Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.64 MB, 46 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
<b>NGÀNH VIỆT NAM HỌC – CHUYÊN NGÀNH DU LỊCH</b>
PHẦN MỞ ĐẦU...1
1. Lý do chọn đề tài...1
2. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu...2
5.1. Nguồn tư liệu...2
5.2. Phương pháp nghiên cứu...2
3. Bố cục bài báo cáo...2
PHẦN NỘI DUNG...3
CHƯƠNG I: ÂM NHẠC - MỘT TRONG BẢY LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT CỦA VIỆT NAM...3
1.1. Âm nhạc trong các loại hình nghệ thuật Việt Nam...3
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của âm nhạc Việt Nam...4
1.3. Các giai đoạn chính của âm nhạc Việt Nam...5
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ DÂN CA VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNH TRONG VĂN HĨA VIỆT NAM...12
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển...12
2.2. Phân bố khơng gian văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh...14
2.2.1. Khơng gian ngun bản...14
2.2.2. Khơng gian văn hóa dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ngày nay...15
2.3. Các làn điệu Ví, Giặm Nghệ Tĩnh...16
2.3.1. Làn điệu Ví...16
2.3.2. Làn điệu Giặm...21
2.4. Các yếu tố nghệ thuật trong những câu hát Ví, Giặm...25
2.5. Văn hóa Việt Nam trong dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh...26
3.1. Sức hút của nghệ thuật diễn xướng Ví, Giặm...28
3.2. Tiềm năng khai thác du lịch...29
3.2.1. Tiềm năng thị trường khách nội địa và quốc tế...29
3.2.2. Thực trạng thị trường khách nội địa và quốc tế...30
3.3. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch...31
3.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phát triển du lịch Ví, Giặm Nghệ Tĩnh...32
3.5. Công tác quản lý, tổ chức khai thác và xúc tiến du lịch văn hóa Ví, Giặm...34 CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHAI THÁC DI SẢN VĂN HĨA VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNH HIỆU
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">4.1. Về tổ chức, quản lý du lịch văn hóa Ví, Giặm...36
4.2. Về phát triển nguồn nhân lực phục vụ du lịch văn hóa Ví, Giặm...37
4.3. Về đầu tư các nguồn lực cơ sở vật chất cho du lịch văn hóa Ví, Giặm...39
4.4. Về phát triển thị trường khách du lịch văn hóa Ví, Giặm...39
4.5. Về cơng tác xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch văn hóa Ví, Giặm...39
KẾT LUẬN... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO...43
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>PHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài</b>
Cùng với xu thế hội nhập và sự phát triển đa dạng của các loại hình du lịch thì Âm nhạc là một trong những loại hình nghệ thuật mang tính trữ tình, biểu cảm sâu sắc. Âm nhạc là gia tài mang giá trị riêng biệt, có một khơng hai ở một quốc gia nói chung, một vùng lãnh thổ nói riêng. Việt Nam ta có lịch sử dựng nước và giữ nước trải qua hàng nghìn năm, đã gói gọn những tinh hoa của mỗi miền đất vào trong các làn điệu dân ca, câu hị, câu Ví. Âm nhạc khơng thể được “nhìn” bằng thị giác, người nghe nhạc Điểm đặc biệt của loại hình nghệ thuật này là chúng khơng thể được nhìn thấy bằng mắt, mà những cảm xúc mang lại cho du khách là phần nghe, du khách sẽ cảm nhận được những lời ca được cất lên giống như những sợi tơ vải đang dệt nên cả một khơng gian văn hóa, dệt nên tín ngưỡng, phong tục tập quán, dệt ra cả những phẩm chất của người dân.
Nghệ An, với tiềm năng văn hóa, du lịch phong phú và đa dạng, trong đó phải kể đến dân ca Ví, Giặm. Sự kiện dân ca Ví,Giặm Nghệ Tĩnh được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào cuối năm 2014 là vinh dự to lớn của Việt Nam nói chung và xứ Nghệ nói riêng. Đưa dân ca vào trong hoạt động du lịch là một giải pháp có tính khả thi cao, lại đạt được nhiều mục đích: vừa bảo tồn, phát huy được dân ca lại vừa đạt được mục đích khuếch trương, truyền bá dân ca sâu rộng; góp phần quan trọng làm cho ngành du lịch địa phương phát triển bền vững. Nhiều địa phương trong cả nước đã đưa dân ca, dân nhạc vào hoạt động du lịch khá thành công, như dân ca quan họ, chèo, hát xoan (du lịch xứ Bắc), dân ca Huế (du lịch Bình Trị Thiên), cải lương, đờn ca tài tử (du lịch phương Nam)...
Trên thực tế, du lịch gắn với các giá trị của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh chưa phát triển, chưa được nhiều người biết đến. Từ sau ngày vinh danh, một số sản phẩm du lịch gắn với giá trị dân ca Ví, Giặm đã được khai thác nhưng đầu tư cịn ít, cho nên sức hấp dẫn đối với khách du lịch còn hạn chế.
Với mong muốn di sản văn hóa dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh - một giá trị nổi bật trong Âm nhạc Việt Nam được bảo tồn thông qua hoạt động du lịch nên tác giả đã chọn đề tài “âm nhạc việt nam trong di sản văn hóa dân ca Ví, Giặm xứ nghệ và giải
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>2. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu</b>
<i><b>5.1. Nguồn tư liệu</b></i>
Nguồn tư liệu chủ yếu của đề tài là thông qua các cơng trình nghiên cứu về dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Ngồi ra cịn thơng qua sách, báo, những bài viết có liên quan đến đề tài, cũng như trên các phương tiện truyền thông như tivi, Internet,... Tư liệu thông qua những chuyến thực tế tại các làng dân ca trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đặc biệt là nguồn tư liệu, thơng tin từ sở Văn hóa thể thao Nghệ An, sở Du lịch Nghệ An, trung tâm bảo tồn và phát huy di sản dân ca xứ Nghệ.
<i><b>5.2. Phương pháp nghiên cứu</b></i>
Phương pháp thu thập, xử lý tư liệu
Bài báo cáo thu thập thông tin từ nhiều nguồn, nhiều lĩnh vực liên quan đến hoạt động du lịch đối với di sản dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Trên cơ sở đó tập hợp, phân loại, xử lý số liệu để sử dụng trong bài báo cáo, lấy đó làm cơ sở đưa ra nhận định, đánh giá sao cho khách quan nhất.
<b>3. Bố cục bài báo cáo</b>
Phần chính văn của bài luận ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung của bài luận gồm có 4 chương:
<i><b>Chương I: Âm nhạc - Một trong bảy loại hình nghệ thuật của Việt Nam.Chương II: Tổng quan về dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh trong văn hóa Việt Nam.Chương III: Thực trạng du lịch và điều kiện khai thác di sản văn hóa Ví, Giặm</b></i>
nghệ tĩnh để phát triển du lịch.
<i><b>Chương IV: đề xuất một số giải pháp khai thác di sản văn hóa Ví, Giặm nghệ</b></i>
tĩnh hiệu quả trong hoạt động du lịch.
