Tải bản đầy đủ (.pdf) (313 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn tố tụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.88 MB, 313 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

DE TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HOC CAP TRƯỜNG

HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH

CHU NHIEM DE TAI: TS. TRAN ANH TUAN

<small>Ui TAM THONG TIN THU VIEN</small>

<small>TRUONG ĐẠI HOC LUẬT </small><sub>HÀ NỘI</sub>

‘PHONG BOC _ 24L}

HÀ NỘI - 2015

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN ĐÈ TÀI

TS. Tran Anh Tuan <small>Trường Đại học Luật Hà Nội</small>

<small>- Tòa án cap cao tại Hà Nội</small>

TS. Nguyễn Triều Dương

“Van phòng Ban Chỉ đạo cải cách |

<small>Tư pháp Trung ương</small>

- Trường Đại học Luật Hà Nội

<small>Ban chủ nhiệm đê tài vàCN. Đặng Quang Huy</small>

<small>Trường Đại học Luật Hà Nội</small>

Chuyên đề 3

| Chuyén dé 8

<small>Bao cao khao sat</small>

TS. Bui Thi Huyén

<small>11</small> LS. Ths. Pham Văn Phat

<small>| Trường Dai hoc Luật Ha Nội</small> Chuyén dé 5

Van phòng Luật su An Phat <small>. Phạm</small>

Chuyên đề 11

ThS. Nguyễn Sơn Tùng <small>Trường Đại học Luật Hà Nội</small> _ Chuyên đề 6

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

BANG CHỮ VIET TAT

<small>BLTTDS Bộ luật Tổ tụng dân sựTTDS Tố tụng dân sự</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

MỤC LỤC PHAN THỨ NHAT

BAO CAO TONG HOP KET QUA THUC HIEN DE TAI

1. PHAN MO DAU

1.1. Tinh cấp thiết của đề tài 1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài

1.3. Đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu 1.4. Nhu cầu kinh tế xã hội, địa chỉ áp dụng

<small>1.5. Phạm vi nghiên cứu1.6. Nội dung nghiên cứu</small>

<small>1.7. Phương pháp nghiên cứu</small> 2. PHAN NỘI DUNG

2.1. Một số van đề lý luận về thời han tố tụng dân sự

2.1.1. Nhận diện thời hạn tố tụng và ý nghĩa của thời hạn tố tụng 2.1.2. Xác định thời hạn tố tụng

2.1.3. Yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế đối với thời hạn tố tụng dân sự

2.1.4. Kinh nghiệm xây dựng quy định về thời hạn tố tụng theo pháp luật tố tụng dân sự một số nước trên thế giới

2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về thời hạn tố tụng dân sự

2.2.1. Thực trạng các quy định về thời hạn tố tụng trong thủ tục thông

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2.3. Giải pháp hoàn thiện các quy định về thời hạn tố tụng dân sự 2.3.1. Về hoàn thiện các quy định chung về thời hạn tố tụng

2.3.2. Về hoàn thiện các quy định cụ thể về thời hạn trong thủ tục tố tụng

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

PHAN THU HAI

CAC CHUYEN DE VA BAO CAO KHAO SAT DE TAI

Một số van dé ly luan về thời han và thủ tục tố tụng dân sự

<small>Thời hạn tố tụng dân sự trong bối cảnh cải cách tư pháp, hội nhập</small>

quốc tế ;

<small>Lược sử pháp luật tô tụng dan sự Việt Nam vê thoi han tô tụng dân sự</small>

Thời hạn tố tụng theo pháp luật tô tụng dân sự một số nước trên thế <small>giới</small>

Thời hạn tố tụng trong thủ tục sơ thâm vụ án dân sự

Thời hạn tố tụng trong thủ tục sơ thấm việc dân sự

Thời hạn tố tụng trong thủ tục áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp <small>khân câp tạm thời</small>

<small>Thời hạn tô tung trong thủ tục phúc thâm dân sự</small>

Thời hạn tô tụng trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thầm dân sự Thời hạn tố tụng trong một số loại hình thủ tục tố tung đặc biệt

Thời hạn giải quyết vụ việc dân sự từ thực tiễn hành nghề luật sư Thực tiễn thực hiện các quy định về thời hạn tố tụng trong việc giải

quyết các vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình

Thực tiễn thực hiện các quy định về thời hạn tố tụng trong việc giải

<small>quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại, lao động</small>

<small>Báo cáo khảo sát về thực tiễn áp đụng các quy định của BLTTDS về</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

CONG THUẬT KET QUA NGHIÊN COU ĐỀ TÀI

HOÀN THIEN MỘT SO QUY DINH _

CUA 3Ô LUAT TO TUNG DAN SỰ VE THO! HAN TO TUNG

1.PHAN MO DAU

11. Tính cấp thiết của đề tai

Nzhi quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chỉnh trị về Chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến

<small>năm 202) đã chỉ ra định hướng cơ bản của việc cải cách tư pháp nước ta. Cụ thé là</small>

cần phải “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình

đăng, cơng khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và <small>giám sátcủa nhân dân đối với hoạt động tư pháp...”. Tiếp theo đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chỉnh trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm2020 đã chi rõ: “'...Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ áncó đủ mit số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự...</small>

Đổi mới thủ tục hành chỉnh trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi

<small>cho nguci dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tịa án, Tịa án có trách</small> nhiệm niận và thụ lý đơn...”.

Tong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế hiện nay, BLTTDS đã

tạo cơ sz pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dar. Tuy nhiên, xét về phương diện tính hợp lý của thời hạn và hiệu quả của

thủ tục t) tụng dân sự thì nhiều quy định của BLTTDS khi áp dung trong thực tiễn

có thé giy kéo dài thời gian giải quyết vụ việc, không đáp ứng được yêu cầu về tính kịp thời,nhanh chóng và có hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp. Cụ thể là một số ay định trong BLTTDS liên quan tới thời hạn thụ lý vụ việc; thời hạn cung

cấp, thu :hập chứng cứ; thời hạn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chuẩn bị xét

xử sơ thảm cũng như các quy định về thời hạn tố tụng trong thủ tục phúc thâm, giám dé: thâm, tái thẩm; thời hạn thi hành án dân sự còn chưa đáp ứng yêu cầu về

<small>tính kịp thời, nhanh chóng và có hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp.</small>

Ngoài rz, pháp luật tố tung dân sự hiện hành khơng có các quy định về đơn giản hố thủ tục Ơ tung, rút ngắn hợp lý thời hạn tố tụng cũng như cơ chế linh hoạt về thời

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

han tô tụng nên chưa đáp ứng được các yêu cầu về cải cách tư pháp trong xu thé hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Do vậy, việc nghiên cứu đề tài Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật to

tụng Dân sự về thời hạn tổ tụng” là van đề cấp thiết. Việc nghiên cứu đề tài trước

hệt nhằm xác định những vấn đề lý luận cơ bản về thoi hạn tô tung; moi lién hé

giữa quy định về thoi han với các quy định khác của pháp luật to tung dân sự, xác định những bat hợp lý trong các quy định về thời hạn và thủ tục tổ tụng là căn

nguyên dân tới việc giải quyết vụ việc dân sự bị kéo dài gây mắt niềm tin và bức xúc

trong du luận hiện nay. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu sẽ dé xuất

những giải pháp giải quyết những bất cập, vướng mắc nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mở ra một hướng

nghiên cứu mới cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn Luật tố tụng dân sự ở bậc cử

nhân và đào tạo sau đại học. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài còn đề xuất những giải pháp để các cơ quan có thẩm quyền (Quốc hội, TANDTC) có thé tham khảo cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về thời hạn tố tụng dân sự nhăm

bảo vệ một cách nhanh chóng, có hiệu quả các quyền lợi hợp pháp của nhân dân,

đáp ứng những địi hỏi mà cơng cuộc cải cách và hội nhập quốc tế đặt ra. 1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước khi BLTTDS ra đời cũng đã có một vài cơng trình nghiên cứu về pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam như đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nha nước “Cơ sở ly luận và thực tiễn xây dựng Bộ luật to tung dan sự” do Viện khoa hoc xét xử

thuộc Tòa án nhân dân tối cao thực hiện năm 1996; đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2001 về “Cơ sở ly luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định

cơ bản của pháp luật tổ tụng dân sự Việt Nam” do Th.S Nguyễn Cơng Bình làm

chủ nhiệm; sách tham khảo “7 Yến tới xây dựng Bộ luật tổ tụng dân sự Việt Nam của thời kỳ doi mới" cha TS. Phan Hữu Thư, Nxb Tư pháp, 2004. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thời hạn tổ tung dan sự

nhằm đáp ứng yêu cau cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

1.3. Đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là định hướng cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng chúng tại các Tòa án Việt Nam trong những năm gần đây. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với một số quy định của pháp

luật TTDS nước ngoài về thời hạn tố tụng dân sự nhăm làm rõ thêm cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật về thời hạn tố tụng dân sự ở Việt Nam.

Việc nghiên cứu đề tài nhằm nâng cao nhận thức lý luận về tính hợp lý và

mối liên hệ giữa thời hạn với thủ tục tố tụng đân sự, trên cơ sở đó có thể hồn thiện giáo trình Luật tố tung dân sự. b6 sung tư liệu cho việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học pháp lý; góp phần hồn thiện các quy định của BLTTDS về thời hạn tố

tung dan sự, đáp ứng yêu cau của công cuộc cải cách tư pháp, hội nhập khu vực và <small>quồc tê.</small>

Ngoài ra, việc nghiên cứu cịn góp phần tháo gỡ được những bắt cập, vướng mac trong thực tiễn hiện nay về thời hạn tố tụng dân sự, loại bỏ những quy định không hợp lý về thời hạn tố tụng cũng như những quy định là căn nguyên dẫn tới kéo dài thời hạn, bổ sung các quy định mới cho phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp và thủ tục tô tụng dân sự.

1.4. Nhu cầu kinh tế xã hội, địa chỉ áp dụng

Kết quả của việc nghiên cứu để tài có những giá trị cơ bản sau:

- Đề tài đã phân tích, làm rõ được những van dé lý luận cơ bản về thời hạn tổ <small>tụng, do vậy, đã gợi mở hướng nghiên cứu mới cho sinh viên, học viên và nghiên</small> cứu sinh, cung cấp thêm tư liệu tham khảo cho việc hoàn thiện giáo trình cũng như <small>nghiên cứu, giảng đạy luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội cũng như các cơ sởđào tạo khác;</small>

- Đề tài đã đánh giá được thực thực trạng các quy định của BLTTDS về thời hạn tố tụng, trên cơ sở nghiên cứu so sánh, đối chiếu với pháp luật một số nước phát triển, từ đó đề xuất giải pháp cho việc hồn thiện các quy định về thời hạn tố tụng

<small>đân sự nhăm đáp ứng yêu câu cải cách tư pháp và hội nhập quôc tê. Do vậy. các</small>

kiến nghị của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích cho cơ quan lập pháp, tư pháp và

các tổ chức hành nghề luật (Quốc hội, Tòa án nhân dan tối cao, Viện kiểm sát mhân

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

cân tối cao, Liên Doan Luật sư Việt Nam...) trong việc hoàn thiện, hướng dẫn va thực hiện các quy định của pháp luật về thời hạn tố tụng dân sự.

<small>1.5. Phạm vi nghiên cứu</small>

Trong giới hạn về thời gian và cấp độ của dé tài, việc nghiên cứu chi tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau:

- Thực trạng pháp luật hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự là nguyên nhân

dẫn tới kéo đài thời hạn giải quyết, không đáp ứng hiệu quả của giải quyết vụ việc

<small>dân sự;</small>

- Kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế gidi về thời hạn tố tụng dân

- Thực tiễn thực hiện pháp luật về thoi hạn tố tụng dân sự ở Việt Nam trong

những năm gan đây.

Do thời lượng có hạn nên Đề tài khơng đi sâu nghiên cứu về tồn bộ các quy định về thời hạn tổ tụng tại Tòa án mà chỉ tập trung nghiên cứu một số quy định về thời han đang có những bat cập, hạn chế cần sửa đổi. Dé tài cũng không nghiên cứu về thời hạn trong thi hành án dân sự, vẫn đề này sẽ được tác giả nghiên cứu tiếp khi có điều kiện thích hợp.

