 lên 51% GDP vào năm 2009. Tạp chí The economics đưa ra con số tuyệt đối về nợ cơng tính theo đầu người của Việt Nam thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và vào hàng thấp trên thế giới. Nếu xét mức nợ cơng bình qn đầu người bình qn đầu người trong vịng 8 năm (từ 2001 đến 2009), mức nợ cơng
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">bình quân đầu người đã tăng gần bốn lần, từ 144 USD lên tới 548 USD, tức trung bình hơn 18%/năm, trong khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của cùng thời kì chỉ là
<i>6%/năm. Trong năm 2010 ,trên bản đồ nợ của The Economist, con số nợ chi tiết của</i>
Việt Nam là 50.716.438.356 USD (50,7 tỷ USD), chiếm 51,7% GDP nên mỗi người Việt Nam gánh 578,65 USD nợ cơng .Ngồi ra Chính phủ cũng đã dự kiến mức nợ công trong năm 2011 sẽ là 57,1 % tức là nợ công năm 2011 sẽ tăng rất nhiều so với năm 2010 và trở thành mối lo ngại lớn cho nên kinh tế Việt Nam. Ông Hà Văn Hiền, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, con số nợ công này tăng cao so với giai đoạn trước, trong khi hiệu quả sử dụng vốn vay chưa được đánh giá cao. Do đó, Ủy ban đề nghị Chính phủ khi trình Quốc hội ở kỳ họp tới phải khống chế nợ công không vượt ngưỡng 60% GDP, trong đó, dư nợ Chính phủ, nợ chính quyền địa phương khơng q 50% GDP. Mặc dù đã có những tín hiệu khach quan như giữa tháng 9-2010 GDP 2010 vượt chỉ tiêu 6,7%, lạm phát kiểm soát ở mức dưới 8%, tăng trưởng xuất khẩu gấp 3 lần so với 2009 tuy nhiên bên cạnh đó lạm phát cũng tăng cao luôn ở mức 7-8 % và đó là một mối lo rất lớn đe dọa sự bền vững của nợ công Việt Nam. Tuy rằng tỉ lệ nợ cơng vẫn nằm trong tầm kiểm sốt, dù vậy tỉ lệ này đã trở nên cao hơn so với tỉ lệ phổ biến 30-40% ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi khác Bên cạnh đó, một xu thế rất đáng lo ngại là trong giai đoạn 2001-2009 thâm hụt ngân sách (cả trong và ngồi dự tốn) tăng từ 2,8% GDP lên tới 9% GDP.Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt ngân sách cao và kéo dài đã đe dọa tính bền vững của quản lí nợ cơng và gây áp lực lên lạm phát, đây cũng là nguyên nhân chính khiến xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam đều bị các cơ quan xếp hạng tín dụng hạ thấp.
<b>Biểu đồ 13: Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005 – 2011</b>
Nói về căn bệnh lâu năm của nên kinh tế Việt Nam đó là tình trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã vượt xa ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ cơng càng bị giảm sút. Trong khi đó, với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc chắn nợ công của Việt Nam sẽ còn tăng trong nhiều năm tới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Cụ thể là, với tỉ lệ tiết kiệm nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư tồn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP thì Chính phủ sẽ phải tiếp tục đi vay rất nhiều (bên cạnh vốn đầu tư nước ngoài) để bù đắp khoản thiếu hụt đầu tư. Cụ thể từ nay đến năm 2030 như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam (56 tỉ USD), dự án xây dựng thủ đô (60 tỉ USD), nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận (hơn 10 tỉ USD)... trong đó nguồn tài trợ chủ yếu là từ ngân sách và nợ công - có thể thấy nợ cơng sẽ tăng mỗi ngày.
<i>2.2.2. Cơ cấu các khoản nợ công của Việt Nam.</i>
<i>Đối với các khoản nợ trong nước:</i>
Ở đây số liệu vẫn chưa thật sự đầy đủ vì Việt Nam vẫn chưa tính đến phần tiền phải trả cho người sẽ về hưu theo ngun tắc tính nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, thì mỗi khi một cơng chức nhận lương, họ phải đóng vào quỹ về hưu, cịn một phần khác, có thể bằng hoặc gấp đơi, chính phủ phải đóng vào quỹ này.
Nhiều nước không thiết lập ra quỹ này mà đem chi hết, như thế nhà nước hàng năm cứ lấy tiền ngân sách ra chi trả và quên đi cái quỹ kia. Nguyên tắc là phải tính và cái quỹ đó chính là nợ của nhà nước với cơng chức (bao gồm công chức, giáo viên và nhân viên y tế trong khu vực công, quân đội, cảnh sát, và có thể cả những người làm việc cho doanh nghiệp nhà nước). Phần nhà nước đóng góp đáng lẽ phải có (dù khơng đóng) vẫn phải tính vào chi tiêu. Trong trường hợp dựa vào hợp đồng đã ký về hưu trí, nếu đóng góp khơng đủ để chi trả trong tương lai thì phải tính vào nợ.