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>PHẦN NỘI DUNG</b>
<b>CHƯƠNG I: ÂM NHẠC - MỘT TRONG BẢY LOẠI HÌNH NGHỆTHUẬT CỦA VIỆT NAM</b>
<b>1.1. Âm nhạc trong các loại hình nghệ thuật Việt Nam</b>
Âm nhạc là loại hình nghệ thuật thời gian, sử dụng âm thanh để thể hiện tâm tư, tình cảm, tư tưởng và những mong muốn của con người. Âm nhạc tác động đến con người qua ngơn ngữ riêng của nó, bằng chủ đề âm nhạc, hình tượng âm nhạc, nội dung cũng như hình thức. Chúng chinh phục người nghe qua giai điệu và lời ca, là bộ môn “tượng thanh” dùng âm thanh để diễn đạt.
Điều đặc biệt nhất có lẽ là âm nhạc đem đến các trạng thái nội tại mà không cần phải miêu tả hay hiện hữu cụ thể như các loại hình nghệ thuật khác; trong lúc nghe nhạc, ta chỉ tập trung biểu hiện cảm xúc và những rung động với tất cả các sắc thái cùng sự chuyển hóa phong phú. Mỗi người khi nghe nhạc đều có thể cảm nhận bằng những cách khác nhau, nương theo những giai điệu ấy mà cảm thấy được hiểu, được đồng cảm, tựa như những âm thanh ấy đang kể lại là câu chuyện của riêng mình. Khơng phải vô lý mà người ta coi âm nhạc như một “ngôn ngữ trực tiếp của tâm hồn”, bởi tiền đề nội dung hình thành nên âm nhạc chính là những cảm xúc và tình cảm. Những cảm xúc và tình cảm đó khơng chỉ phản ánh những câu chuyện, con người một cách gần gũi mà còn là phương tiện để trình bày một chân dung, một thế giới quan rộng lớn, đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. Âm nhạc là một phương tiện mạnh mẽ, cảm xúc để giáo dục con người.
Hình tượng của nghệ thuật âm nhạc được xây dựng trên nền tảng của bảy nốt nhạc theo thứ tự từ âm thấp đến âm cao là: Do Re Mi Fa Sol La Si; bảy nốt nhạc này thay đổi biến hóa từ thấp đến cao tạo ra những giai điệu khác nhau. Các âm vực trầm bổng cùng với nhịp điệu nhanh chậm là hai thuộc tính cơ bản để tạo nên giai điệu -sắc thái ngôn ngữ trong âm nhạc. Người nghệ sĩ tạo nên một khúc nhạc bởi sự hòa trộn của giai điệu, nhịp điệu, hòa âm, điệu thức, âm sắc; trong đó giai điệu mang tính quyết định nên một tác phẩm. Bằng sự vận dụng điêu luyện từ đôi tay người nghệ dĩ, những âm thanh đáng lẽ đơn điệu đã được đan xen vào nhau tạo nên những giai điệu diễn tả sâu sắc thế giới tâm hồn con người.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Tính đến hiện tại, lịch sử sáng tạo và danh sách những cái tên nghệ sĩ nổi tiếng đã có nhiều thay đổi. Nếu như âm nhạc nằm trong danh sách các loại hình nghệ thuật phổ biến trên thế giới, thì trong các loại hình nghệ thuật Việt Nam, âm nhạc cũng có rất nhiều điểm đặc biệt.
Âm nhạc cổ truyền Việt Nam có truyền thống lâu đời, bắt đầu với quan họ, chầu văn, ca trù, vọng cổ, nhạc cung đình, cho đến âm nhạc dân gian của các dân tộc như hát lượn, hát Khan, v.v.
Nhạc có ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới con người bởi qua nó, con người có thể thể hiện được tâm trạng, suy nghĩ, gián tiếp bộc lộ cảm xúc sâu kín qua tiết tấu, nhịp điệu, và lời ca.
<b>1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của âm nhạc Việt Nam</b>
Âm nhạc Việt Nam mang trong mình cả lịch sử và văn hóa Việt Nam, phản ánh đúng những nét đặc trưng của con người, văn hóa, phong tục,... trải suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Ngay từ khi hình thành chữ viết, cũng đã tạo ra âm nhạc, từ những nền văn minh đầu tiên do các nhà khảo cổ phát hiện là những nhạc cụ trong hang đá hay được nhìn thấy qua những bức tranh trên đá, tiêu biểu ở đây là trống đồng Đông Sơn.
Trải qua những triều đại phong kiến đã làm cho nền âm nhạc Việt Nam phát triển rõ rệt và có những đặc trưng riêng. Sau đó là 1000 năm đơ hộ của phương Bắc cùng với các nền văn hóa như Chăm Pa, Ấn Độ,... cũng được biến hóa để phù hợp cùng những giá trị nổi bật vốn có của âm nhạc truyền thống từ đó tạo nên những loại hình âm nhạc cổ truyền thuộc từng vùng miền khác nhau: miền Nam có hị, cải lương, đờn ca tài tử; miền Trung có hát Ví, hát Giặm, nhã nhạc cung đình Huế; miền Bắc có hát xẩm, hát chèo, quan họ, ca trù,...
Âm nhạc phương Tây manh nha tiến vào Việt Nam khoảng thế kỷ XIV và giai đoạn Pháp thuộc vào cuối thế kỷ XIX đã đặc biệt góp phần giúp âm nhạc Việt Nam được tiếp xúc với những phong cách và quan điểm của văn hóa phương Tây, đồng thời tiếp tục phát triển với những nét đặc trưng riêng. Tân nhạc Việt Nam ra đời vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX với dòng nhạc tiền chiến rồi tiếp hơi cho những làn điệu mới trong thời gian đất nước chia đôi hai miền Nam - Bắc. Nhạc đỏ ra đời sau năm 1945 ở miền Bắc với sự xuất hiện của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng, sau này trở thành
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">cột trụ của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại, trong khi đó nhiều thể loại âm nhạc mới như nhạc vàng, nhạc trẻ, du ca nở rộ ở Miền Nam.
Sau năm 1975, âm nhạc Việt Nam bắt đầu học tập nhiều phong cách từ khắp nơi trên thế giới. Những lứa nghệ sĩ chuyên nghiệp đầu tiên được cử đi du học ở nước ngoài, âm nhạc Việt Nam đã theo kịp xu hướng của thế giới, mang theo nhiều phong cách và thể loại chưa từng xuất hiện tới nền văn hóa đại chúng nói chung và nền âm nhạc nói riêng ở Việt Nam. Ngồi ra, một số lượng lớn nghệ sĩ hải ngoại cũng góp phần xây dựng đáng kể vào sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam ngày nay. Âm nhạc hiện đại Việt Nam bao gồm nhiều yếu tố kết hợp của các nền văn hóa châu Á, châu Âu, thậm chí châu Mỹ và châu Phi qua việc gia tăng cộng tác của các nghệ sĩ trong nước với các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới. Trên hết, âm nhạc Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng của nền văn hóa truyền thống Việt Nam.