<small>1.6. Nội dung nghiên cứu</small>

Đề thực hiện được mục đích của nghiên cứu, việc nghiên cứu đề tài tập trung <small>vào các nội dung sau:</small>

1.6.1. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện các quy định về thời hạn t6 tụng <small>dân sự</small>

<small>Trong nội dung này việc nghiên cứu sẽ tập trung vào một sô vân đê cơ bảnsau đây :</small>

+ Những van đề lý luận cơ bản về thời hạn va thủ tục tố tụng dân sự;

+ Thời hạn tố tụng dân sự trong bối cảnh cải cách tư pháp. hội nhập quốc tế; + Kinh nghiệm xây đựng quy định về thời hạn tố tụng theo pháp luật tố tụng <small>dân sự một sô nước trên thê giới.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

1.6.2. Cơ sở thực tiễn của việc hoàn thiện các quy định về thời han to tụng

<small>dân sự</small>

Trong phân này việc nghiên cứu tập trung chủ yếu vào việc làm rõ những bắt

cập, những khiếm khuyết của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thời hạn tố tụng

dân sự trên cơ sở đối chiếu với lý luận, định hướng cải cách tư pháp, hội nhập cũng

như kinh nghiệm lập pháp của một số nước nhằm làm rõ tiền đề thực tiễn cùa việc hoàn thiện pháp luật về thỡi hạn tố tụng :

- Thực trạng các quy định về thời hạn tố tụng trong thủ tục thông thường: + Thực trạng các quy định về thời hạn tố tụng trong thủ tục sơ thâm vụ án

<small>đân sự;</small>

+ Thực trạng các quy định về thời hạn tố tụng trong thủ tục phúc thẩm dân

+ Thực trạng các quy định về thời hạn tố tụng trong thủ tục giám đốc thầm.

tái thâm dân sự

- Thực trạng các quy định về thời hạn tô tụng trong một số thủ tục đặc biệt: + Thực trạng các quy định về thời hạn tổ tụng trong thủ tục giải quyết việc <small>dân sự;</small>

+ Thực trạng các quy định về thời hạn tố tụng trong áp dụng các biện pháp

khẩn cấp tạm thời.

1.6.3. Giải pháp hoàn thiện các quy định về thời hạn tỖ tung dân sự

Thông qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về thời hạn tố

tụng đân sự trong mối liên hệ với lý luận, các yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế, quốc tế đặt ra và kinh nghiệm quốc tế về thời hạn tố tụng, nhóm nghiên cứu đã đưa ra những bình luận về các quy định về thời hạn trong Dự thảo

BLTTDS năm 2015, từ đó đề xuất những kiến nghị cụ thể về hoàn thiện pháp luật cũng như thực hiện pháp luật về thời hạn tố tụng. Các đề xuất này gắn liền với yêu

cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngồi nhằm góp phần tháo gỡ được những bat cập, vướng mắc trong thực tiễn

hiện nay về thỡi hạn tố tụng dân sự, loại bỏ những quy định không hợp lý về thời

hạn tố tụng cũng như những quy định là căn nguyên dẫn tới kéo dài thời hạn, bố

sung các quy định mới nham đáp ứng các yêu cau cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Các đề xuất này của Đề tài sẽ có tính ứng dụng trực tiếp cho hoạt động

lập pháp nếu được nhà lập pháp Việt Nam tiếp thu và chấp nhận trong Dự thảo BLTTDS sửa đổi lần này, nếu khơng được như vậy thì kết quả nghiên cứu cũng là

một bước đột phá, tạo sự chuyền biến trong tư duy lập pháp và tư pháp về thời hạn

tố tụng, là tư liệu tham khảo hữu ích để Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

nhân đân tối cao tham khảo khi ban hành văn bản hướng dẫn, xây dựng án lệ về thời

<small>hạn tố tụng trên thực tế.</small>

1.7. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác- Lênin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của dé tai, trong quá trình nghiên cứu đề tài các tác giả cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như

phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và phương

pháp tông hợp.

2. PHAN NOI DUNG

2.1. Một số van đề lý luận về thời hạn tố tung đân sự

2.1.1. Nhận diện thời hạn tỖ tụng và ý nghĩa của thời hạn tỗ tung

Theo kết quả nghiên cứu do nhóm nghiên cứu thực hiện thì việc nhận diện

đúng bản chất của thời hạn tố tụng và tầm quan trọng của nó sẽ giúp cho nhà lập pháp có những chính sách điều chỉnh phù hợp'. Kết quả nghiên cứu cho thấy cố giáo sư Nguyễn Huy Dau đã đưa ra một định nghĩa về thời hạn tố tụng thiên về thời hạn dành cho đương sự, theo đó “Thoi hạn thủ tục có thé định nghĩa như mỘt

khoảng thời gian, được luật dành cho đương sự để làm một động tác hoặc quyết

>? Một khái niệm rộng hơn về thời hạn tố tụng <small>định một việc, trong việc tranh tụng</small>

cũng đã được ghi nhận trong Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Trường DH Luật

Hà Nội và Điều 157 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS). Theo đó, “Thời han tố tụng dân sự là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác đề người tiễn hành to tụng, người tham gia to tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện hành vi theo quy định của pháp luật t6 tung dan su’?

Kết quả nghiên cứu về mối tương quan giữa hành vi tố tung va thời han tổ tụng cho thấy thời hạn tố tụng bao gồm thời hạn về hoàn tất đơn kiện; nộp tiền tạm ứng án phí; nộp văn bản phản hồi việc kiện; thực hiện khiếu nại về tố tụng: kháng cáo, khiếu nại đề nghị xét lại phán quyết; cung cấp, chứng cứ tài liệu theo yêu cầu

của Tòa án; thời hạn về việc cấp, tống đạt và thông báo các văn bản tổ tụng; xét đơn

<small>TS. Trần Anh Tuần, Chuyên dé 1: Mot số van dé ly luan về thời han và thi tục tỗ tụng dan sự, tr. 1-16.</small>

<small>GS. Nguyễn Huy Dau, Luật Dân sự to tung Viét Nam, Sai Gon 1962, tr. 448.3 TS. Nguyễn Cơng Bình, Gido trình Luật Tơ tụng dan sự, Nxb CAND 2014, tr. 214.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

và thụ lý vụ việc; hoàn tat hồ sơ ở các cấp Tịa án; mở phiên tịa, phiên họp; hỗn phiên tịa, phiên họp; kháng nghị phúc thâm, giám đốc thẩm, tái thâm; thời hạn giải

quyết khiếu nại đối với các quyết định tố tụng.v.V...".

Các quy định về thời hạn tố tụng có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở pháp ly dé

xác định các hành vi tố tung cần thiết phải được thực hiện va nghĩa vu của các chủ

thể trong việc thực hiện đúng hạn các hành vi tố tụng. Quy định về thời hạn tố tụng

cịn có ý nghĩa trong việc kiểm soát thời gian tong thé của việc giải quyết vụ việc

dan sự, làm cho tiến trình tơ tụng được thực hiện nhanh chóng hơn. Các chế tài về vi phạm thời hạn tố tụng có tác đụng ran đe, thúc đầy các chủ thể tô tụng phải thực hiện các bổn phận, nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc đồng thời là cơ sở dé

quyết định về hậu quả pháp lý trong trường hợp các hành vi tố tung không được tiến

hành đúng thời hạn. Chang han, duong su sé bi tra lai don khoi kién néu khơng nộp

biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án trong thời hạn luật định, mat quyén

kháng cáo nếu dé quá hạn mới kháng cáo mà không có ly do chính đáng”.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy quy định thời hạn tố tụng không chỉ xác định thời gian giải quyết xong một vụ việc mà cịn xác định từng cơng việc phải làm

trong từng khoảng thời gian nhất định. Thời hạn tố tụng không chỉ có ý nghĩa đơn

thuần về thời gian mà cịn là những mốc để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tơ chức có liên quan đến quá trình tố tụng xác định những công việc mà các chủ thể này phải làm đã được thực hiện và thực hiện xong hay chưa”.

Việc việc xác định thời hạn tố tụng cịn có ý nghĩa xác định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tung và

<small>những người liên quan trong trường hợp họ không thực hiện hoặc thực hiện không</small>

đúng nghĩa vụ và quyền hạn của họ trong thời hạn tố tụng cụ thể”. Việc xác định

thời hạn tố tụng cịn có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc bảo vệ quyền lợi

chính đáng của các đương sự mà cịn là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự

được nhanh chóng, kip thoi, chính xác. Ngồi ra, việc xác định thời hạn tố tụng còn <small>* TS. Trần Anh Tuấn, Chuyên đề 1: Mộ! số vấn dé lý luận về thời han va thủ tục tô tụng dân sự, tr. 1-16.</small>

: TS. Tran Anh Tuan, Chuyên đề 1: Một số vấn dé ly luận về thời hạn và thủ tục tô tụng dân sự, tr. 1-16.

<small>5S. Lê Thu Hà, Chuyên đê 3: Lược sử pháp luật to tung dan sự Việt Nam vẻ thoi hạn to tung dan sự, 41-51.</small>

<small>7 TS. Nguyễn Cơng Bình (2014), Giáo trình luật tổ tụng dân sự, Nxb CAND 2014, Hà Nội, tr. 213.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

có ý nghĩa trong việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tung, người tham gia tố tụng và những người liên quan trong việc thực

hiện các quyền và nghĩa vụ tố tung’. 2.1.2. Xác định thời hạn té tung

Theo nghiên cứu của cố giáo sư Nguyễn Huy Đầu thì pháp luật có thể ấn

định hành vi thủ tục phải làm trong một thời hạn tính theo giờ, ngày và tháng. Nếu

tính theo giờ, thì phải tinh cho đủ số giờ từ giờ nọ đến giờ kia (Điều 417 và 808 Bộ Dân sự tố tụng Pháp trước đây). Nếu tính theo ngày, thì cũng phải tính cho đủ ngày,

khởi điểm từ đúng nửa đêm. Nếu tính theo tháng, thì khơng lấy mỗi tháng 30 ngày như cách tính lãi trong luật thương mai, mà phải tính từ ngày thứ may tháng này tới

ngày thứ mấy tháng kia sao cho đủ số tháng: chẳng hạn từ 24 tháng giêng đến 24

tháng ba là đủ hai thang, mặc dau tháng hai chỉ có 28 hay 29 ngày.

Cách tính thời hạn thủ tục cần lưu ý tới hai trường hợp đặc biệt: ngày nghỉ lễ

và những ngày đầu hạn và cuối hạn. Về ngày nghỉ lễ: Nếu ngày nghỉ (chủ nhật,

quốc lễ) ở trong thời hạn thì theo cách tính tháng nói trên, các ngày đó kể như ngày

thường khơng được trừ đi. Nếu ngày cuối cùng là ngày nghỉ thì lại được gia tăng đến hơm sau (Điều 346 HSTSTT Trung và Điều 258 Nghị định 1910).

Theo pháp luật tố tụng dân sự Pháp thì việc xác định ngày đầu tiên và ngày

cuối cùng của thời hạn có ý nghĩa quan trọng vì hai ngày này liên quan đến một

khái niệm gọi là hạn trịn và khơng trịn mà luật tố tụng thường nói đến.

Ngày đầu tiên (dies a quo) là ngày hành vi tố tụng được làm dé tính thời hạn.

Nếu kể cả ngày đó dé tính thời hạn thì có thé tống đạt giấy tờ vào giờ hợp pháp cuối cùng và như vậy làm đương sự mat hẳn một ngày. Vì vậy, có một định lệ chắc chắn là ngày đầu khơng bao giờ được tính, ngày hôm sau mới dùng làm khởi điểm.

Ngày cuối cùng (dies ad quem), là ngày lễ thì dã có giải pháp nói trên. Nếu ngày cuối cùng là ngày làm việc thì phải căn cứ vào Điều 1033 Dân sự tố tụng

Pháp, là điều khoản đã phân biệt thời hạn trịn và thời hạn khơng trịn”.

Hạn trịn là thời gian thủ tục khơng được tính ngày cuối. Hạn khơng trịn là thời gian thủ tục phải kể luôn ngày cuối. Như vậy, nếu là hạn tròn, sẽ thêm một <small>*TS, Nguyễn Hải An, Tòa an cấp cao tại Hà Nội, Thực tiễn thực hiện các quy định về thời hạn té tung trong</small>

<small>việc giải quyét các vụ việc dán sự, hơn nhân và gia đình, 142-157.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

ngày nữa. Thơng thường thì thời gian bắt đầu băng một chứng thư tống đạt đích thân hay tại nhà đương sự là một hạn trịn, ngày cuối cùng khơng được tính. Hạn trịn hay khơng trịn là do luật định riêng cho mỗi trường hợp, định lệ tong quát vừa nói khơng có tính cách tuyệt đối '9.