Hầu hết các nước phát triển trong đó có Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc. Ở EU, việc tính này đã thành luật. Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng an tồn. Cịn đối với các nước đang phát triển, khi khơng tính nợ hưu trí thì có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo nước đó có chính sách hưu trí cho công chức không và tỷ lệ nằm trong diện công chức lớn như thế nào).
Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ cơng có thể bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ nợ nhà nước vì khu vực quốc doanh khơng đáng kể, và do đó họ vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước. Tuy nhiên, thống kê tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước, nên cũng khó lịng cho thấy tồn cảnh vấn đề tài chính cơng vì khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn và nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm nợ nần với khu vực này. Đây không phải là vấn đề của nhiều nước châu Á khác, do đó việc so sánh giữa Việt Nam với Thái Lan hoặc Malaysia chẳng hạn là không đúng đắn về mặt nợ công. Một vấn đề quan trọng nữa thuộc nợ trong nước của Việt Nam đó là nợ từ các doanh nghiệp; Chính việc tăng loại nợ của doanh nghiệp kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh, có bảo lãnh hay khơng bảo lãnh của chính phủ hiện nay đã tới mức 12 tỷ (9.2+3.8, coi biểu 2) và đang tăng nhanh là điều đáng lo ngại. Số nợ này có thể nói gần như tồn bộ là nợ của doanh nghiệp quốc doanh vì chỉ có doanh nghiệp quốc doanh mới có thể vay mượn được, dù chính phủ chính thức đứng ra bảo lãnh hay không; lý do là các nhà ngân hàng và các đầu tư nước ngoài cho vay hay mua trái khốn doanh
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">nghiệp chỉ vì họ biết rằng chúng là doanh nghiệp nhà nước do đó chính phủ có trách nhiệm chi trả nếu các doanh nghiệp này đổ nợ điển hình như trường hợp VINASHIN.
<i>Về phần nợ nước ngoài:</i>
Tổng số nợ nước ngoài năm 2009 là 37 tỷ USD, trong đó 27.8 tỷ là nợ của chính phủ (gồm cả nợ do nhà nước bảo lãnh) và 9,2 tỷ là nợ doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân không được nhà nước bảo lãnh. Theo trang VnEconomy, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải,
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">nếu xét theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới (WB), theo đó trên 50% được cho là nợ quá nhiều; nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ chỉ bằng 4,2% (WB cho phép đến 25%); dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn là 290% (khuyến nghị của WB là trên 200%); nghĩa vụ trả nợ Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước 5,1% (ngưỡng an toàn của WB là dưới 35%)…, theo đó các khoản vay nước ngồi của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%; vay ưu đãi chiếm 5,41%; vay thương mại 19,92%. Cơ cấu đồng tiền vay trong tổng dư nợ nước ngoài Chính phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngồi của Chính phủ. Cụ thể, lớn nhất là các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR (quyền rút vốn đặc biệt - đơn vị tiền tệ quy ước của một số nước thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế) chiếm 27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm 10,68%; còn lại là các đồng tiền khác chiếm 3,37% tổng dư nợ nước ngồi Chính phủ. Bên cạnh những tín hiệu khả quan chúng ta vẫn cịn những thách thức cần phải đối mặt cụ thể là trong vấn đề quan lí nợ nước ngồi. So với thời điểm cuối năm 2005, con số gần 28 tỷ USD nợ nước ngồi quốc gia tính đến 31/12/2009 đã gấp gần 2 lần (so với 14,2 tỷ USD), sau khi hàng loạt các khoản vay của WB, ADB, Nhật Bản… được chuyển vào ngân sách trong năm vừa qua. Lãi suất trung bình nợ nước ngồi của Chính phủ cũng có xu hướng tăng lên, sau khi Việt Nam được cho là đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, nhiều đối tác đã chuyển từ quan hệ cho vay ODA sang hình thức ít ưu đãi hơn. Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngồi của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm. Vì lẽ đó Việt Nam cần xem xét kĩ lại vấn đề nợ nước ngoài và nợ trong nước khi mà huy động vốn trong nước tương đối thấp so với nợ vay từ nước ngồi để tránh những rủi ro có thể đánh úp nền kinh tế Việt nam bất cứ lúc nào!