<b>1.3. Các giai đoạn chính của âm nhạc Việt Nam</b>
Thời kỳ vua Hùng và Bắc thuộc
Âm nhạc Việt Nam bắt đầu từ nền âm nhạc dân tộc rất cổ xưa. Từ đời các Vua Hùng dựng nước và giữ nước, âm nhạc dân tộc thuộc về văn hóa đồng thau, mà trống đồng Đơng Sơn (Thanh Hóa) là một hiện vật biểu trưng được biết đến cho đến tận ngày nay.
Đến thời bị Trung Quốc đơ hộ, văn hóa đồng thau của ta dần được thay thế bằng văn hóa tri thức. Đây là thời kỳ chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa Trung Hoa với các triều đại phong kiến như Hán, Tùy, Đường,... Sự xuất hiện của các loại nhạc cụ, nhạc khí mắc dây tơ như đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn nhị; các loại kèn, sáo làm bằng tre – trúc…
Thời phong kiến
Âm nhạc thời kỳ này là sự giao thoa và tiếp thu giữa các yếu tố âm nhạc ở Châu Á, cộng thêm sự gia tăng những dân tộc cùng sinh sống, việc khai khẩn đất hoang ở phía Nam, tất cả đã góp phần dệt nên những làn điệu đa sắc màu của từng vùng miền.
Với chiến thắng của Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 đã kết thúc thời kỳ Bắc thuộc nghìn năm trên đất Nam. Mở đầu cho thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc qua các thời đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần, nền văn hóa dân tộc dần được phục hồi và ngày càng phát triển. Trong đó khơng thể khơng kể
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">đến âm nhạc dân gian với các làn điệu dân ca phong phú, mang nhiều sắc thái đặc trưng của vùng. Một số thể loại âm nhạc đặc trưng như:
Hát Xẩm là một dòng dân ca của nước ta phát triển mạnh và phổ biến tại đồng bằng Bắc Bộ và trung du miền núi phía Bắc. Theo nghiên cứu trên các tài liệu thì hát Xẩm ra đời vào khoảng thế kỷ 14 – 15 (những năm 1500 – 1600), ban đầu chúng được gọi coi là hát rong, hát dạo của người nghèo, người mù. Ban đầu hát xẩm là một hình thức mưu sinh của những người dân nghèo khổ tại các chợ, đường phố và nơi đông người qua lại. “Xẩm” ở đây dùng để chỉ người biểu diễn.
Theo quan niệm dân gian thì hát Xẩm gắn liền với những nghệ sĩ khiếm thị nghèo khổ, phải rong ruổi khắp nơi, nay đây mai đó khơng có nhà cửa, sử dụng cây đàn và tiếng hát của mình để mưu sinh.
Nghệ thuật hát Xẩm giống như hình thức hát nói, vừa hát vừa kể chuyện mang tính tự sự và lời văn. Hầu hết các bài Xẩm đều được truyền miệng và khơng có tác giả với các chủ đề thể hiện tâm tư, khát vọng của người dân, nông dân, thị dân, người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Đồng thời phản ánh suy nghĩ của bản thân trước xã hội, nhà nước thời bấy giờ.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều bài hát Xẩm nói về tinh thần lạc quan, tình yêu đôi lứa đẹp đẽ, sự cảm thông của các tầng lớp dân nghèo luôn tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn, biết ơn dưỡng dục của cha mẹ,… Sang đến thời kỳ chiến tranh, Xẩm cịn có nội dung khích lệ tinh thần yêu nước, đấu tranh một lịng vì Đảng, vì nước, vì dân.
Ca từ trong hát Xẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống ca dao, tục ngữ, dân ca của miền Bắc Việt Nam. Các bài thơ lục bát, biến thế có tiếng láy, tiếng đệm được lấy để làm lời hát Xẩm. Loại hình nghệ thuật này khơng q hàn lâm mà chú trọng vào sự dung hoà, dễ hiểu với mọi người và phù hợp với năng khiếu của người biểu diễn. Ngay từ khi ra đời, Xẩm giống như một kênh thời sự bằng âm nhạc vậy, luôn mang những thông điệp phản ánh thời cuộc.
Nghệ thuật hát Chèo có nguồn gốc lâu đời và đi sâu vào đời sống xã hội của người Việt Nam. Nghệ thuật Chèo được hình thành từ thế kỷ X dưới thời nhà Đinh
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">(vua Đinh Tiên Hoàng), lúc bấy giờ kinh đơ của nước là là Hoa Lư (Ninh Bình), đây cũng được coi là đất tổ của loại hình nghệ thuật sân khấu này.
Ban đầu hát Chèo được phát triển chủ yếu dựa vào âm nhạc và múa hát dân gian, sau đó các tích truyện ngắn, câu chuyện được đưa vào và biểu diễn trọn vẹn thành một vở Chèo hoàn chỉnh với thời lượng dài hơn, nội dung cũng sâu sắc hơn.
Người biểu diễn hát trong các tác phẩm Chèo sẽ được gọi là nghệ nhân hát Chèo. Một số nơi gọi đích danh nhân vật trong chèo như các đào, các kép. Nội dung trong hát Chèo thường kể lại những câu chuyện, tích cổ nhưng được các nghệ nhân thổi hồn, lối diễn cá nhân tạo nên sự phong phú và độc đáo của loại hình nghệ thuật này. Giai điệu cũng như lời hát Chèo thường mang đậm chất dân gian và rất gần gũi với ngơn ngữ và cuộc sống của người dân. Ngồi tính dân gian, Chèo cịn có tính nghệ thuật cao với các yếu tố tự sự, kịch tính, ước lệ, cách điệu.
Chèo mang cả giá trị nội dung, nghệ thuật cao và được lập hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh là di sản văn hoá phi vật thể vào năm 2021.
<small></small>Quan họ
Quan họ là một trong những làn điệu dân ca đặc trưng của vùng châu thổ sông Hồng – Việt Nam. Quan họ được hình thành tại vùng văn hóa Kinh Bắc khi xưa, nay chính là ranh giới của hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và một số địa phận của Lạng Sơn, Hưng Yên, Hà Nội ngày nay.
Có rất nhiều câu chuyện trả lời cho nguồn gốc của loại hình dân ca này. Có người kể lại rằng ngày xưa có ơng quan nọ đi ngang vùng này đã mê mẩn làn điệu trong câu hát của người dân nên đã dừng lại (họ) để lắng nghe, nên gọi là Quan họ; cũng có người lại cho rằng tên này xuất phát từ những lễ nghi dân gian và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của người dân. Tuy nhiên, đó đều là những câu chuyện được truyền miệng, cịn thơng tin chính xác Quan họ ra đời khi nào vẫn là một ẩn số.
Chơi quan họ không cần có khán giả, người hát cũng chính là người thưởng thức, hát theo nhóm giữa các nhóm liền anh và liền chị, thường nhộn nhịp nhất vào dịp trong làng có hội hoặc mùa xuân.