Việc nghiên cứu cho thấy, bên cạnh thời hạn tố tụng luật định, pháp luật cũng cho phép Thâm phán rút ngắn thời hạn, chăng hạn, nếu có cấp bách, cho phép địi ra Tịa ngắn hạn hơn định lệ thơng thường. Nhà làm luật đã đự liệu trường hợp <small>luật cho phép tính thêm ngày vào thời hạn vì đương sự ở ngồi quản hạt xa trụ sở</small> Tịa án''. Nghị định ngày 16 - 3 - 1910 (áp đụng ở miền Nam Việt Nam trước đây) dựa theo các Bộ luật Dân sự, Thương mại và Tố tụng của Pháp, lấy một đơn vị 10.000 thước (myriamètre) hay 10 cây số dé tinh thời hạn tăng thêm. Theo Điều 258 của Nghị định này thì tất cả các thời hạn thủ tục, trừ khi nào có điều khoản trái

ngược, đều được tính thêm cứ 5 myriamètres mỗi ngày. Phân số dưới 4 myriamètres, trên thì kế như thêm được một ngày. Tuy nhiên, Nghị định ngày 16 - 3

— 1910 cũng có nhiều biệt lệ. Chẳng hạn, theo Điều 22 và 23 Nghị định này thì trát

địi ra Tịa làm phải ít ra ba ngày trước phiên xử nếu đương sự ở cách 3 myriamètres, xa hơn thi cứ 30 cây số lại thêm một ngày nữa; phân số dưới 2

<small>myriametres khơng tính, trên thì thêm một ngày.</small>

Việc nghiên cứu cho thấy nhà lập pháp của miền Nam Việt Nam trước đây đã có những quy định riêng về thời hạn tố tụng đối với đương sự ở nước ngoài trên cơ sở cân nhắc về khoảng cách địa lý. Chẳng hạn, Nghị định 27-5-1914 ấn định riêng thời hạn là 2 tháng cho các người gần (Thái Lan, Mã Lai), 3 tháng nếu xa hơn chút nữa (Ấn Độ, Tân Gia Ba...) và cứ lần lần tăng thêm: 4 tháng (Trung Hoa, Nhật Bản...), 6 tháng (Pháp), 8 tháng (Châu Âu). Các thời hạn đặc biệt này áp đụng cho cả thời hạn kháng cáo.

Cách tinh đường xa và lay 10 cây số làm đơn vị được mô phỏng từ pháp luật

Pháp trước đây từ hồi Pháp còn dùng xe ngựa, sau này phương pháp tính thời hạn này khơng được sử dụng nữa. Ở Việt Nam, nhà làm luật ở Trung Việt đã bỏ hắn <small>? GS. Nguyễn Huy Đầu, Luật Dân sự tổ tụng Việt Nam, Sài Gòn 1962, tr. 449.</small>

<small>'° GS. Nguyễn Huy Đâu, Luật Dan sự tổ tung Việt Nam, Sài Gòn 1962, tr. 450.'' GS. Nguyễn Huy Dau, Luật Dân sự t6 tụng Việt Nam, Sài Gòn 1962, tr. 450.</small>

<small>'? GS. Nguyễn Huy Dau, Luật Dân sự tổ tụng Việt Nam, Sài Gòn 1962, tr. 449.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

cách quy định này và cho mỗi thủ tục một thời hạn rộng hơn nhưng không nói đến việc gia tăng vi xa cách. Thí dụ, Điều 28 Bộ HSTSTT ấn định thời hạn 8 ngày trước phiên tòa kê từ ngày giấy đưa tận tay hay giao về nhà không phân biệt địa chỉ xa

hay gần ` 3. Nhà lập pháp đương đại của Việt Nam hiện nay cũng theo hướng ấn định

một thời hạn dài hơn là 30 ngày dé duong su chuan bi cho viéc tham gia phién toa. Việc nghiên cứu cho thấy cũng cho thấy, nhà lập pháp đương dai đã đi theo

hướng cách tính thời hạn tố tụng, quy định về thời hạn tố tụng, thời điểm bắt đầu, kết thúc thời hạn tổ tụng được dựa trên các quy định tương ứng của pháp luật dân

sự. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cũng cho thấy thời han dân sự có thé theo luật định hoặc do các bên thỏa thuận, trong khi đó thời hạn tố tụng là thời hạn do pháp luật quy định. Câu trả lời về thời hạn tố tụng được tính bằng ngày theo quy định của

pháp luật dân sự hay ngày làm việc đường như vẫn cịn bỏ ngỏ `

Như đã phân tích ở trên, ngày đầu tiên (dies a quo) là ngày hành vi tố tụng

được làm dé tính thời hạn. Ngày đầu khơng được tính, ngày hơm sau mới dùng làm khởi điểm. Pháp luật Việt Nam cũng đi theo hướng này: Khi thời hạn được xác định

băng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn khơng được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày được xác định; Khi thời hạn bắt đầu bằng một sự kiện thì

ngày xảy ra sự kiện khơng được tính mà tính từ ngày tiếp theo của ngày xảy ra sự

kiện đó. Ngồi ra, đối với trường hợp thời hạn được xác định bằng phút, giờ thì thời

hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định (Điều 152 BLDS). Thời điểm kết thúc

thời han (dies ad quem) được quy định tại Điều 153 BLĐS Ÿ

Vẻ chế tài do vi phạm thời hạn, đương sự không tôn trọng thời hạn thủ tục, sẽ <small>'’ GS. Nguyễn Huy Dau, Luật Dân sự tổ tụng Việt Nam, Sài Gòn 1962, tr. 451.</small>

4 TS. Trần Anh Tuấn, Chuyên đề 1: Mét số vấn đề ly luận về thời hạn và thủ tục tô tụng dan sự, tr. 1-16. lỗ Điều 153 BLDS quy định về kết thúc thời hạn tố tụng như sau :

<small>1. Khi thời hạn tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn.2. Khi thời hạn tính bằng tuần thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tuần cuối cùng</small>

<small>của thời hạn.</small>

<small>3. Khi thời hạn tính bằng tháng thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tháng cuối</small>

<small>cùng của thời hạn; nếu tháng kết thúc thời hạn khơng có ngày tương ứng thì thời hạn kết thúc vào ngày cuốicùng của tháng đó.</small>

<small>4. Khi thời hạn tính bằng năm thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày, tháng tương ứng của năm</small>

<small>cuối cùng của thời hạn.</small>

<small>5. Khi ngày cuối củng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thờiđiểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.</small>

<small>6. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

bị truất quyền. Chăng hạn, đương sự kháng cáo một bản án dân sự nhưng quá hạn luật định sẽ mất quyền được Tòa án cấp phúc tham xem xét. Tuy nhiên, pháp luật và thực tiễn tư pháp của Việt Nam cũng cho phép chấp nhận việc quá hạn trong trường hợp người tham gia tô tụng có lý do chính dang và thời han tố tụng dành cho Tịa án có thé được gia han trong trường hợp vụ án có tính phức tap hoặc có trở ngại khách quan '.

2.1.3. Yéu cau cai cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế đối với thời hạn tỗ tụng dân sự

Kết quả nghiên cứu Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng

đến năm 2020 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã cho thấy trong bỗi cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nghiên cứu cải cách tư pháp nhằm tăng cường tính hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi của chủ thể, đặc biệt là trong các án kiện về kinh doanh

thương mại là một yêu cầu cấp thiết. Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh

(BCMTKD) 2007 được Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác tài chính quốc tế công bố ngày 6.9, VN đã tụt hạng từ 98 xuống 104. Theo bà Caralee McLiesh - Giám đốc chương trình và đồng sáng lập viên dự án BCMTKD của WB:

"VN vẫn có cải cách nhưng chậm hơn những nước khác. Đó là lý do chính khiến VN bị sụt hang"; “...viéc thực thi luật và hệ thống Tòa án ở VN vẫn rất yếu, thủ tục

tườm rà và chi phí cao. Thời gian và chi phí giải quyết phá sản ở VN rất kém hiệu quả”"”, Dé cải thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam, Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 18/3/2014 về cải thiện mơi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh

quốc gia đã chi rõ cần phải “rd sốt, đánh giá và có ý kiến góp ý về quy trình giải

quyết tranh chap hợp đơng noi riêng và tranh chấp dân sự nói chung theo hướng giảm thủ tục, giảm thời gian, giảm chỉ phí giải quyết tranh chấp hợp đồng đối với những vụ việc đơn giản J Tiếp theo đó, Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ngày

<small>Ì® TS, Trần Anh Tuấn, Chun đề 1: Một só ván dé lý luận về thoi hạn và thủ tục tô tung dân sự, tr. 1-16.</small>

<small>PBáo cáo môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới, truy cập tai địa chỉ</small>

<small>nda2 1 .monre.gov.vn/default.aspx?tabid=359&ItemID=2866; thoi gian truy cập 11:05 PMngay 11/10/2015.</small>

<small>!# Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ngay 18/03/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cai thiệnmôi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<small>12/3/2015 về tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia</small>

đã chỉ rõ “Các Bộ, cơ quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao trong q trình hồn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến việc tranh chấp thương mại và pha sản doanh nghiệp theo hưỡng đơn giản hóa thủ tục, quy trình va rut ngắn thời gian giải quyết tranh chấp thương mại xuống còn toi da 200 ngày (hiện nay là 400 ngày) và 24 tháng (hiện nay là 60 tháng), nhất là

<small>đối vởi các tranh chấp quy mô nhỏ và giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa thơng qua</small>

Tịa án” '?; “Ra sốt, đơn giản thủ tục, quy trình và rut ngắn thời gian giải quyết

tranh chấp thương mại, nhất là các tranh chấp quy mô nhỏ, tranh chấp giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thơng qua Téa án xuống cịn tối da 200 ngày"””. Theo

<small>Cục Quản lý đăng ký kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì trong thời gianqua, mơi trưởng kinh doanh tại Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể, được cộng</small>

đồng các nhà tài trợ quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, theo xếp hạng của báo cáo thường

<small>niên Môi trường kinh doanh (DoingBusiness Report) của Ngân hàng Thế giới, chỉ</small>

số môi trường kinh doanh tại Việt Nam năm 2015 là 78/189, tụt 6 bậc so với năm

Kết quả nghiên cứu Chuyên dé 2” cho thấy công cuộc cải cách tư pháp dân

sự ở Việt Nam đến năm 2020 đã vạch ra những đường hướng cơ bản và yêu cầu đối vai việc cải cách và hoàn thiện thời hạn va thủ tục tố tụng dân sự cho phù hợp với

điều kiện, hoàn cảnh của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Nhiệm vụ của nhà lập pháp và người nghiên cứu về tố tụng dân sự là trên cơ sở các định hướng này xác định được những yêu cau đặt ra và từ đó đề xuất các giải pháp

cụ thé đối với việc hoàn thiện các quy định về thời hạn tố tụng cho phù hợp.Việc

nghiên cứu cho thấy cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế đã dat ra những

yêu cầu sau đây đối với việc hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về thời hạn tố tụng: <small>'? Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12/03/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải</small>

<small>thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2015-2016, tr.3.</small>

<small>*° Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12/03/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải</small>

<small>thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2015-2016, tr.8.</small>

<small>*! Môi trường kinh doanh của Việt Nam và những nỗ lực của Chính phủ trong thời gian qua, truy cập tại địa</small>

<small>chỉ https://dangkykinhdoanh. gov. vn/NewsandUpdates/tabid/9 /ArticlelD/I124/Môi trường kinh doanh Việt</small>

<small>Nam và nỗ lực của chính phủ trong thời gian qua; thời gian truy cập 10:33 AM ngày 3/11/2015.</small>

*'Ts, Trân Anh Tuan, Chuyên dé 2: Thởi han 16 tụng dân sự trong bỗi cánh cải cách tư pháp, hội nhập quốc

<small>te, [7- 40.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

1° Có thể nhận thay răng định hướng cải cách tư pháp, cải thiện mơi trường kinh doanh có nguồn gốc sâu xa từ những yêu câu phát triển đất nước do công cuộc

hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra. Khi thực hiện đường hướng về cải cách nói trên, chúng ta cũng cần phải có sự nghiên cứu và đánh giá hết sức thận trọng về những

ưu điểm, nhược điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới. Trén cơ sở sự nghiên cứu này có thể rút ra những giải pháp cụ thé cho việc hoàn thiện quy định về thời hạn tố tụng dân sự, đáp ứng những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta.

2° Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 đã chỉ rõ những định hướng cơ bản về cải cách thủ tục tố tụng tư pháp, trong đó có các quy định về thời hạn tố tụng đân sự. Yêu cầu cốt lõi cần phải lĩnh hội là việc cải cách thủ tục và

thời hạn tố tụng đân sự phải bảo đảm “thuận tiện” cho dân, “bảo đảm quyền tranh

tụng của các đương sự trong tố tụng dân sự”. Theo tinh thần này chúng ta cần rà

soát các quy định hiện hành về thoi hạn tố tụng nhằm phát hiện những quy định chưa đáp ứng được các tiêu chí này, trên cơ sở đó tiếp tục nghiên cứu dé sửa đổi và

<small>hồn thiện cho phù hợp.</small>

3° Định hướng cải cách tư pháp dan sự theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ năm 2014 và 2015 về cải thiện mơi

trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia cũng đặt ra những yêu cầu đối với

việc hoan thiện các quy định về thời hạn và thủ tục tố tụng dân sự. Cụ thể là “tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý”, “Xây dựng cơ chế xét xử theo

thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “rà sốt,

đánh giá và có ý kiến góp ý về quy trình giải quyết tranh chấp hợp đồng nói riêng

và tranh chấp đân sự nói chung theo hướng giảm thủ tục, giảm thởi gian, giảm chi phí giải quyết tranh chấp hợp đồng đối với những vụ việc đơn giản””: “Ra sốt,

<small>® Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 18/03/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện</small>

<small>môi trường kinh doanh, nâng cao nang lực cạnh tranh quôc gia.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>đơn giản thủ tục, quy trình và rit ngăn thời gian giải quyết tranh chấp thương mại,nhất là các tranh chấp quy mô nhỏ, tranh chấp giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ,</small>

» 24 Để đáp ứng các u cầu trên địi

<small>thơng qua Téa án xuống cịn tối da 200 ngày</small>

hỏi các quy định về thời hạn tố tụng phải được hoàn thiện theo hướng, tạo điều kiện cho người dân tham gia tố tụng trong một thời hạn hợp lý, có chế tài phù hợp chống lại các hành vi trì hỗn tổ tụng, rút ngắn một cách hợp lý các thời hạn tố tụng phù hợp với tính chất đơn giản hay phức tạp của vụ kiện, tính khẩn cấp của việc bảo vệ quyên lợi trong các thủ tục tố tụng tương ứng.

4° Theo chiến lược cải cách tư pháp dân sự đến năm 2020 thì “Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội cơng

bằng, dân chủ, văn minh; góp phan thúc đây sự phát triển kinh tế - xã hội; ... Đổi

mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến tồ án, tồ án có trách nhiệm

nhận và thụ lý đơn ...””. Xét điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, thực tiễn về hiệu quả tố tụng tại Tịa án thì định hướng này cũng địi hỏi chúng ta phải có một sự

nghiên cứu cân trọng để xác định tính hợp lý của các quy định về thời hạn tố tụng

trong điều kiện hội nhập, vai trò chủ động của Toà án trong việc xác định và điều chỉnh thời hạn phù hợp với tính chất đơn giản hay phức tạp của tranh chấp cũng như

mức độ khan cấp của quyên lợi cần được bảo vệ.

Như vậy, công cuộc cải cách tư pháp dân sự và hội nhập quốc tế hiện nay đòi hỏi chúng ta cần phải có sự nghiên cứu và đánh giá hết sức thận trọng về những ưu

điểm, nhược điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn tố tụng dân sự

trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tổ tụng trên thế giới; rà soát các quy định hiện hành về thời hạn tố tụng nhăm phát hiện những quy định chưa đáp ứng được các tiêu chí bảo đảm “thuận tiện” cho dân, “bảo đảm quyên tranh tụng của các đương sự trong tố tụng

dân sự”; tạo điều kiện cho người dân tham gia tố tụng trong mot thời hạn hợp lý, có

chế tài phù hợp chống lai các hành vi trì hỗn tố tung, rút ngắn trên cơ sở bảo đảm <small>?* Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ ngày 12/03/2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải</small>

<small>thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2015-2016, tr.8. ;” Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 2 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến</small>

<small>năm 2020, tr. 2 và 10.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

tính hợp ly của các quy định về thời hạn tơ tụng nhằm bao đảm tính hiệu quả của tố tụng, vai trò chủ động của Toa án trong việc ấn định và điều chỉnh thời hạn phù hợp voi tính chất đơn giản hay phức tạp của tranh chấp cũng như mức độ khan cấp của quyền lợi cần được bảo vệ.

2.1.3.4. Kiểm sốt tính hop lý của thời hạn t6 tung trong lập pháp

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc xây đựng các quy định về thời hạn tố

tụng phải đáp ứng được 2 yêu cầu cơ bản là chất lượng và tính nhanh chóng, hiệu

quả của hoạt động tư pháp. Có nghĩa là Tòa án phải làm sáng tỏ được những vấn đề về sự việc và pháp luật của vụ kiện để bảo đảm phán quyết của Tịa án có căn cứ và <small>hợp pháp nhưng q trình đó phải được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời</small> và hiệu quả. Xét ở góc độ nào đó thì tính nhanh chóng, kip thời, hiệu quả của tố tụng cũng chính là sự phản ánh chất lượng của hoạt động tư pháp, thể hiện tính ưu việt của một nên tư pháp gần dân. Như vậy. cần phải cân bang giữa yêu cầu về chat

lượng và u cau về tính nhanh chóng, hiệu quả của hoạt động tư pháp. Có nghĩa là

cần phải xác định được tính hợp lý của thời hạn tố tụng đân sự. Tuy nhiên, cần phải giải bài toán về sự hợp lý của thời hạn tố tụng nhằm đáp ứng yêu cau về chất lượng và tính nhanh chóng, hiệu quả của hoạt động tư pháp như thế nào là một vẫn đề cần <small>được quan tâm nghiên cứu.</small>

Xét về mối tương quan giữa thời hạn và quy trình, thủ tục tố tụng dan sự thì việc giản lược các thủ tục tố tụng dân sự không cần thiết sẽ có tác động tích cực, làm rút ngắn hơn thời gian giải quyết vụ án đân sự. Về lý luận, để đáp ứng yêu cầu

về chất lượng và tính nhanh chóng, hiệu quả của hoạt động tư pháp thì tùy theo tính chat đơn giản hay phức tạp của tranh chấp mà nhà lập pháp có thé thiết kế các thủ

tục tố tụng với thời hạn tương ứng: Thủ tục tố tụng thông thường, thủ tục rút gọn, thủ tục giải quyết việc dân sự. Thủ tục tố tụng thông thường được áp dụng đối các tranh chấp về quyền lợi giữa các đương sự, do vậy các nguyên tắc của tố tụng dân sự, các quy trình tố tụng phải được bảo đảm thực hiện một cách nghiêm ngặt nên việc giải quyết tranh chấp thường mất nhiều thời gian hơn các loại việc khác. Trong

đó, thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc dan sự là các thủ tục tố tụng được giản

lược hơn so vỡi thủ tục tố tụng thông thường nên thỡi gian giải quyết vụ việc cũng <small>vi thê mà được rút ngăn hơn. Ngoài ra, cũng can nhận thức rang trong những trường</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

hợp quyên lợi của tụng nhân bi đe dọa gây tơn hại thì yếu tố khẩn cấp của việc bảo

<small>vệ quyên loi nhăm ngăn ngừa những thiệt có thể xảy ra trong tương lai; bảo toàn</small>

<small>chứng cứ, tài liệu, bảo toàn tài sản, bảo đảm cho việc xét xử, thi hành án... được đặt</small> ra trước tiên. Do vậy, dé thời hạn tố tụng có thé đáp ứng yêu cầu về tinh khan cấp của biện pháp cần được áp dụng (bảo đảm sự nhanh chóng, hiệu quả) thì tùy trường hợp, căn cứ vào mức độ khan cấp của sự việc mà thời hạn có thé tính bằng gIỜ,

<small>phút, giây hay ngày. Độ đài của thời hạn trong những trường hợp này có thể chỉ là</small>

ngay lập tức (theo phút, giây) hoặc có thể chậm hơn (theo giờ, theo ngày) nhưng

<small>chắc chắn là phải rút ngăn hơn rất nhiều so với các thời hạn tố tụng trong q trình</small>

Tịa án giải quyết vụ việc dân sự (thường tính theo ngày, theo tháng) cũng như so

<small>với các thời hạn liên quan đến việc khiếu nại, kiến nghị giám đốc thâm, tái thâm(thường tính theo năm). Trong những trường hợp này chất lượng của hoạt động tư</small>

pháp vẫn được kiểm sốt thơng qua việc Tòa án xem xét điều kiện áp đụng biện

pháp khẩn cấp, việc thực hiện biện pháp bảo đảm của đương sự, quyền khiếu nại của đương sự và quyền kiến nghị của Viện Kiểm sát dé thay đổi, hủy bỏ biện pháp

được áp đụng“.

Theo kết quả nghiên cứu thì ở châu Âu, sự đánh giá về thời hạn hợp lý phải được dựa trên toàn bộ các thủ tục, trên tống thé của vụ kiện trong tat cả các quy trình và các giai đoạn của tố tung, theo đó các hành vi tố tụng được thực hiện trong một thời

gian hop lý?”. Tính hợp của thời hạn được đánh giá trong suốt quá trình tố tụng từ khi khởi đầu của vụ kiện cho tới khi thi hành án. Tòa án này cũng ấn định le dies a quo et le dies ad quem: “Diém khởi dau của giai đoạn đề đánh giá về tinh hợp lý của thời han to tụng dân sự là thời điểm tong đạt trát đòi triệu tập đương sự ra Tòa sơ thẩm thẩm

quyên rộng, thời điểm kết thúc của thời hạn là thời điểm ra phán quyết của Tòa phá

<small>°° TS. Trần Anh Tuan, Chuyên đề 1: Một sé vấn đề lý luận về thời hạn và thủ tục t6 tụng dan sự, tr. 1-16.</small>

<small>? Trần Anh Tuấn, “Thủ tục xét xử nhanh trong pháp luật Pháp và Việt Nam”, Luận án tại Đại học Nice</small>

<small>Sophia Antipolis - Cộng hòa Pháp, 2007, đoạn 412; N. FRICERO, Les garanties d'une bonnejustice, Droit et pratique de procédure civile, (sous la direction de S. GUINCHARD), D.2006, p. 478; S. GUINCHARD, CC S. DELICOSTOPOULOS, I. S.DELICOSTOPOULOS, M. DOUCHY-OUDOT, F. FERRAND, X. LAGARDE, V.MAGNIER, H. RUIZ FABRI, L. SINOPOLI, J-M. SOREL, Droit processuel/Droitcommun et droit compare du procès equitable, Précis, Dallaz, 4e edition 2007, p. 826.</small>

<small>| TRUNG TAM THONG TIN THU VIEN</small>

17 | TRƯỜNG ĐẠI HOC LUAT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

án”, Sự đánh giá về thời hạn hợp lý cũng được dựa trên từng trường hợp cụ thê. căn cứ vào những tình huống đặc biệt của tranh chấp, tính phức tạp của vụ kiện. xử sự của

các đương sự và của cơ quan có thầm quyên”. Kết quả nghiên cửu của một số chuyên

đề cũng phản ánh góc nhìn tương tự, theo đó thời gian giải quyết vụ án cần phải được

tính từ thời điểm nguyên đơn nộp đơn khởi kiện cho đến khi vụ án được giải quyết bằng một bản án có hiệu lực của Tịa án, chứ khơng chỉ quan tâm đến tỷ lệ án “quá thời hạn giải quyết”, tức thời hạn chuẩn bị xét xử bị kéo đài quá thời hạn theo quy định của BLTTDS, như một tiêu chí thi đua, khen thưởng của ngành Tịa án'?.