<i>2.2.3. Nợ công Việt Nam và những mối nguy tiềm ẩn.</i>
Theo biểu đồ đã đã đưa ra ở trên năm 2008 số liệu nợ công của Việt Nam là 47,9% lúc bấy giờ theo đánh giá của Chính phủ thì vẫn cịn ở mức ngưỡng an tồn (dưới 50%), tuy nhiên cho đến cuối tháng 12 năm 2010 thì số liệu đã lên đến 56,7%, vậy thì liệu có nên quá tin vào cái gọi là “ngưỡng an toàn” khơng? Và liệu “ngưỡng an tồn” có phải là nhất khi đánh giá về mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ cơng ở Việt Nam? Trong lời trình của Chính Phủ với Quốc hội về vấn đề nợ cơng, Chính phủ đã nói rằng: nợ cơng Việt Nam tuy có tăng nhanh, nhưng vẫn chưa là gì so với các nước khác, có nước vay tới 200% GDP như là Mỹ hay Nhật. Nhưng vấn đề đặt ra là ”mình khơng so được với họ”. Số liệu GDP chỉ mang tính thống kê một cách khách quan, khơng thể đem ra để làm thước đo, vì cịn phải phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế và khả năng chi trả của mỗi nước. Trong khi tiềm lực của chúng ta còn yếu, nhập siêu và lạm phát lớn, ngoại tệ thì ln trong tình trạng thiếu hụt… Vậy rõ ràng là khơng có cơ sở để ”lạc quan” về vấn đề nợ công ở Việt Nam. Mặc dù “ngưỡng an tồn” là một thơng số hữu ích nhưng chỉ nhìn vào ngưỡng đó thì chưa đủ. Theo các chun gia thì cần phải xem các nước có nền kinh tế tương tự có ngưỡng nợ thế nào, và phải tính đến
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">cả rủi ro về lịng tin. Và bởi khơng thể dự báo rủi ro trên tồn thế giới, nên phải có biên độ về ngưỡng để "cảm thấy thoải mái". Quan trọng hơn là phải hiểu được phạm vi, quy mô và chất lượng nợ thực chất như thế nào, bao nhiêu phần trăm để thúc đẩy tăng trưởng ngắn hạn, dài hạn… Điều đó địi hỏi thơng tin phải phong phú và chi tiết hơn nữa.Và cũng với việc xem xét ngưỡng an tồn thì đồng thời cũng phải xem xét tới các khía cạnh khác như là: cơ cấu nợ, độ nhạy với các cú sốc, nợ ngầm…
Theo nhiều chuyên gia kinh tế thì vấn đề nợ cơng của Việt Nam là rất phức tạp và tiềm ẩn những rủi ro khó đốn trước được mà cụ thể ta có thể đưa ra một số vấn đề sau đây:
<i>Thứ nhất: Nợ công ở Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn nhất là nguồn nợ nước ngồi</i>
(chiếm 58,8%) trong đó phần lớn là khoản vay ODA (85%). Ở đây cần nói rõ về khoản vay ODA ( Official Development Assistance) - Hỗ trợ phát triển chính thức, là nguồn cho vay nhằm mục đích phát triển nước được đầu tư với lãi suất gần như bằng 0, tuy nhiên ODA đồng thời là một con dao 2 lưỡi vì nước cho vay sẽ có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển riêng của mình ở nước được đầu tư cụ thể như:
Nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; Yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao. Chính vì lẽ đó với nguồn vốn vay lớn chủ yếu là ODA dễ dàng khiến Việt Nam chịu lệ thuộc rất nhiều vào nước cho vay, hàng Việt Nam chịu cạnh tranh rất lớn với các nước cho vay ODA vì hàng rào thuế quan đã mở cửa “thoáng” cho các mặt hàng này gây mất cân đối với hàng hóa trong nước và làm chậm sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa trong nước vẫn còn non trẻ.
<i>Thứ hai<b>: </b></i>Áp lực chi phí ngân sách lớn dẫn đến thâm hụt ngân sách cả trong và ngồi dự tốn ngày càng gia tăng (từ 2,8% GDP năm 2001 lên tới 9% GDP năm 2009) vượt qua mức 5% theo thông lệ quốc tế cũng gây áp lực lên chính sách tài khóa và nghĩa vụ trả nợ trong tương lai. Thâm hụt ngân sách luôn là một căn bệnh cố hữa của Việt Nam, sự kém sáng suốt trong đầu tư các khoản vay không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế đồng thời khiến ngân sách nhà nước ngày càng không đủ cho các khoản chi tiêu, đầu tư bất hợp lí để rồi “thiếu” vốn lại tiếp tục đi vay, đầu tư lại kém hiệu quả cứ thế chúng ta cứ luẩn quẩn trong cái vịng nợ nần khơng sao dứt ra được. Kéo theo tác động thâm hụt ngân sách là tình trạng “lạm phát” gia tăng, khi chính phủ không đủ tiền để trả nợ hoặc là vay trong nước hoặc là phát hành tiền dẫn đến lượng tiền trong nước tăng lên dẫn đến lạm phát và đi đơi với lạm phát đó là thất nghiệp sẽ gia tăng kéo theo mức sống thấp và kinh tế Việt Nam không thể phát triển được, một ý nữa là với tình trạng “đồng tiền mất giá” các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam sẽ hạn chế đầu tư càng ngày lợi nhuận đầu tư của họ ở đây sẽ càng thấp do tỷ giả của đồng Việt Nam tăng cao dẫn đến đầu tư nước ngoài giảm dẫn đến kinh tế chậm phát triển.
</div>