Quan họ truyền thống rất chú trọng tới các quy trình trong cách hát, biểu diễn, lời ca, đòi hỏi người biểu diễn phải tuân theo một cách tuyệt đối. Một số bài hát truyền
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">thống được yêu thích cho tới tận ngày nay có thể kể tới như: Mời nước mời trầu, Ngồi tựa song đào, Cây trúc xinh, Xe chỉ luồn Kim,….
<small></small>Ca trù (Hát ả đào)
Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và học giả yêu thích. Khơng có một dấu mốc thời gian đánh dấu sự ra đời chuẩn xác của ca trù. Có tài liệu ghi nghệ thuật ca trù xuất hiện từ thời Lý khoảng thế kỷ XI nhưng lại có những tư liệu chỉ ra rằng loại hình nghệ thuật này ra đời vào thế kỷ XV. Ca trù gắn liền với văn hố nước nhà, q trình phát triển xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì thế chúng mang tính dân tộc cao và thể hiện được bản sắc dân tộc.
Ca trù được gọi với rất nhiều cái tên khác nhau trong suốt từ lúc hình thành cho đến ngày nay như Hát ả đào, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát cơ đầu… Ca trù mang cả tính khí nhạc và thanh nhạc:
Tính thanh nhạc: Người hát ca trù – đào nương phải có một giọng hát trong, thanh vang và biết cách ém hơi, nhả chữ sao cho tròn và rõ chữ, biết cách nảy hạt (đổ hột), đổ con kiến. Đặc biệt ca nương phải vừa hát vừa gõ phách cho đúng, tiếng phách phải có độ chắc giịng, ăn khớp với tiếng hát.
Tính khí nhạc: Khí nhạc ở đây chính là kép đàn sử dụng đàn đáy để phụ hoạ. Kép đàn không đàn theo một khuông nhạc sẵn mà chủ yếu là phải đi theo bài hát, khổ đàn – khổ phách và tiếng ca hoà quyện với nhau hài hoà nhất.
Quan viên hay người cầm chầu là người đánh trống để chấm đào hát – kép đàn. Dựa vào cách quan viên đánh trống mà khán giả nghe hát ca trù có thể biết được đoạn này hay, đoạn nào chưa hay để cảm nhận.
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Ủy ban liên chính phủ Cơng ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất Việt Nam, có phạm vi tới 16 tỉnh, thành phố phía Bắc.
Hị là một loại ca hát trình diễn dân gian phổ biến đến đời sống, là nét văn hóa của miền Trung và miền Nam, khởi nguồn từ tập quán sinh hoạt vùng chiêm trũng, diễn tả tâm trạng của người lao động. Trong sinh hoạt những đêm trăng những nhóm
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">con trai đi chơi, thường cất lên những điệu hò để dò hỏi những cơ gái về những cơng việc. Điệu hị giao duyên giữa hai bên đối đáp lại nhau, người con gái hay một nhóm sẽ hị đáp trả lại khi đó. Trên sơng nước khi đi đị, người hị thường hò điệu giao duyên giữa hai chiếc đò gần nhau. Hị và lý tuy có phần giống nhau nhưng hò thường gắn liền với một động tác khi làm việc cịn lý thì khơng.
Từ thời xa xưa, để di chuyển những vật nặng hoặc khi cần tập trung sức mạnh của nhiều người, dân ta đã sử dụng những câu Hị làm lệnh. Khơng ai biết chính xác nguồn gốc Hị có từ bao giờ, có thể là ngay từ những ngày đầu thành lập đất nước Văn Lang, Âu Lạc hay trong quá trình phát triển, xây dựng và giữ nước. Có thể lúc đó Hị đã xuất hiện nhưng được biết với một cái tên khác. Sau này, mãi cho tới đầu thế kỷ XX mới có nhiều tác giả, nhà nghiên cứu tìm hiểu về loại hình nghệ thuật này. Miền Trung và Nam Bộ là hai vùng có nhiều điệu hị nhất nhưng theo thời gian, cho tới nay, Hò đã lan tỏa ra nhiều vùng miền trên khắp đất nước kể cả châu thổ sông Hồng cho tới vùng núi Bắc Bộ, Tây Nguyên.
Phân theo vùng miền có hị miền Trung (đặc trưng là hị Huế, hị Ví, Giặm) và hị miền Nam (Hị Nam Bộ); phân theo vị trí thì có hị trên sơng nước (hị kéo lưới, hị chèo thuyền, hị đánh cá, hị qua sơng,..) và hị trên cạn (hị đạp lúa, hò leo dốc, hò tát nước, hò kéo thác,...). Những điệu hò rất gần gũi và quen thuộc trong quần chúng nhân dân lao động.
<small></small>Hát chầu văn
Hát chầu văn là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc trong nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn chau truốt nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát, lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám và hai câu bảy chữ), hát nói…
Thời cận đại: Chia làm các giai đoạn:
<small></small>Giai đoạn thành lập (1938 - 1945)
Âm nhạc của châu Âu theo chân những người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Cơng giáo. Tiếp đó người dân được làm quen với “nhạc nhà binh” qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giàu có ở thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây. Từ đầu thế kỷ 20, các bài hát châu Âu, Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vịng rồi qua những bộ phim nói, cùng với sự du nhập của các loại nhạc cụ phương Tây như mandolin, guitar và cả vĩ cầm, dương cầm. Thời kỳ này một số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn lời Việt cho một vài ca khúc Châu Âu thịnh hành, thường được gọi là “bài tây theo điệu ta” như Marinella trong vở Phũ phàng, Pouet Pouet trong Tiếng nói trái tim, Tango mystérieux trong Đóa hoa rừng,..
Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của Tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội. Tiếp đó một tờ báo uy tín khi ấy, cho đăng những bản nhạc đầu tiên Bơng cúc vàng, Kiếp hoa (Nguyễn Văn Tun); Bình minh (Nguyễn Xuân Khoát); Bản đàn xuân (Lê Thương); Khúc yêu đương (Thẩm Oánh); Đám mây hàng, Cám dỗ (Phạm Đăng Hinh);...
<small></small>Giai đoạn 1945 - 1954
Từ năm 1945, tân nhạc Việt Nam bắt đầu có sự phân tách. Đa số các nhạc sĩ rời bỏ thủ đô và những thành phố lớn để tham gia kháng chiến. Nhưng một số vẫn ở lại trong vùng kiểm sốt của Pháp hoặc có những nhạc sĩ theo kháng chiến rồi lại quay trở lại thành phố.
Với đề tài kháng chiến, ở miền Bắc có Du kích sơng Thao, Nhớ chiến khu của Đỗ Nhuận; Hị kéo pháo của Hồng Vân; Q tơi giải phóng của Văn Chung;... Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn như Hoàng Việt với Lên ngàn, Nhạc rừng; Nguyễn Hữu Trí với Tiểu đồn 307; Trần Kiết Tường với Anh Ba Hưng; Con kênh xanh xanh của Ngô Huỳnh;...