Ở Việt Nam, dường như cơng trình nghiên cứu đầu tiên có đề cập đến vấn đề

này về phương diện học thuật là cuốn Luật Dân sự tố tụng Việt Nam của giáo sư Nguyễn Huy Dau. Theo Giáo sư Nguyễn Huy Dau thì “7hời gian được ấn định dai

hay ngắn là tùy ở bản chất, tính cách hệ trọng của moi việc: Luật không muốn đương sự quyết định hap tấp, hoặc phải chờ đợi q lâu; Tịa cũng khơng thể phán quyết ngay mà không suy xét kỹ lưỡng hoặc lưu giữ hồ sơ mãi mới xét xử. Hai thái

độ cực đoan của cả đương nhân lan Thẩm phán đều có phương hại đến sự diéu

hành cơng ly và truy tâm sự that. Như vậy, môi thời hạn thủ tục có ly do chánh đáng m3 Đây là góc nhìn học lý quan trọng cho việc xây đựng các định lệ về <small>riêng biệt</small>

thời hạn tố tụng. Có thể nhận thay rằng, mục đích của việc xây dựng thủ tục tố tụng

là tạo điều kiện cho các bên đương sự có thé tranh tụng một cách cơng khai, minh

bạch, cơng bằng, có cơ hội thực hiện các quyền tố tụng cần thiết được pháp luật trao

cho dé bảo vệ quyền lợi hợp pháp của minh đồng thời tạo điều kiện cho Tịa án có đủ thời gian cần thiết dé đánh giá và làm sáng tỏ những vấn dé về sự việc và pháp

<small>luật của vụ kiện. Tuy nhiên, việc đương sự khơng thực hiện các bổn phận của mình</small>

hoặc lạm dụng các quyên tố tụng được pháp luật trao cho cũng như sự thiếu khan <small>8 Trần Anh Tuần, “Thu tuc xét xử nhanh trong pháp luật Pháp và Việt Nam”, Luận án tại Dai học Nice</small>

<small>Sophia Antipolis — Cộng hòa Pháp, 2007; S. GUINCHARD et F. FERRAND, Procédure civile, Droit interneet droit communautaire, 28° édition, Précis, Dalloz, 2006, p. 570.</small>

<small>? Trần Anh Tuần, “Thu tuc xét xử nhanh trong pháp luật Pháp và Việt Nam”, Luan án tại Dai hoc Nice</small>

<small>Sophia Antipolis — Cộng hòa Pháp, 2007, đoạn 413, M.-A. EISSEN, La durée des procédures civiles etpénales dans la jurisprudence de la CEDH : Bull. inf. C.cass., 1% octobre 1995, p 3. Gaz.pal. 1993, doctrinen° 480 ; S. GUINCHARD et F. FERRAND, Procedure civile, Droit interne et droit communautaire, 28°édition, Précis, Dalloz, 2006, p. 570 ; N. FRICERO, Les garanties d'une bonne justice, Droit et pratique deprocédure civile, (sous la direction de S. GUINCHARD), D. 2006, p. 476.</small>

<small>© Trần Anh Tuân, “Thu rực xét xử nhanh trong pháp luật Pháp va Việt Nam", Luận án tại Dai hoc Nice</small>

<small>Sophia Antipolis - Cộng hòa Pháp, 2007, đoạn 412; LS. Ths. Pham Văn Phat, Chuyên dé 11: 7hởi hạn giải</small>

<small>quyết vụ việc dan sự từ thực tiên hành nghẻ luật sư, 128-141.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

trương can thiết của người tiên hành tơ tụng có thé làm cho việc giải quyết vụ kiện bị chậm trễ hoặc kéo dai, quyền lợi hợp pháp của đương sự có thể bị thương tồn do không được bảo vệ kịp thời. Do vậy, cần phải cân bằng giữa việc tạo điều kiện cho cơ quan tiến hành tố tụng, các đương sự trong việc thực hiện các quyền của mình và tính hiệu quả của việc bảo vệ quyền lợi. Thời hạn tố tụng là điều kiện cần thiết để cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác định đúng bản chất của sự việc và pháp luật áp

dụng nhưng nếu thời hạn này quá dài sẽ dẫn tới việc chậm trễ trong việc bảo vệ quyền lợi của đương sự, nếu thời hạn q ngắn thì sẽ có thé ảnh hưởng tới chất

lượng của phán quyết. Tương tự như vậy, thì thời hạn tố tụng là điều kiện cần thiết

dé các đương sự có thể thực hiện quyền phịng vệ của mình nhưng thời hạn quá dai sẽ ảnh hưởng tới tiến độ của vụ kiện, nếu q ngắn thì có thể đương sự không đủ

thời gian cần thiết dé thực hiện quyền của minh.

Do vậy, việc Nhà lập pháp đặt ra các quy định về thời hạn là nhằm kiểm sốt

cho tiến trình tố tụng được nhanh chóng, khắc phục sự chậm trễ cỗ hữu nếu như

khơng có sự hạn định cần thiết về thời hạn mà mỗi hành vi tố tụng có thể được tiến hành. Tuy nhiên, nếu các quy định về thời hạn tố tụng được thiết kế không hợp lý sẽ

đẫn tới những hậu quả tiêu cực nhất định: Nếu thời hạn quá dài sẽ dẫn tới lăng phi thời gian, không đáp ứng yêu cầu về tinh hiệu quả của hoạt động tố tung, nếu thời han quá ngắn sẽ dẫn tới các chủ thể khơng có đủ thời gian cần thiết để thực hiện các

hoạt động tố tụng và tat yếu dan tới việc vi phạm các quy định về thời hạn tố tung

được nhà lập pháp thiết lập.

Điều quan trọng là thời hạn tố tụng phải là thời hạn cần thiết, hữu ich và hợp

lý để các bên cũng như Tòa án thực hiện các hành vi tố tụng nhằm hướng tới việc giải quyết tranh chấp có hiệu quả và khơng có “thời gian vơ dụng” hay “thời gian chết” khơng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ kiện. Có nghĩa là cần phải loại bỏ những khoảng trống về thời gian không gắn với các hành vi tố tung cần thiết và hữu ích cho việc giải quyết vụ án của Tòa án hoặc việc thực hiện quyền tố tụng của đương sự. Điều này đường như là khó định lượng nhưng đối với người thực hành nghề luật chuyên nghiệp thì việc xác định thời gian cần thiết để tiễn hành một số

<small>*! GS. Nguyễn Huy Pau, Luật Dân sự tổ tụng Việt Nam, Sài Gòn 1962, tr. 448.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

khâu trong quy trình tố tụng cũng khơng phải là q khó khăn ”. Nếu khoảng thời

gian từ tối thiểu đến tối đa của mỗi thời hạn càng được rút ngắn thì nguy cơ về “thời gian vơ dụng” hay “thời gian chết” càng có thể được hạn chế hoặc loại trừ.

Nhu vậy, cần phải nghiên cứu dé loại bỏ những khoảng thời gian “vô dụng”

hay “thời gian chết” trong thời hạn. Tuy nhiên, khơng vì thế mà rút ngắn một cách quá mức thời hạn cần thiết. Có nghĩa là độ dài của thời hạn đối với mỗi hành vi tố

tụng của đương sự phải đủ để bảo đảm cho mỗi đương sự có thê thực hiện được các

quyền căn bản của mình. Chăng hạn, như thời gian cần thiết đề đương sự có thể phản bác yêu cầu và chứng cứ, tài liệu của đối phương, thời gian cần thiết để chuẩn

bị cho việc tham gia phiên tịa và biện hộ cho mình. Nếu pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam đi theo hướng chỉ có duy nhất một phiên xét xử chính thức thì thời

hạn cần thiết để các đương sự có thé chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa và biện hộ cũng cần phải dai hơn so với việc lựa chọn mơ hình về phiên tịa trù bị trước khi

xét xử chính thức để tun án.

Ngồi ra, nhà lập pháp cũng cần xác định tính hợp lý của thời hạn chuẩn bị cho việc mở phiên tòa trên cơ sở cân nhắc giữa độ đài của thời hạn trong mối liên

hệ với cơ chế xét xử một Thâm phán hay xét xử bằng một Hội đồng. Đối với trường hợp xét xử bằng Hội đồng thì thời hạn chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa và biện

hộ của các đương sự trùng với thời hạn nghiên cứu hồ sơ của các Hội thẩm nhân

dân (hoặc các thành viên khác của Hội đồng xét xử) nên hai thời hạn này cần được

Nhà lập pháp nghiên cứu dé tích hợp sao cho Hội đồng xét xử có đủ thời gian cần

thiết để thâm cứu hồ sơ vụ kiện và các đương sự cũng có đủ thời gian để có thể chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa và biện hộ. Đối vỡi trường hợp xét xử một Tham phan thì khơng cần có sự thâm cứu hồ sơ của các Hội thẩm (hoặc các thành

viên khác của Hội đồng xét xử) nên thời hạn chuẩn bị cho việc mở phiên tịa có thể

được rút ngắn và trong trường hợp này Nhà lập pháp chỉ còn quan tâm đến việc xác

<small>~ Đây là ly do mà nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sắt dor với các can bộ làm công tác xét xử, luật sự,người bao vệ quyền lợi cua đương sự nham co them tư liệu dé cung có cho các dé xuất nghiên cứu. Nội dungnay sẽ được phan tích ở Muc 2.2. Thực trạng pháp luật Liệt Nam vẻ thai han 16 tune ddn sự của Bao cáo ray.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

định tính hợp lý của thời hạn chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa và biện hộ của các đương sự”.

Đối với thời hạn cung cấp chứng cứ, tài liệu của chủ thê đang lưu giữ, nếu quy định về thời hạn các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ, tài liệu phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu cho đương sự, Tịa án khơng hợp lý sẽ dẫn đến thời gian giải quyết vụ án bị kéo đài thêm””. Ngoài ra, việc hoàn

thiện hồ sơ, trao đôi tài liệu giữa các bên đương sự và thâm tra chứng cứ, tài liệu

của người tiến hành tố tụng nếu khơng được tiễn hành nhanh chóng, kịp thời có thé sẽ dẫn tới làm giảm hiệu quả của “dịch vụ tài phán” do công lý chậm được thực thi.

Việc nghiên cứu so sánh với các quy định vẻ thời hạn giải quyết tranh chấp của Trọng tài cho thấy thời hạn tổng thể để đương sự có được phán quyết của Trọng tài thường ngắn hơn nhiều so với thời hạn giải quyết án kiện tại Tòa án (thưởng là từ 2

đến 3 tháng kể từ khi Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện và tài liệu kèm

theo). Cũng cần phải thấy răng việc hạn định thời gian trao đổi chứng cứ, tài liệu giữa các bên đương sự là can thiết nhưng nếu đi theo giải pháp Tịa án khơng chap <small>nhận chứng cứ, tài liệu được giao nộp quá thời hạn thì đường như lại là một giảipháp cực đoan do chỉ chú trọng tới tính nhanh chóng, hiệu quả mà bỏ qua tiêu chí</small> chất lượng của hoạt động tư pháp trong việc bảo vệ quyền lợi của chủ thể. Đây là một van đề khơng nhỏ, liên quan tới chính sách tư pháp của Quốc gia và bản chat

của chế độ nên cần phải được cân nhắc hết sức thận trọng” ,

Vậy cần có giải pháp nào để kiểm sốt thời gian tổng thể của việc giải quyết

vụ án, bảo đảm tính hiệu quả, nhanh chóng và kịp thời trong việc giải quyết tranh

chấp. Thiết nghĩ, trước hết cần phải chú ý đến tính hợp lý của thời hạn tố tụng trong

việc xây dựng các quy định của pháp luật, rút ngắn một cách tối đa các thời hạn

(nếu có thể) đồng thời có cơ chế thúc đây việc thực hiện nhanh chóng các hành vi tố tụng trong thời hạn đã được an định. Ngoài ra, cũng cần phải loại bỏ các nguyên nhân làm gián đoạn tổ tụng dan tới thời gian giải quyết vụ việc bị chậm trễ hoặc kéo

<small>* TS. Trần Anh Tuần, Chuyên dé 1: Mộ: số vấn đề lý luận về thời hạn và thủ tục tô tụng dan sự, tr. 1-16.</small>

<small>Điều 94 hiện nay chi quy định Toa an. Viện kiếm sát buộc chữ thể dang lưu giữ phái cune cấp chúng cứ.tài liệu trong thời hạn L5 ngày mà Không mph day là thoy hạn tôi da phái thục |</small>

ˆ* Về van dé này có thể xem thêm bình luận của tác giả Tran Anh Tuan (chủ nhiềm dé tài) (2010), “Hoan

<small>thiện pháp luật Việt Nam về thủ tuc giải quyết vụ việc dan sự theo định hướng cai cách tue pháp”, Đề tai</small>

<small>nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Dai học Luật Hà Nội, tr. 42-43.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

dai. Cần nghiên cứu dé giản lược các thủ tục tố tụng dân sự không cần thiết, hạn chế

<small>các nguyên nhân dẫn tới việc lặp đi, lặp lại các quy trình tố tụng trong quá trình giải</small>

quyết vụ việc dân sự ”. Theo kết quả nghiên cứu thì các hành vi hướng tới việc giải

quyết vụ án của Tòa án can phải được tiến hành một cách khẩn trương nhằm kiểm

soát và hạn chế việc kéo dài thời hạn bao gồm hành vi nhận đơn khởi kiện và vào số

nhận don, phân công Tham phán nhận và xét đơn khởi kiện, phân công Tham phan giải quyết vụ án, thông báo thụ lý vụ án, hoàn tất hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ để hòa

giải, chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa (Viện kiểm sát, các Hội thẩm nhân dân hoặc các Thâm phán tham gia xét xử nghiên cứu hồ sơ) a Trong số các kết qua

nghiên cứu do nhóm thực hiện cũng có ý kiến cho rằng vấn đề chủ yếu không phải chỉ là việc quy định độ dài thời hạn cho một hoạt động tố tụng dân sự cụ thể nào đó là 3 ngày, 5 ngày hay đài hơn nữa là có thể giải quyết dứt điểm được tình trạng vụ

việc bị kéo dài quá thời hạn giải quyết.