10
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Tuy vậy, ngay trong số những nhạc sĩ trên, nhiều người vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạn và được xếp vào dòng nhạc tiền chiến như Sơn nữ ca (Trần Hoàn); Dư âm (Nguyễn Văn Tý); Nụ cười sơn cước (Tơ Hải); Tình quê hương (Việt Lang);...
Giai đoạn 1975 đến nay
Sau khi Việt Nam thống nhất, nền Tân nhạc Việt Nam có nhiều thay đổi thăng trầm. Các đề tài sáng tác chủ yếu trong giai đoạn này như:
Ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh: có các bài hát tiêu biểu như: Viếng lăng Bác, Miền Nam Nhớ mãi ơn người, Lời Bác dặn trước lúc ra đi,...
Ca ngợi Đảng: Đảng đã cho ta một mùa xuân (Phạm Tuyên),...
Ca ngợi chiến công lẫy lừng của cuộc kháng chiến như: Dáng đứng Bến Tre (Nguyễn Văn Tý); 40 thế kỷ cùng ra trận, Tổ quốc yêu thương,...
Tình yêu quê hương đất nước và tình yêu lứa đôi: Quê hương (Giáp Văn Thạch, phổ thơ Đổ Trung Quân); Đất nước lời ru (Văn Thành Nho); Gửi em chiếc nón bài thơ (Lê Việt Hịa); Giai điệu Tổ quốc (Trần Tiến),...
Ca ngợi và phát động các phong trào lao động tập thể như: Đêm thành phố đầy sao (Trần Long Ẩn); Người đi xây hồ Kẻ Gỗ (Nguyễn Văn Tý), Mùa xuân từ những giếng dầu (Phạm Minh Tuấn), Ơi cuộc sống mến thương (Nguyễn Ngọc Thiện),...
Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ. Hội Âm nhạc Việt Nam được thành lập. Hằng năm đều tổ chức nhiều chuyến du khảo hội trại sáng tác theo những chủ đề do nhà nước đặt hàng.
Các trường âm nhạc, văn hoá nghệ thuật được quan tâm thành lập tuy nhiên chỉ mới dừng lại ở quy mơ dạy dịng nhạc thính phịng cổ điển và âm nhạc tuyên truyền.
Ngoài ra, âm nhạc hải ngoại cũng trở nên phổ biến trong lòng những người con xa xứ, xuất hiện nhiều trung tâm phát hành băng đĩa nhạc như: Thúy Nga, Asia, Làng văn,... Nổi bật nhất là trung tâm Thuý Nga với loạt đĩa chủ đề "Paris By Night" được thực hiện nghiêm túc, giàn dựng công phu, mang nhiều giá trị nghệ thuật được giới yêu nhạc đánh giá cao.
Bên cạnh đó dịng nhạc dân ca phát triển mạnh mẽ: Vọng cổ buồn (Minh Vy), Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang (Vũ Đức Sao Biển), Quê em mùa nước lũ (Tiến Luân), Duyên phận (Thái Thịnh),...
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Vài ca sĩ Việt Nam có hoài bão vươn ra thị trường âm nhạc thế giới và đã đạt được một số thành công ban đầu: Mỹ Tâm được đài truyền hình ABC xếp hạng 6 trong số các ca sĩ châu Á thành công nhất, Hồ Quỳnh Hương đoạt giải Liên hoan âm nhạc tại Bình Nhưỡng.
Thành cơng với các ca khúc nhạc trẻ mà báo chí ngưỡng mộ, cái tên phát triển cho ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều khán giả trẻ, vào năm 2008, cái tên V-pop đã xuất hiện làm cho nhiều thần tượng và khán giả rất tò mò. Đặc biệt là sự nổi lên của làn sóng nhạc Hàn Quốc, nên nhiều ca sĩ đã bắt chước model của Hàn Quốc và các giai điệu âm nhạc của nó.
Đối lập với dòng nhạc trẻ đang phát triển mạnh tại Việt Nam, thì dịng nhạc dân tộc truyền thống ngày càng đi xuống như: cải lương, quan họ, chèo, ca trù,... cùng với đó là dịng nhạc dân ca. Hầu như những người thích dịng nhạc dân tộc truyền thống và dân ca đều là khán giả lớn tuổi, xuất thân từ gia đình có truyền thống âm nhạc,...
<b>CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ DÂN CA VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNHTRONG VĂN HĨA VIỆT NAM </b>
<b>2.1. Lịch sử hình thành và phát triển</b>
“Xứ Nghệ” là tên gọi ngày xưa có từ thời Hậu Lê của vùng Châu Hoan, có chung một vùng văn hóa là văn hóa Lam Hồng, gồm núi Hồng Lĩnh ở Hà Tĩnh và sông Lam là ranh giới 2 tỉnh Hà Tĩnh - Nghệ An. Trung tâm của nền văn hóa này nằm ở hai bên sơng Lam là phủ Đức Quang và phủ An Đô khi xưa, ngày nay là các huyện Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh và các huyện Thanh Chương, Nghi Lộc, thành phố Vinh, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương, Anh Sơn của Nghệ An.
Danh xưng Nghệ An có từ năm 1030 thời nhà Lý, lúc bấy giờ được gọi là Nghệ An châu trại, sau đó thì đổi thành trại Nghệ An rồi Nghệ An phủ, Nghệ An thừa tuyên. Năm 1490, vua Lê Thánh Tông đã đổi tên từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (gọi tắt là xứ Nghệ). Theo chiều dài lịch sử đã trải qua bao lần tách nhập, năm 1991 đã trở thành 2 tỉnh riêng biệt như hiện nay.
Ngày nay, khái niệm “xứ Nghệ” khơng cịn mang nặng tính chất địa giới hành chính mà dùng để nói về văn hóa của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, gọi chung là văn
12
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">hóa xứ Nghệ. Vì lẽ đó, di sản dân ca Ví, Giặm là kho tàng văn hóa của nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, mặc dù được cộng đồng các làng/ thơn/ xóm hay các câu lạc bộ gọi theo nhiều cách khác nhau như: Hát đị đưa sơng La, Hát Ví phường vải, Hát giao dun Ví, Giặm… thì loại hình dân ca này vẫn là dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ.
Là sản phẩm của cộng đồng người Nghệ Tĩnh sáng tạo ra trong quá trình lao động, sinh hoạt, mang đậm bản sắc địa phương, là “thổ sản” tinh thần phản ánh nhiều khía cạnh độc đáo trong tính cách của người dân địa phương (chịu thương chịu khó, nhẫn nại, vừa giàu nghị lực, vừa chan chứa tình người).
Bởi xuất phát của làn điệu dân ca là trong nhân dân lao động nên khó để xác định được thời điểm ra đời chính xác của Ví, Giặm xứ Nghệ. Theo tư liệu mà các nhà nghiên cứu đã sưu tầm được ở Hà Tĩnh, vào thời Lê - Trịnh đã xuất hiện một ít bài hát Giặm phản ánh tình hình lúc bấy giờ. Vào khoảng từ thế kỷ XVII – XVIII, dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ đã phát triển và trở thành hình thức trình diễn dân gian phổ biến trong quần chúng nhân dân. Từ đó, song song với biến động của lịch sử đã tác động khơng nhỏ đến dân ca Ví, Giặm về cả nội dung lẫn hình thức. Trong thời buổi nhiều hỗn loạn, có rất nhiều người đã tìm cách giải phiền thơng qua việc tham gia các buổi hát Ví, hát Giặm của quần chúng. Xứ Nghệ bấy giờ thịnh hành nghề bông sợi, một số nhà nho, nhà khoa bảng đã trà trộn vào phường hát, mở đầu cho một kỷ nguyên mới mẻ về hát Ví (nhất là hát phường vải). Hát vừa cho vui, giải tỏa nỗi lòng, vừa là cơ hội để các nhà nho tri thức trổ tài, khoe sức nên những câu hát thường được gọt đẽo, trở nên sâu sắc khiến người ít học và kém tài đối đáp cũng nhiều phen gặp khó khăn.
Sau cách mạng Tháng Tám, các làn điệu dân ca mang nhiều hơi thở của chính trị, tuyên truyền cách mạng, vắng dần những lời hát giao duyên. Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhất là vào những năm 1960 – 1970, xứ Nghệ lại chứng kiến một giai đoạn đầy sôi động của sinh hoạt hát dân ca gắn với các phong trào văn hóa – văn nghệ của quần chúng. Các câu hát Ví – Giặm được vang lên khi cùng đồn dân cơng hỏa tuyến, thanh niên xung phong tiếp viện ra chiến trường. Hát Giặm vốn là thể 18 loại âm nhạc dân gian hết sức phong phú, đặc biệt vào những năm kháng chiến chống Pháp thì trong chống Mỹ càng được phát triển mạnh mẽ gắn với bài dân
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">ca Bình dân học vụ, Đi dân cơng, Đào mương thủy lợi, Tiếng trống Đông Xuân, Khuyên học chữ quốc ngữ…
Từ giai đoạn hình thành là những câu hát giải trí trong lúc lao động của nhân dân đến trở thành những lời ca gắn với sinh hoạt văn hóa - văn nghệ quần chúng, xuất hiện trong các hội thi rồi hình thành các tiểu phẩm diễn xướng, dân ca Ví - Giặm là những thước phim ghi lại giai đoạn lịch sử - xã hội của quê hương, truyền tải được từng hơi thở cuộc sống xuyên suốt những giai đoạn lịch sử, tạo nên những giá trị to lớn mà không phải phương tiện âm nhạc nào cũng có thể làm được.
<b>2.2. Phân bố khơng gian văn hóa Ví, Giặm Nghệ Tĩnh</b>
<i><b>2.2.1. Khơng gian ngun bản</b></i>
Trong dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh có những nét bình dị và độc đáo về khơng gian diễn xướng. Đã từng là nơi nuôi dưỡng tập quán sinh hoạt của cộng đồng, đồng thời là môi trường nuôi dưỡng ca cổ. Khơng gian văn hố ngun bản cịn là cứ liệu để các cấp ngành văn hoá làm cơ sở nhằm khơi phục nét giản dị của nó. Khơng gian văn hố của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh gồm có khơng gian rộng và khơng gian hẹp.
Khơng gian rộng: Gắn liền với địa bàn cùng tồn tại và phát triển của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Đó là khơng gian địa chính cụ thể diện tích cộng lại của cả hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Từ giáp tỉnh Thanh Hoá ở khe Nước Lạnh cho đến giáp tỉnh Quảng Bình – đèo Ngang. Ngồi ra có ý muốn chỉ đến hình tượng khơng gian văn hố ở đâu có con người xứ Nghệ sinh sống cùng việc u thích dân ca xứ Nghệ thì ở nơi đó gọi là khơng gian văn hố xứ Nghệ.
Với khơng gian hẹp hay cịn gọi là khơng gian diễn xướng: Gắn với những nơi diễn ra các hoạt động, sinh hoạt của dân ca như những nơi ở đồng ruộng, hay trên sông nước, trên những con đường làng, núi rừng, ở những mái nhà, giếng nước, gốc đa, đình làng… tất cả đều là những thứ thân thuộc của khơng gian bình dị ở làng q, đều mang đặc điểm chung của dân ca cả nước. Đối với Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, hát trên sơng nước như là hát Ví đị đưa sơng La, sơng Lam, hay hát trên những đồng ruộng, ở trên sân nhà với hát phường vải, phường nó, trong mỗi ngơi nhà (hát ru) và trên ở những núi rừng (hát phường củi, phường cấy…) là phổ biến nhất. Những nơi đã nói qua đều là môi trường gắn liền sinh hoạt gia đình và cuộc sống lao động. Bên cạnh đó
14
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">có khơng gian gắn với lễ hội nhưng ít được thấy, khác hẳn so với các làn điệu dân ca khác như quan họ Bắc Ninh, hát xoan Phú Thọ…
Vì vậy, khơng gian văn hố của dân ca xứ Nghệ có sức lan toả vươn xa. Có thể là ở Sài Gòn, Hà Nội, các tỉnh vùng duyên hải, Tây Nguyên hay ở những quốc gia trên thế giới có người Nghệ sinh sống, học tập, làm việc, sáng tạo và hưởng thụ văn hoá dân ca xứ Nghệ. Như vậy, khơng gian văn hố dân ca xứ Nghệ có thể nói là rộng bao la, chưa kể là ở trong tâm thức của những người con xứ Nghệ cịn chưa tính được. Qua đó chúng ta có thể thấy thể hát Ví, Giặm Nghệ Tĩnh khơng phải là chỉ quẩn quanh ở một địa phương nhất định mà nó cịn có mặt ở một số nơi khác như tỉnh Quảng Bình hay thậm chí cịn vươn xa tới Lâm Đồng, Đà Lạt và một số vùng văn hố khác.
<i><b>2.2.2. Khơng gian văn hóa dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ngày nay</b></i>
Khơng gian sinh hoạt văn hố của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh ngày nay đã khơng cịn như trước, chúng đã bị thay đổi do có sự biến mất của một số làng nghề. Không gian văn hố của dân ca giờ đây chỉ cịn là các câu lạc bộ, các điểm biểu diễn văn hoá du lịch, hay là hội thảo hoặc trường học….
Các cuộc hát Ví, Giặm giao duyên nam nữ được tái hiện lại trên sân khấu với các khung cảnh sinh hoạt trên sông nước, trên đồng ruộng… Vậy là diễn xướng dân gian giờ đây đã được chuyển lên thành hình thức diễn xướng chun nghiệp, có đạo diễn cùng hố trang, ánh sáng, trang phục… tổng hoà tất cả lại thì giá trị nghệ thuật của dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ đã được nâng lên một tầm cao mới. Cuộc sống ngày càng phát triển, môi trường mới, nhịp sống mới buộc dân ca Ví, Giặm phải tìm cách để thích ứng, kể cả việc thay thế khơng gian văn hố cũ hay khơng gian văn hố mới, để tạo nên những giá trị mới để có thể tồn tại lâu dài về sau.