2.1.4. Kinh nghiệm xây dựng quy định về thời hạn té tụng theo pháp luật

16 tụng dân sự một số nước trên thế giới

Kết quả nghiên cứu chuyên sâu các quy định về thời hạn tố tụng trong pháp

luật một số nước như Pháp, Đức, Anh, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan và so

sánh, đôi chiếu đã giúp nhà nghiên cứu có một góc nhìn đa chiều, từ đó có thé rút ra

bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, củng cô thêm cơ sở của việc dé xuất hoàn thiện

pháp luật về thời hạn tổ tụng”.

2.1.4.1. Thời hạn theo pháp luật to tụng dân sự Anh, Pháp, Đức, Nga

Kết quả nghiên cứu cho thấy chúng ta có thể tiếp thu một số điểm hợp lý

trong pháp luật tô tụng dân sự Pháp về thời hạn tố tụng như “Các bên đương sự

được tự do chấm dứt tố tụng trước khi hết thời hạn tố tụng theo quyết định của Tòa

án hoặc theo quy định của pháp luật” (Điều 1 BLTTDS Pháp). Nhà lập pháp của

<small>Pháp cũng đã xác định rõ nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện các hành vi</small>

trong thời hạn luật định. Cụ thé là Điều 2 Bộ luật tố tụng đân sự Pháp quy định:

<small>8 TS, Tran Anh Tuan, Chuyén dé 1: Mot so van dé lý luận về thời hạn và thủ tục 16 tung dân sự, tr. 1-16.</small>

<small>37 TS. Tran Anh Tuan, Chuyén đê 1: Một so van dé ly luận vẻ thời hạn va thủ tục tô tụng dan sự, tr. 1-16.“LS. Ths. Phạm Van Phat, Chuyên dé 11: Thời hạn giải quyết vụ việc dân sự từ thực tiễn hành nghề luật sư,</small>

<small>9 TS. Tran Anh Tuân, Chuyên dé 4: Thời han to tụng theo pháp luật tô tung dan sự một số nước trên thé</small>

<small>giới, tr. 52-69.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

“Các bên tiến hành tô tụng phải chịu các phí tổn và phải thực hiện các hành vi tố tụng theo đúng thủ tục và thời hạn quy định”. Điều 15 Bộ luật này cũng quy định về thời hạn trao đôi chứng cứ, tài liệu giữa các đương sự. theo đó “Cac bên đương sự phải thông báo cho nhau, trong một thời hạn hợp lý, những tỉnh tiết làm căn cứ cho những yêu cầu của mình, những chứng cứ đã xuất trình và căn cứ pháp luật đã viện dẫn, nhằm bảo đảm cho mỗi bên đương sự có thể tự tơ chức việc bảo vệ quyền lợi <small>của mình”.</small>

Ngồi ra, để kiểm soát thời hạn tố tụng, chống lại sự lạm quyên của các

đương sự, Bộ luật tố tụng dan sự Pháp quy định giải pháp và chế tài đối với những hành vi kéo đài tố tụng. Chăng hạn, Điều 32-1 quy định “Người nào lạm dụng

quyền kiện tụng hoặc tìm cách kéo dài thời hạn kiện tụng có thé bị phạt tiền tới 3000 €, không ké phan bồi thường thiệt hại, nếu có yêu cầu”. Điều 70 va 103 của

Bộ luật này cũng quy định về thẩm quyền của Thâm phán trong việc “tách riêng các yêu cau phản tổ để giải quyết riêng nếu yêu cầu nay có nguy cơ làm chậm trễ việc giải quyết chung về vụ việc” và quyền bác bỏ khiếu nại nếu “phản kháng chậm với dụng ý dé trì hỗn q trình tơ tụng”.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy theo tinh thần tại Điều 1 và Điều 3 Bộ luật

tố tụng dân sự Pháp thì thời hạn tố tụng có thé do luật định hoặc đo Tòa án quyết

định. Điều 3 Bộ luật này quy định: “Thâm phán phải bảo đảm cho quá trình tiến hành tố tụng được tiến hành theo đúng thủ tục quy định. Tham phán có quyên ấn định thời hạn và quyết định những biện pháp cần thiết”. Thẩm phán có thể 4n định thời hạn và quyết định chế tài đối với hành vi vi phạm thời hạn, cụ thể là: Thâm phán an dinh thoi han va, néu cần, thi ấn định cả thể thức trao đôi giấy tờ, tài liệu;

trường hợp vi phạm có thể bị phạt tiền để cưỡng chế (Điều 134) và Tham phán có

thê khơng xem xét những giấy tờ, tài liệu không được trao đổi trong thời gian thích

hợp (Điều 135).

Theo pháp luật Pháp, thời hạn tố tụng trước Tịa sơ thâm thẩm quyền hep,

tùy trường hợp có thé do luật định hoặc do Tòa án quyết định. Về thời han do luật

ấn định, để bảo đảm cho đương sự có thé thực hiện được quyền phịng vệ của mình, Điều 838 Bộ luật tố tụng dân sự Pháp quy định “Tòa sơ thâm thâm quyên hẹp thụ

ly, theo yêu cầu của bên nguyên hoặc bên bi qua việc nộp cho Phòng thu ký lục sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

một bản sao giấy tống đạt mời ra Tòa. Việc nộp bản sao giấy tống đạt mời ra Tòa

phải thực hiện chậm nhất là 8 ngày trước ngày mở phiên tịa. Giấy tống dat mời ra

Tịa phải giao ít nhất 15 ngày trước ngày mở phiên tòa”. Bên cạnh thời hạn luật định, nhà lập pháp cho phép Thâm phán có thể chủ động quyết định về thời hạn tùy theo tình trạng của vụ kiện. Theo đó, “Trong trường hợp khẩn cấp, thâm phán có thé cho phép rút ngắn thời hạn giấy tống đạt mời ra Tòa và thời hạn phải ra Tòa” (Điều 839) và “Nếu hịa giải khơng thành, việc kiện có thể được xử ngay hoặc để đến một phiên tòa sau nếu chưa thể xử được ngay. Trong trường hợp này, lục sự sẽ gửi thư báo ngày phiên tòa cho các bên, nếu họ chưa được báo miệng” (Điều 841). Ngoài ra, “Tham phán có thé yêu cầu các bên đương sự cung cấp những điều giải trình cần thiết cho việc giải quyết vụ kiện và cho một thời hạn để đương sự xuất trình mọi tài liệu hoặc bang chứng nhằm làm sáng tỏ sự viéc, nếu không, thầm phán có thể bỏ qua và vẫn xét xử, với mọi hệ quả của việc một bên đương sự tránh né hoặc từ chối cung cấp những tài liệu ấy” (Điều 844). Quyền của Tòa án trong việc chủ động quyết định về thời hạn tùy theo tình trạng của vụ kiện cũng được thể hiện tại Điều 858, Điều 861 đối với Tòa Thương mại; Điều 886 đối với Tòa án về thuê mướn đất đai và nông nghiệp; Điều 888 đối với Tòa án về thuê mướn đất đai và nông nghiệp.

Theo pháp luật Pháp và Việt Nam, các hành vi tố tụng luôn phải được thực <small>hiện trong những thời hạn xác định như thời hạn khởi kiện, thụ lý vụ kiện; thời hạn</small> trao đổi chứng cứ, thời hạn thâm cứu ; thời hạn mở phiên tòa và nghị án. Theo pháp

luật Việt Nam, nguyên đơn phải xuất trình chứng cứ, tài liệu ngay từ khi nộp đơn

<small>khởi kiện và trong vòng 3 ngày kế từ ngày Tịa án thụ lý vụ án, Tịa án phải thơng</small>

báo cho bị đơn về việc khởi kiện của nguyên đơn cũng như tài liệu, chứng cứ và bị

đơn phải có văn bản phản hồi về việc kiện trong thời hạn 15 ngày kế từ ngày nhận được thông báo của Tòa án””. Theo pháp luật Pháp, Thâm phán quyết định về thời hạn trao đổi chứng cứ, tài liệu nếu trước đó việc này đã khơng được các bên thực hiện ngay lập tức. Thâm phán cũng có quyền quyết định về thời hạn tố tụng căn cứ vào tính phức tạp của vụ án, xử sự của các bên. Ở Pháp tồn tại một cơ chế kết hợp giữa quyền của Tham phán và sự đồng thuận của các luật sư, các bên đương sự <small>*° Trần Anh Tuần, “Thu tuc xét xứ nhanh trong pháp luật Pháp và Việt Nam”, Luận án tiễn sỹ tại Đại học</small>

<small>Nice Sophia Antipolis — Cộng hòa Pháp, 2007, đoạn từ 287-289.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

trone việc xác định thời hạn thâm cứu hồ sơ và lịch mở phiên tòa. Cụ thê là theo quy định tại Điều 764 BLTTDS của Pháp thì trước Tòa sơ thâm thâm quyền rộng,

“Thâm phán phụ trách việc thâm cứu hồn tất hồ sơ có thể ấn định thời hạn cần

thiết cho việc thâm cứu tùy theo tính chất, sự cấp bách và tình hình phức tạp của vụ kiện và sau khi đã tham khảo ý kiến các luật sư. Tham phán này có thé gia hạn hồn

tất hồ sơ và cũng có thể quyết định hoãn vụ kiện đến phiên sau để thuận tiện cho

việc giải quyết tranh chấp”. Trong khi đó, theo pháp luật Việt Nam, thời hạn tố tụng được ấn định bởi nhà lập pháp tại Điều 179 BLTTDS, căn cứ vào tính chất của

tranh chấp là dân sự, hơn nhân gia đình hay kinh doanh thương mại, lao động". Như vậy, quyển chủ động trong việc kiểm soát thời hạn và ấn định các thời hạn tố tụng cụ thé của Tham phán theo pháp luật Việt Nam dường như han chế hơn so với pháp luật Pháp. Các quy định về thời hạn được ấn định cứng trong pháp luật và Thâm phán khơng có quyền gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử mà chỉ có thể báo cáo

Chánh án Tòa án quyết định. Việc nghiên cứu so sánh cũng chỉ ra rằng pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam khơng có sự phân biệt chu trình ngắn, chu trình dài như đối

với Tham phán thâm cứu hồ sơ trước Tòa sơ thấm thâm quyền rộng của Pháp.

Thâm phán được phân công giải quyết vụ án thực hiện các hành vi tố tụng (xác minh, thu thập chứng cứ; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; hòa giải và chuẩn bị mở phiên tòa) trong thời hạn được pháp luật ấn định chứ khơng có quyền tự do

quyết định về thời hạn tố tụng, các trường hợp gia hạn phải dựa trên các căn cứ được pháp luật quy định.

Cũng như pháp luật tố tụng dân sự Pháp, bên cạnh các thời hạn luật định

pháp luật tố tụng dân sự Đức cũng quy định về quyền ấn định thời hạn của Tòa án.

Bi đơn phải gửi văn bản biện hộ trong thời han nhất định sau khi nhận được triệu

tập của Tịa án. Trong suốt q trình tế tụng, Tịa án cũng có thé ấn định thời hạn <small>mà bị đơn phải nộp văn bản biện hộ. Văn bản biện hộ được đưa ra sau thời hạn quy</small> định chỉ được Tòa án chấp nhận nếu thấy rằng viec chap nhan khong lam cham viéc giải quyết vu tranh chấp hoặc đương sự có ly do chính đáng. Tuy nhiên, theo pháp

<small>?' Trần Anh Tuan, tdi liệu đã dẫn 2007, đoạn 468.</small>

<small>* Trân Anh Tuan, tài liệu đã dan 2007, đoạn 469.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

luật Đức thì đương sự có thể thỏa thuận về rút ngăn thời hạn và theo yêu câu của một bên, nếu xét thấy có lý do xác đáng thì Tịa án vẫn có thể rút ngắn thời hạn.

Ở Anh, bản nguyên tắc tố tụng dân sự của Anh được ban hành năm 1998 quy định tất cả các vụ việc phải được giải quyết theo thủ tục theo đó Tịa án quyết định các vụ việc một cách công băng. Bản nguyên tắc này đảm bảo các bên đương sự

đều có vị trí bình đăng như nhau: quy định việc giải quyết vụ việc phải phù hợp với giá trị của tranh chấp, tầm quan trọng của vụ việc, mức độ phức tạp của vấn đề và

tình trạng tài chính của từng bên đương sự; bảo đảm vụ việc được giải quyết nhanh

chóng và cơng bằng. Kết quả nghiên cứu cho thấy một vụ việc điển hình đo Tịa án

cấp cao giải quyết từ khi thụ lý đến khi đưa ra xét xử thường kéo dài từ 12 đến 18 tháng dường như cũng không phải là một thời hạn hợp lý. Tuy nhiên, quy định về chế tài đối với hành vi vi phạm quy định về thời hạn cũng là kinh nghiệm có thé tiếp thu. Chang hạn, Tịa án có thé áp dụng một số chế tài khác liên quan đến quản lý án. Ví dụ, trong trường hợp một bên đương sự được yêu cầu một tài liệu như báo cáo chuyên gia trong một thời hạn cụ thé nhưng đương su đó khơng thực hiện đúng,

Tịa án có thể ra quyết định khơng chấp nhận báo cáo chun gia đó. Tịa án cũng có thé áp dụng một số chế tài khác như chế tài phạt vì khơng tn thủ quyết định của Tịa án'”.