Mặc dù dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh không thể trở về cùng những giá trị nguyên bản, với những cảnh trữ tình như: đồng ruộng, bến nước, gốc đa…, hay những đêm trăng phường đan, phường vải nhưng nói đi cũng phải nói lại, khơng gian văn hố mới cũng đã góp phần để mơi trường nuôi dưỡng dân ca được tiếp tục, để dân ca có thể duy trì, phát huy trong đời sống xã hội ngày nay. Thêm vào đó, hướng đi chủ yếu ngày nay đó là phát huy giá trị của khơng gian văn hố theo hình thức sân khấu hố
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">(ngồi tính hình thái văn hố vốn có của dân ca cịn cộng thêm vào hình thái nghệ thuật để có thể lên sân khấu).
<b>2.3. Các làn điệu Ví, Giặm Nghệ Tĩnh</b>
<i><b>2.3.1. Làn điệu Ví</b></i>
Hát Ví là một đặc sản trong gia tài văn hóa tinh thần của xứ Nghệ, gắn liền với nghề nghiệp, có đủ các loại Ví như Ví phường vải, Ví phường nón, Ví phường đan, Ví phường củi,... có bao nhiêu nghề nghiệp thủ cơng thì có bấy nhiêu loại Ví đó. Có rất nhiều cách hiểu về thể loại Ví, có người cho rằng Ví là Ví von, so sánh như:
Cổ tay em trắng như ngà Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Nếu chỉ hiểu đơn thuần “gọi là hát Ví, có lẽ hát Ví hay dùng lối Ví von để trao đổi tình cảm với nhau” (theo GS. Đinh Gia Khánh) (Huệ, 2017) thì hát Ví đâu thể trở thành một làn điệu đặc sản của xứ Nghệ, bởi ở đâu thì dân ca Việt Nam đều sử dụng ít hoặc nhiều lối Ví von và so sánh.
Theo tiếng địa phương từ “Ví” cịn có nghĩa là “với”. Có thể bắt gặp một trường hợp như vậy trong bài Nhớ của Hồng Nguyên: “Độc lập nhớ rẽ viền chơi Ví chắc” (độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau). Cũng có ý kiến cho rằng hát Ví hay hát với là hình thức đối đáp qua lại giữa nam và nữ (hát với nhau), cũng có thể ý là người con trai đứng ngoài ngõ, ngoài đường “hát với” vào sân nhà của người con gái; hoặc là những cô gái đang cấy lúa dưới đồng “hát với” qua khu ruộng bên cạnh nơi những chàng trai đang nhổ mạ; hoặc hát giữa núi rừng.
Cũng là hình thức đối đáp giao duyên này nhưng ở một số nơi lại có tên gọi khác như hát trống quân, hát ghẹo, hát đúm… để phù hợp với hoàn cảnh và khơng gian diễn xướng lúc hát. Dầu có nhiều tên gọi là vậy như chỉ có “hát Ví” được dùng phổ biến ở Nghệ Tĩnh mà không thấy ở địa phương khác, có những đặc điểm như:
Khi hát Ví thì người hát khơng cần tính đến thời gian, đây là điểm khác biệt mang tính đặc trưng khi so với hát quan họ (Bắc Ninh) hay hát ghẹo (Phú Thọ) hoặc hát cửa đình ở một số vùng. Quanh năm xứ Nghệ bao giờ cũng nghe được những làn
16
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">điệu Ví, khơng hát phường củi thì nghe hát phường vải, phường đan, phường cấy, Ví đị đưa khi chèo thuyền trên sơng,...
Ở hát Ví phường vải, phường đan… cịn có sự tham gia của tầng lớp tri thức. Đa số là các nho sĩ bình dân, có sự gắn bó mật thiết với người dân lao động, nhưng cũng có người là con nhà có truyền thống khoa bảng, con nhà dòng dõi. Họ thường đóng vai trị là “thầy bày”, “thầy gà” cho hai bên nam nữ. Các câu hát Ví cũng vì có sự tham gia của tầng lớp tri thức này mà những câu hát có thêm phần điêu luyện, thể hiện được tình cảm phong phú, phức tạp, nhiều màu sắc, được “chải chuốt” hơn với lối chơi chữ và có chất “trạng”:
Đã có rêu bởi vì nước đứng Núi bạc đầu bởi tại sương sa Thấy anh em muốn giao ca Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời Thấy anh em muốn trao lời
Sợ chòm mây bạc giữa trời vội tan (Dân ca người Việt, 1994)
Nếu dựa vào cảm xúc trong câu từ hát ra hay theo tình cảm mà phân loại, hát Ví cũng có đa dạng như Ví thương, Ví giận, Ví ai ốn, Ví tình cảm,… hay nói cách khác có bao nhiêu cung bậc cảm xúc là bấy nhiêu thể loại Ví. Nhưng xét ở góc độ tính chất âm nhạc thì chỉ có một làn điệu Ví duy nhất. Khi những câu hát được cất lên, thính giả có thể cảm nhân nỗi buồn man mác ẩn đằng sau nét dí dỏm, những câu hát tựa như hát để nói ra nỗi lịng của bản thân. Thông qua những lời ca câu hát, người nơng dân lao động có thể gửi vào đó tâm sự, tình cảm, lời muốn nói mà họ ấp ủ. Vì vậy mà có thể nói hát Ví là những bản tình ca của người lao động, đã hịa vào máu thịt và trở thành một phần trong sinh hoạt thường ngày của người dân.
2.3.1.1. Các chặng trong hát Ví
Khi hát Ví, người hát đã vượt ra khỏi những tư tưởng cổ hủ của xã hội phong kiến đương thời, theo câu hát đi từ làng này sang thôn khác, vùng nọ qua miền kia để gặp được bạn đời của mình. Những lời thơ được cất lên vơ cùng bình dị, dễ thuộc mà cũng rất đỗi trữ tình. Thơng thường một cuộc hát Ví có ba chặng:
<small></small> Chặng một: hát dạo trước để tìm kiếm đối tượng hát cùng, hoặc để thăm dị người mình muốn hát cùng. Nếu cả hai người đều hợp tình hợp ý với nhau thì đến
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">phần hát chào, rồi đến hát hỏi nhằm tìm hiểu, để hai người giới thiệu và bộc lộ tình cảm. Phần hát hỏi với mục đích thử trí thơng minh và khả năng ứng biến linh hoạt của người đáp.
Hát chào:
Chào chàng nho sĩ anh tài
Trăng trong bờ liễu, gió ngồi đường mây Rồi đến hát mời:
Mời chàng nhẹ gót vào hiên Cảnh tiên có cảnh, người tiên có người
Mời chàng vơ chiếu mà ngồi Thung dung rồi sẽ hiểu lời ra thưa. Sau là hát hỏi:
Hỏi chàng danh tính thế nào Để khi thưa gửi, đón chào làm quen?
Hỏi chàng quê quán nơi đâu Để khi nhắn gửi mấy câu, cánh hồng?
<small></small>Chặng hai: Là hát đố, hát đối. Đây là giai đoạn thử thách tài năng của cả bên nam và bên nữ. Hát đố có khi hát đố sách, đố chữ, có khi đố kiến thức về mọi lĩnh vực trong đời sống. Đặc biệt, giai đoạn này thường được đẩy lên kịch tính khi có sự tham gia của các nhà nho với tư cách là “thầy gà” nên câu đố cũng trở nên thâm thúy, hóc búa và đầy thú vị.
<small></small>Chặng ba:Được xem là chặng quan trọng nhất, có nhiều câu hát hay, gồm: Hát mời, hát xe kết và hát tiễn. Đây là chặng cuối, khi mà hai bên đã thân thiết, quyến luyến và gắn bó hơn, vậy nên khi sắp phải chia tay để “rạng ngày ai về nhà nấy” thường khiến cho bước xe kết kéo dài, có khi kéo thâu đêm suốt sáng với bao nỗi niềm nhớ thương, tiếc nuối.
Ra về để áo lại đây
Để đêm thiếp đắp, để ngày xông hương
Về cách hát, trước khi hát một câu, bên nam hoặc bên nữ phải xướng lên một câu. Ví dụ như hát phường vải, bên nam gọi bên nữ: “Ơ này, chị em phường vải ơi!”.
18
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Bên nữ thưa: “Ơ, thưa chi!” rồi bên nam mới hát. Cứ thế cuộc hát cứ lần hồi cho đến khi được đẩy lên đến cao trào, từ đầu hôm đến canh sáng, thậm chí cuộc hát có thể kế tiếp đến ngày hơm sau.
2.3.1.2. Hình thức tổ chức diễn xướng Ví
Nếu khơng gian văn hóa của dân ca quan họ hay ca trù gắn với khơng gian của lễ hội, của thính phịng thì khơng gian diễn xướng của hát Ví xứ Nghệ lại rất đặc biệt, không cần phải chờ đến mùa vụ, hay hội hè mà vừa lao động vừa ca hát. Trong các cuộc hát Ví thường hình thành hai nhóm nam và nữ, cũng có thể là một nam, một nữ nhưng thường đã họp thành phường hát thì cũng khá đơng đảo, có đến hàng trăm câu hát Ví lần lượt được đưa ra để thi thố, đối đáp, giao duyên. Trai thanh, gái lịch hát đối đáp với nhau, hát vọng từ ngoài đường vào nhà,từ trong nhà với ra, hay cũng có thể là trên sơng vọng lên bờ,… Do hát Ví gắn liền với lao động, nên mỗi một loại hát Ví lại gắn với một loại hình lao động riêng biệt như: Hát Ví của những người đi cấy thì gọi là Ví phường cấy, hát Ví của những người đi củi thì gọi là Ví phường củi, hát Ví của những người dệt thì gọi là Ví phường dệt,…
<i><b>Ví phường vải: gắn liền với phường vải của các cô gái xứ Nghệ, đặc biệt là các</b></i>
vùng Nam Đàn, Thanh Chương, Nghi Xuân, Đức Thọ, Kỳ Anh, Thanh Hà,...Trong số các điệu Ví trên thì Ví phường vải là nổi trội nhất bởi giá trị văn hố nghệ thuật cũng như có sự tổ chức mang tính bài bản của một cuộc hát. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả Nguyễn Thụy Loan đã cho rằng: “Nét độc đáo của hát Ví Nghệ Tĩnh là ở chỗ: khơng có vùng nào trong nước cịn lưu trữ nhiều loại hát Ví gắn với các phường nghề như ở đây”.
Môi trường diễn xướng hát phường vải thường diễn ra vào ban đêm, sau khoảng thời gian lao động nơi ruộng đồng, sông nước. Hễ nơi nào có quay sa, kéo sợi thì nơi ấy có diễn ra buổi sinh hoạt hát phường vải. Hát phường vải mang đậm tính chất trữ tình, thể hiện chiều sâu tâm hồn của người dân qua các thời kỳ lịch sử, đằm thắm trong lời ca và âm điệu có lúc trầm buồn, man mác. Quần chúng nhân dân là những nghệ nhân dân gian, là tác giả của những câu hát phường vải đầu tiên và cũng chính họ là những người bảo lưu, kế thừa và phát huy vốn hát Ví, vốn ca dao, dân ca truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa quê hương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Hát Ví phường vải cịn có các nhà nho tham gia ứng tác và đối đáp, vừa tình cảm vừa thể hiện trí tuệ, nhờ vậy hát Ví chính là sự kết hợp giữa những người tri thức với người lao động. Nếu xét về phương diện văn học thì Ví phường vải cịn là cuộc thi tài đọ sức về văn chương. Tham gia cuộc hát yêu cầu người hát phải nhanh trí và khơn khéo, có khả năng ứng xử và đối phó mau lẹ, tinh tế với những tình huống đầy bất ngờ. Đó cũng là một trong tính cách nổi bật của người Nghệ: Ham học, ham đọ kiến thức, tơn vinh trí tuệ ngay cả trong ca hát. Chính vì thế hát phường vải thu hút đơng đảo các nhà trí thức xa gần tụ hội về miền đất Ví như Kim Liên (Nam Đàn), Trường Lưu (Can Lộc),… để tham gia sinh hoạt.
Hát Ví phường vải đã để lại nhiều áng văn chương hay. Người xứ Nghệ vốn yêu thơ ca, con nhà nơng có, con nhà khoa bảng cũng có, khi hát đố sách, đố chữ, có khi hát đố về những vấn đề thực tiễn, như là:
Truyện Kiều anh thuộc làu làu Đố anh đọc được một câu hết Kiều. Có khi là câu hỏi hóc búa: Năm con ngựa cột cồn Ngũ Mã Chín con rồng nằm Cửu Long giang Chàng mà đối được, có lạng vàng em trao…
<i><b>Ví đị đưa sơng Lam: Đặc điểm của loại Ví này chỉ hát trên sơng, lúc đị đang đi</b></i>
xi hoặc ngược dịng, cịn khi neo đậu khơng ai hát nữa. Khi thuyền trơi trên sơng, người chống đị cầm sào đi lên phía mũi thuyền, bỏ sào chống xuống nước, tay cầm dầu sào chống bả vai, rồi lấy sức chống con sào đi ngược với con thuyền, lúc nhổ sào người chống sào đi thong thả về vị trí cũ hết một cội sào, lúc đó họ mới nghỉ ngơi và cất lên tiếng hát. Có lúc người ngồi bên mạn thuyền hát một câu Ví tâm tình:
Người ơi! Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh
Thuyền em lên thác xuống ghềnh
Nước non là nghĩa, là tình ai ơi! (Hải V. H., 2014)
Ví đị đưa là lối hát bắt nguồn từ sông nước. Người hát thường là những chàng trai chèo chống trên thuyền xuôi ngược dọc sơng, hoặc các phường bn, phường nón,
20
</div>