<small>Việc nghiên cứu cũng cho thấy pháp luật Nga có điểm tương đồng với pháp</small>

luật Pháp, Đức ở chỗ đều xác đỉnh 2 loại thời hạn tố tụng do luật định và do Tòa án

an định. Tuy nhiên, quyền tự do ấn định thời han của Tòa án trong pháp luật Nga dường như hạn chế hơn so với pháp luật Pháp và Đức (Tòa án chỉ được ấn định thời

<small>hạn trong trường hợp pháp luật khơng quy định và chi có quyền gia han với thời hạn</small>

do Tòa án ấn định)” đồng thời nhà lập pháp Nga đã có lưu ý về tính hợp lý của thời hạn tố tụng do Tịa án ấn định. Cụ thé là Khoản 1 Điều 107 Bộ luật tố tụng dân sự

Liên bang Nga về cách tính thời hạn quy định: “1. Hành vi tố tụng được thực hiện trong thời hạn tố tụng do luật liên bang quy định. Trong trường hợp luật liên bang

<small>“Ts. Tobias Oelsner, Thâm phán Tòa khu vực Berlin, Đức, Báo cáo Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế vềnguyên tắc tranh tụng trong 16 tụng dan sự, 2015, tr. 22.</small>

<small>“4 Theo Điều 111 Bộ luật to tụng đạn sự Liên bang Svat và hạn uy định: Ôn hạn do i</small>

<small>định co the duoc Toa an gia hạn”</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

không quy định thì thời hạn tố tụng do Tịa án ấn định. Thời hạn tơ tụng do Tịa án an định phải được dựa trên cơ sở hợp lý”.

Về việc kết thúc thời hạn tố tụng, Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang

Nga cũng có nhiều điểm tương đồng với pháp luật Pháp và Đức về cách xác định thời điểm kết thúc thời hạn và việc tính thêm một ngày đối với trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ, ngày lễ. Tuy nhiên, điểm khác biệt là pháp luật

Nga dã có sự phân biệt về thời điểm kết thúc của thời hạn trong trường hợp hành vi

tố tụng phải được thực hiện trực tiếp ở Tịa án hoặc có thé được thực hiện gián tiếp qua bưu điện. Cụ thể là Khoản 3 và 4 Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự Liên bang <small>Nga quy định:</small>

“3. Hành vi tố tụng có thé được thực hiện trước 24 giờ của ngày cudi cùng

của thời hạn. Trong trường hợp khiếu nại, tài liệu hoặc khoản tiền đã được gửi cho

bưu điện trước 24 giờ của ngày cuối cùng của thời hạn thì không được coi là quá

4. Trong trường hợp hành vi tố tụng phải được thực hiện trực tiếp tại Tòa án

hoặc ở tổ chức, thời hạn kết thúc vào giờ mà khi đó ở Tịa án hoặc ở tổ chức đó đã kết thúc ngày làm việc hoặc chấm dứt hoạt động theo đúng quy định”.

Điều 109 Bộ luật tố tụng đân sự Liên bang Nga đã có những quy định riêng có tính khái qt và khá cụ thể về hậu quả trong trường hợp hết thời hạn và việc

phục hồi thời hạn. BLTTDS của Việt Nam hiện hành khơng có quy định cụ thé về

van dé nay. Do vậy, đây là những kinh nghiệm rất cần được tiếp thu để hoàn thiện các quy định về thời hạn trong BLTTDS Việt Nam. Điều 109 Bộ luật tô tụng dân sự Liên bang Nga về hậu quả trong trường hợp hết thởi hạn quy định:

“1, Quyền thực hiện những hành vi tố tụng khơng cịn khi kết thúc thời hạn tố tụng do luật liên bang hoặc Tòa án quy định.

2. Khiếu nại và văn bản được gửi khi hết thời hạn khơng được Tịa án xem xét và được trả lại cho người gửi, nếu khơng có u cầu khôi phục thời hạn”.

2.1.4.1. Thời hạn theo pháp luật 16 tung dan su Nhat Ban, Trung Quoc, Dai

Về trách nhiệm của Toa án và các bên, Điều 2 Bộ luật tố tụng dân sự Nhat Bản quy định: Tòa án phải nỗ lực tiến hành thủ tục tố tụng đân sự nhanh chóng,

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

cơng bằng. Các bên phải tham gia tố tụng một cách chân thành và trung thực. Day

là quy định có tính ngun tắc tương tự như pháp luật tố tụng dân sự của Anh và Pháp về vai trò của Tòa án trong việc kiểm soát thời hạn tố tụng. Quy định về “Các bên phải tham gia tố tụng một cách chân thành và trung thực” là một quy định có

tính nhân văn về bơn phận của các đương sự có thé cân nhắc dé tiếp thu vì quy định này sẽ là cơ sở để áp dụng chế tài đối với những hành vi trì hỗn dẫn tới vi phạm hoặc kéo dài thời hạn tố tụng.

Điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản quy định khá cụ thể về chế tài trừng phạt với các trường hợp trì hỗn q trình tố tụng: Nếu q trình tố tung bị trì hỗn do một bên khơng đưa ra những yêu cầu và bào chữa cần thiết trong một khoảng

thời gian thích hợp hoặc khơng tn thủ pháp luật về mặt thời hạn, hoặc bởi bất kỳ

lý do nào mà bên đó chịu trách nhiệm thi Tịa án có thé u cầu bên đó thanh tốn một phần hoặc tồn bộ chi phí Tịa án phát sinh từ việc trì hỗn đó cho dù bên đó thăng kiện. Quy định này có điểm tương đồng với Điều 32-1 Bộ luật tố tụng dân sự

Pháp chế tài đối với những hành vi kéo dài tố tụng, tuy nhiên theo pháp luật Pháp

thì ngồi phần bồi thường thiệt hại, người lạm dụng quyền kiện tụng hoặc tìm cách kéo dài thời hạn kiện tụng cịn có thể bị phạt tiền.

- Về việc quyết định ngày và thay dổi ngày, Điều 93 Bộ luật tố tụng dân sự

Nhật Bản quy định: “Thâm phán chủ tọa phải quyết định các ngày theo yêu cau

hoặc theo thẩm quyền của Tòa án”. Về việc gia hạn hoặc thỏa thuận về thời hạn va thời hạn bé sung, pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản có nhiều điểm tương đồng với pháp luật tố tụng dân sự của Pháp và Đức. Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản quy định về quyền của Tòa án trong việc quyết định về thời hạn theo hướng “Tịa án có thể gia hạn hoặc rút ngắn thời hạn luật định hoặc thời hạn do Tòa án ấn định” và “Đối với thời hạn bat dịch, Tòa án có thé ấn định một thời hạn bé sung cho người sinh sống hoặc cư trú ở nơi xa”.

- Pháp luật tố tụng dân sự Nhật Ban đã căn cứ vào khoảng cách địa lý dé điều

chỉnh thời hạn. Cách làm này dường như đi theo triết lý về tính hợp lý của thời hạn

đã được nhà lập pháp của Pháp và nhà lập pháp của miền Nam Việt Nam trước đây

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

áp dụng Ê. Cụ thê là Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản đã phân biệt giữa thời

hạn đối với đương sự cư trú ở trong nước và nước ngoài:

“1, Trong trường hợp khi một bên không tuân thủ thời hạn bat địch bởi một

lý do không thuộc trách nhiệm của người đó, người đó có thể hồn tất hành vi tố

tụng sau đó, nhưng chi trong vịng một tuần sau khi ly do đó khơng cịn nữa. Quy

<small>định rang, trong trường hợp một bên cư trú ở nước ngoài, thời hạn sẽ là 2 thang”.</small>

- Về quyền quyết định thời hạn của Thâm phán, quy định tại Điều 162 Bộ

luật tố tụng dân sự Nhật Bản có nhiều điểm tương đồng với pháp luật tố tụng dân sự Pháp. Theo đó, Tham phan chủ tọa phiên tịa có thể xác định thời hạn cho việc đệ trình những văn bản trả lời hoặc những bản tóm tat đưa ra những tuyên bố về những

vấn đề cụ thể hoặc những chứng cứ liên quan đến những vấn đề cụ thẻ.

Việc nghiên cứu cũng cho thấy, tương tự như pháp luật tố tụng dân sự Pháp,

để kiểm soát thời hạn tố tụng, pháp luật tố tụng dân sự Nhật Bản đã có những quy định về áp dụng công nghệ thông tin trong tố tụng. Theo đó, Khoản 3 Điều 170 Bộ

luật tố tụng dan sự Nhật Bản quy định: Nếu một bên cư trú ở nơi xa hoặc nếu Tòa án xét thấy cần thiết thì Tịa án có thể xem xét ý kiến của các bên, và tiến hành thủ

tục tranh luận sơ khởi bằng phương tiện truyền thông mà Tịa án và các bên có thể cùng phát biểu băng VIỆC chuyển tải và nhận lời nói như quy định tại Quy định của

Tòa án tối cao. Quy định rằng, quy định này chỉ áp dụng khi một trong các bền có mặt tại Tịa án vào ngày đó. Theo nghiên cứu của chúng tôi, quy định này cần được

<small>tiếp thu trong pháp luật Việt Nam.</small>

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu về thời hạn đưa ra yêu cầu hoặc biện hộ, pháp luật Nhật Bản có nhiều điểm tương đồng với pháp luật Pháp, đặc biệt là vẫn đề Thâm phán quyết định thời hạn sau khi nghe ý kiến của các đương sự. Đây là kinh nghiệm có thể tham khảo để vận dụng cho việc xây dựng các quy định về thời hạn tố tụng dân sự ở Việt Nam. Điều 301 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản quy định theo

hướng “Khi nghe ý kiến của các bên, Tham phán chủ tọa có thể quyết định thời hạn

...”. Bên cạnh đó, Điều 303 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản cũng có quy định về

<small>chê tài đôi với việc lạm dụng quyên kháng cáo:</small>

<small>* GS. Nguyễn Huy Dau, Luật Dan sự tổ tung Việt Nam, Sài Gòn 1962, tr. 449.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

“Trong trường hợp kháng cáo Koso bị bác theo quy định tại Khoản | Điều

liền kề trên đây, Tòa án phúc thẩm có thé yêu cầu người khang cáo trả tiền với một

khoản tiền ït hơn mười lần so với lệ phí nộp kháng cáo Koso nếu Tịa án thấy người

<small>nộp kháng cáo Koso chỉ với ý định làm chậm trễ việc kết thúc vụ kiện”. Kết quả</small>

nghiên cứu cũng cho thấy thời hạn tái thâm theo quy định tại Điều 342 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản dường như là khá ngắn so với pháp luật Việt Nam:

“1. Một vụ kiện tái thâm phải được bắt đầu trong một thời hạn bắt buộc là 30 ngày từ ngày mà một bên biết được lý đo tái thâm sau khi bản án trở thành chung

2. Nếu đã hết 5 năm tính từ ngày bản án trở thành chung thẩm (trong trường hợp lý do tái thấm dién ra sau khi bản án trở thành chung thâm. là ngày mà lý do đó xảy ra), khơng được nộp đơn kháng cáo tái thâm”.

Van đề thời hạn tố tụng cũng đã được quy định trong pháp luật tố tung dan sự Trung Quốc. Theo quy định tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Quốc thi “Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án dân sự phải tiến hành hòa giải theo nguyên

tắc tự nguyện và hợp pháp, trường hợp khơng hịa giải được thì phải kip thời xét

xử". Quy định này có những điểm tương đồng với pháp luật của Anh, Pháp và Nhật

Bản. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Tổ tụng dân sự Trung Quốc thì

“Thời hạn bao gồm thời hạn theo luật định và thời hạn theo quy định của Tòa án. Thời hạn được tính bằng gid, ngày, tháng, năm. Giờ và ngày của việc bắt đầu của thời hạn khơng tính trong thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày lễ hoặc

<small>ngày nghỉ thì lay ngày đầu tiên sau ngày lễ và ngày nghỉ đó làm ngày cuối cùng của</small>

thời hạn”. Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Quốc, cũng có những quy định linh hoạt về thời hạn tố tụng: “Do những lý do bất khả kháng hoặc những lý đo chính đáng của đương sự mà ảnh hưởng đến thời hạn thì trong vịng 10 ngày sau khi

<small>đã xóa bỏ được trở ngại, có thể xin kéo dài thêm thời hạn, cho phép kéo dài hay</small>

khơng đo Tịa án nhân đân quyết định. Điều 112 Bộ luật Tố tụng đân sự Trung

Quốc ấn định thời hạn khá ngắn cho việc thụ lý vụ kiện: Tòa án khi nhận được đơn khởi tố hoặc khởi t6 bằng miệng, qua thâm tra thấy phù hợp với điều kiện khởi tó,

phải lập án trong vịng 7 ngày đồng thời thông báo cho các đương sự, nếu thấy khơng phù hợp điều kiện khởi tố thì trong vịng 7 ngày phải tài định khơng thụ lý:

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

trường hợp nguyên đơn không chấp nhận tài định đó thì có thể kháng cáo. Về vấn

dé này theo pháp luật Việt Nam thì nếu Tịa án trả lại đơn khởi kiện thì đương sự có thé thực hiện quyển khiếu nại lên Chánh án Tòa án đã ra quyết định và Chánh án

Tòa án cấp trên. Riêng đối trường hop thoi hiệu khởi kiện đã hết thì phải từ 4 đến 6

tháng sau Tịa án Việt Nam mới ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Điều 135 Bộ luật tố tụng đân sự Trung Quốc có quy định về thời hạn giải quyết vụ án ở cấp sơ thâm: Những vụ án mà Tòa án nhân đân áp đụng trình tự thơng thường cần phải xử xong trong vòng 6 tháng, kê từ ngày lập án. Trường hợp có tình huống đặc biệt cần kéo dài phải được Chánh án của Tịa án mình phê chuẩn và có thể kéo dài 6 tháng, trường hợp cần kéo dài thêm, phải báo cáo lên Tòa án nhân dân

cấp trên phê chuẩn. Theo quy định tại Điều 142 và 146 Bộ luật Tố tụng dân sự

Trung Quốc, những vụ án dân sự đơn giản, sự việc rõ ràng, mối quan hệ về quyền

lợi, nghĩa vụ đã rõ ràng, tranh chấp không gay gắt được giải quyết theo trình tự đơn giản thì cần phải kết thúc vụ án trong vòng 3 tháng kể từ ngày cho lập án.

Theo quy định tại Điều 113 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Quốc thì “Khi bị <small>đơn nộp bản tự bào chữa (biện hộ), Tòa án nhân dân phải gửi bản sao của bản tự</small>

bào chữa (biện hộ) cho nguyên đơn trong vòng 5 ngày kể từ ngày nhận bản tự bào

chữa (biện hộ)”. Quy định này bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân nên cần nghiên cứu tiếp thu để hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Quy định tại Điều 150

Bộ luật Tố tụng đân sự Trung Quốc cũng đi theo triết lý này: “Tòa án nhân đân đã

xét xử sơ thâm khi nhận được đơn chống án phải tống đạt ban sao cho các đương sự

đối phương trong vòng 5 ngày, các đương sự đối phương phải đưa ra bản đối đáp

trong vòng 15 ngày ké từ ngày nhận bản sao. Tòa án nhân dân phải tống đạt ban đối

đáp cho người chống án trong vòng 5 ngày kể từ khi nhận được bản đối đáp.

Trường hợp đương sự đối phương không nộp bản đối đáp, khơng ảnh hưởng gì đến

việc xét xử của Tòa án nhân dân”. Việc nghiên cứu cho thấy pháp luật tố tụng dân

sự Việt Nam hồn tồn khơng có quy định về các thời hạn tương tự ở cấp phúc thấm. Do vậy, kinh nghiệm này của Trung Quốc có giá trị tham khảo cho việc bảo đảm quyền tiếp cận cơng lý khi hồn thiện các quy định về thời hạn phúc thâm ở

<small>Việt Nam.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

- Về quyền hạn của Tòa án nhân dân phúc thẩm, Khoản 4 Điều 150 Bộ luật

Tố tụng dân sự Trung Quốc quy định: Trường hợp bản án sơ thâm đã vi phạm trình

tự của luật có thể ảnh hưởng đến việc xét xử đúng đắn của vụ án thì quyết định xóa

ban án cũ, trả lại cho Tịa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm để xử lại. Đây là điểm mà

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có thé tiếp thu để giảm bớt các quy trình tố tụng

lặp đi lặp lại một cách khơng cần thiết, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

- Việc nghiên cứu so sánh cũng cho thấy Điều 163 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Quốc có quy định về thời hạn giải quyết theo trình tự đặc biệt, theo đó “Những vụ án Tịa án nhân dân áp dụng trình tự đặc biệt để xét xử, cần kết thúc vụ án trong vòng 30 ngày kể từ ngày lập án hoặc trong vòng 30 ngày kế từ sau ngày

hết hạn niêm yết thông báo. Trường hợp đặc biệt cần kéo dài phải được Chánh án

của Tòa án mình phê chuẩn, nhưng trừ trường hợp xét xử vụ án về tư cách cử tri ra”. Kinh nghiệm lập pháp nay của Trung Quốc có giá trị tham khảo cho việc bổ sung các quy định tương tự về thời hạn giải quyết việc dân sự trong pháp luật Việt <small>Nam.</small>

- Về thủ tục giám đốc thâm, tái thẩm, Điều 182 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung

Quốc quy định: Đương sự yêu cầu tái thâm phải đưa ra yêu cầu nội trong 2 năm sau khi bản án, tài định có hiệu lực pháp luật. Thời hạn này ngắn hơn thời hạn 5 năm

trong quy định tại Điều 342 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản. Tuy nhiên, pháp luật

Nhật Bản lại đi theo hướng rút ngắn thời hạn nếu đương sự đã biết được lý do tái

thâm “Mộ! vụ kiện tái thẩm phải được bắt dau trong một thời hạn bắt buộc là 30

ngày từ ngày mà một bên biết được lý do tái thẩm sau khi bản án trở thành chung

thẩm”. Pháp luật tố tụng dan sự Dai Loan cũng quy định theo hướng này.

- Điều 247 Bộ luật Tố tụng dân sự Trung Quốc đã có quy định riêng về thời hạn đối với vụ án liên quan đến nước ngồi. Theo đó, “Trường hợp pháp luật của

nước sở tại của người nhận tống đạt cho phép tống đạt qua bưu điện thì có thể tống

đạt bằng gửi bưu điện. Trong trường hợp này, kế từ ngày gửi bưu điện đã mãn hạn 6

tháng mà giấy biên nhận tống đạt không được trả lại, nhưng căn cứ vào tình hình cụ

thể có thể nhận định rằng đã tống đạt được thì ngày mãn hạn coi như đã tống đạt”

(Khoản 6) và “Trường hợp khơng tống đạt được băng các hình thức trên đây mà tống đạt bằng thơng cáo thì ké từ ngày niêm yết thông cáo cho đến ngày mãn hạn 6

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

tháng được coi như đã tống đạt” (Khoản 7). Tương tự như vậy, Điều 249 Bộ luật Tổ tụng dân sự Trung Quốc quy định về một thời han đài hơn dé thực hiện quyên kháng cáo (30 ngày) đối với trường hợp đương sự kháng cáo khơng có nơi cư trú trên lãnh tho của Trung Quốc và một thời han 30 ngày kể từ ngày nhận được bản sao đơn chống án dé người bị chống án đưa ra bản phúc đáp.

Việc nghiên cứu cho thấy, pháp luật tố tụng dan sự Dai Loan cũng có những

quy định tương tự về chế tài đối với vi phạm thời hạn như quy định tại Điều 63 Bộ

luật tố tụng dân sự Nhật Bản. Theo quy định tại Chương II Mục 1 Phan I của Bộ

<small>luật tố tụng dân sự Đài Loan thì “Nếu một bên làm trì hỗn việc giải quyết vụ án ma</small>

<small>khơng có lý do chính đáng thì bên đó phải chịu chi phí phát sinh từ việc trì hỗn đó</small> mặc dù có thể thăng kiện”.

Pháp luật tố tụng dân sự Đài Loan cũng có những quy định về quyền chủ

động ấn định thời hạn tố tụng của Tòa án như pháp luật tố tụng dân sự của Pháp,

Đức, Nga và Nhật Bản. Chương II Mục 3 Phần I của Bộ luật tố tụng dân sự Đài Loan quy định: Mục này quy định việc Tham phán chủ tọa có quyền quyết định

những ngày tiến hành tố tụng và việc thay đỗi, trì hỗn những ngày đó. Thời hạn tố tụng khác với thời hạn mà pháp luật quy định được ấn định bởi Tham phán chủ tọa,

<small>căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.</small>

Tương tự như quy định tại Điều 342 Bộ luật tố tụng dân sự Nhật Bản, Phần V của Bộ luật tố tụng đân sự Đài Loan về thủ tục tái thẩm quy định: Thời hiệu yêu

cầu xét xử lại vụ án là 30 ngày kê từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc từ khi

đương sự biết về ly do, căn cứ dé xem xét lại vụ án nhưng không quá 5 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc ké từ ngày phát sinh lý do, căn cứ xem xét

<small>lại vụ án.</small>

BLTTDS Dai Loan cũng có những quy dinh về thẩm quyền cua Tịa án trong

việc ra lệnh thanh tốn nợ. Đương sự có thể làm đơn u cầu Tịa án buộc con nợ

phải tra nợ trong đó néu rõ khoản nợ, bằng chứng của việc kiện, các chứng từ... Tòa

án, sau khi xem xét đơn yêu cầu nếu thấy có đầy đủ cơ sở chấp nhận thì ra lệnh buộc bên có nghĩa vụ phải trả tiền hoặc chuyền tiền cho chủ nợ mà không phải

thông qua thủ tục tố tụng nào khác. Trong thời hạn 20 ngày, ké từ ngày bên có

nghĩa vụ nhận được lệnh buộc trả tiền mà khơng phản đối thì lệnh đó có hiệu lực

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

như một bản án có hiệu lực pháp luật. Ở Việt Nam, trong thực tiễn xét xử đã xuất

hiện những trường hợp nguyên đơn kiện đòi nợ có đầy đủ chứng từ vay nợ, có chữ ký của người vay, nhưng Tòa án vẫn phải áp dụng thủ tục thông thường để giải

quyết dẫn tới việc giải quyết vụ án bị kéo dài”

2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về thời hạn tố tụng dân sự

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu “Một số vấn dé lý luận vê thời hạn tố tụng dân sv’, nhóm nghiên cứu đã tiễn hành phân tích và đối chiếu quy định hiện hành với những tiêu chuẩn lý luận này nhằm làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam về thời hạn tổ tụng dân sự. Kết quả nghiên cứu từ các chuyên dé và Báo cáo khảo sát đã phản ánh được thực trạng các quy định về thời hạn tố tụng, đặc biệt là những hạn

chế, khiếm khuyết về thời hạn trong pháp luật Việt Nam là căn nguyên dẫn tới hạn

chế hiệu quả của hoạt động tố tụng, gây kéo dài thời gian giải quyết vụ việc, làm tổn hai tới quyên tiếp cận công lý của công dân. Nội dung phan thực trạng của Báo cáo

này được trình bày theo mạch logic: Thực trạng quy định về thời hạn trong thủ tục

tố tụng thông thường (2.2.1) và Thực trạng quy định về thời hạn trong một số thủ <small>tục đặc biệt (2.2.2).</small>

2.2.1. Thực trạng các quy định về thời hạn t6 tung trong thủ tục thông

- Thực trạng quy định về thời hạn tỐ tụng trong pháp luật Việt Nam từ tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát:

Từ tổng hợp kết quả khảo sát ý kiến của các luật sư, người bảo vệ quyên lợi

của đương sự, các cán bộ làm công tác xét xử tại một số Tòa án trong địa bàn Hà

Nội và một số tỉnh như Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hịa Bình, Lào Cai, Yên Bái.v.v...về

thời hạn tố tụng nhóm nghiên cứu rút ra một số kết luận sau đây:

- Theo kết quả khảo sát về tính nhanh chóng và hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp trên thực tế, đa số luật sư, người bảo vệ quyên lợi của đương sự (81/100) được hỏi đều cho rằng pháp luật Việt nam hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng và hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp trên thực tế; chỉ có số ít (19/100) cho rằng quy định của pháp luật hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu về

<small>“6 Xem thêm TS. Tran Anh Tuan và Luật sư Trương Quang Dũng - Công ty Luật Audier và cộng sự, Chuyên</small>

<small>đề 4, “Thu tục tô tụng dân sự rút gọn theo pháp luật một sô nước trên thé giới và việc xảy dựng thu tục to</small>

<small>tụng dan sự rut gọn o Việt Nam”, tr. 175, 176, Dé tài khoa học cấp Bộ 2014, “Van dé xây dựng thủ tục tô</small>

</div>

×