Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.81 KB, 23 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>BỘ CÔNG THƯƠNG</b>
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINHKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>PHẬT GIÁO , SỬ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI XÃ HỘI VÀ CONNGƯỜI VIỆT NAM</b>
<b>A. MỞ ĐẦU</b>
1. Lý do chọn đề tài:
Thế kỷ 21 là một kỷ nguyên đột phá của xã hội loài người. Con người đã có những bước tiến dài trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đặc biệt phát triển với tốc độ vũ bão, đủ sức chứng mình giải thích phần lớn các hiện tượng của đời sống xã hội loài người, biến những ước mơ của con người thành hiện thực... Việt Nam chúng ta, là một nước đang phát triển, nhưng cũng đã tiếp thu, áp dụng triệt để những thành tựu của khoa học kỹ thuật sâu rộng vào cuộc sống. Hòa cùng với sự phát triển đó, sự phát triển của tơn giáo mà đặc biệt là Phật Giáo cũng không ngừng phát triển và thịnh hành trong một thời gian dài gắn liền cùng thăng trầm suốt lịch sử của xã hội Việt Nam. Tại sao xã hội Việt Nam ngày cũng tiến bộ, Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, có thể biển những sự việc khơng thể thành có thể thì Phật Giáo cũng căng phát triển Tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của nó đến xã hội và con người Việt Nam như thể nào? Đô là lý do chọn đề tài “PHẬT GIÁO, SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM".
<b>B. NỘI DUNG</b>
<b>CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHẬT GIÁO</b>
1.1. Nguồn gốc ra đời
- Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay buddha). Đạo phật chính là giáo lý mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia trong khu vực á - Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá của mình, đạo Phật đã kết hợp với tin ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất nhiều tơng phải và học phải, có tác động võ cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá của rất nhiều quốc gia.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">-Sự ra đời đạo Phật còn gắn liền với tên tuổi người sáng lập là thái tử Cồ đàm Tất Đạt Đa sinh năm 563 TCN, con vua Tĩnh Phạm nước Ca tỳ la vệ ở chân núi Hymalaya – miền đất bao gồm một phần miền Nam được Nepal và một phần của Ấn Độ ngày nay.
-Ngay từ nhỏ, Thái tử Tất Đạt Đa đã được sống trong nhung lụa, không tiếp xúc với xã hội bên ngồi, khơng hề biết rằng trong cuộc đời lại có những đói khát, bệnh tật, già yếu và chết chóc.
-Năm 17 tuổi, Thái tử cưới vợ là công chúa Da giu đà la sinh ra một con trai là La ầu la. Từ đó thái tử mới được tiếp xúc với hiện thực cuộc sống ngồi chốn cung đình. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ với những cảnh già yếu, bệnh tật, chết chóc,…đã tác động mạnh đến tâm hồn nhạy cảm của Ngài.
-Năm 29 tuổi, Ngài quyết định rời bỏ ngôi cao quyền lực, rời bỏ cuộc sống nhung lụa xa hoa để dấn thân vào con đường tu hành khổ hạnh, mong tìm được sự giải thốt cho chúng sinh.
-Sau 6 năm tu hạnh ở núi Tuyết Sơn mà không đạt được sự yên tĩnh trong tâm hồn và cũng không nhận thức được chân lý, Ngài nghiệm ra là cả cuộc sống tràn đầy vật chất, thỏa mãn dục vọng, lẫn cuộc sống khổ hạnh đều không giúp tìm con đường giải thốt, chỉ có con đường trung đạo là đúng đắn nhất. Do đó, Ngài tự mình đào sâu suy nghĩ để nhận thức chân lý và bỏ lối tu khỏ hạnh, đi sâu vào tư duy trí tuệ.
-Sau 49 ngày thiền định dưới gốc bồ đề tại làng Uruvela, chìm đắm trong tư duy sâu thẳm, Ngài tuyên bố đã đến được với chân lý, hiểu được bản chất của tồn tại, nguồn gốc của khổ đau và con đường cứu vớt. Ngài tự xưng là Phật – có nghĩa là giác ngộ. Người đời gọi Ngài là Thích ca Mâu ni - bậc thánh của dịng họ Thích ca.
1.2. Nội dung chủ yếu của phật giáo
Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo lý của Phật giáo là một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh tạng (ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng (các bài kinh, tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau này).
Phật giáo đưa ra tư tưởng “vô ngã”, “vô thường”
- Vô ngã: Tất cả sự vật, hiện tượng cũng như chính bản thân ta là khơng có thực. Thế giới (nhất là thế giới hữu hình - con người) là do sự hợp lại của các yếu tố vật chất (Sắc) và tinh thần. (Danh ). Đó là 5 yếu tố (ngũ uẩn )
+ Sắc (vật chất )
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">+ Thụ (cảm giác) + Tưởng (ấn tượng )
+ Hành (Tư duy nói chung ) + Thức (ý thức )
Nhưng Danh và Sắc chỉ tụ hội trong thời gian ngắn rồi chuyển sang trạng thái khác, do vậy “ khơng có cái tơi” (vơ ngã - natman).
- Vô thường: Bản chất sự tồn tại của thế giới là một dịng biến chuyển khơng ngừng (vơ thường). Khơng thể tìm ra ngun nhân đầu tiên, do vậy khơng có ai tạo ra thế giới và cũng khơng có gì vĩnh hằng. Sự biến hiện của thế giới theo chu trình: sinh - trụ - dị - diệt theo luật nhân quả.
- Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của Upanisa là bộ phận kinh Veda của đạo Bà la mơn phần nói về tri thức. Theo Phật giáo, sự vật mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác. Q trình thác sinh ln hồi đó do nghiệp chi phối theo nhân quả.
- Theo quan niệm của đạo Phật, để đến được sự giải thoát, mọi người phải nhận thức Bốn chân lý thiêng liêng tuyệt diệu (Tứ diệu đế). Đó là:
+ Khổ đế:
Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Cái khổ ấy khơng ngồi 8 nỗi khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly (yêu mà phải xa), oán tăng hội (ghét mà phải ở gần), sở cầu bất đắc (muốn mà không được), thủ ngũ uẩn (khổ vì có sự tồn tại của thân xác).
+ Tập đế (Nhân đế)
Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo đưa ra “Thập nhị nhân duyên” để chỉ ra ngun nhân của sự khổ. Đó là: vơ minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
+ Diệt đế: Phật giáo khẳng định có thể tiêu diệt nỗi khổ và chấm dứt luân hồi.
+ Đạo đế: Con đường giải thoát, diệt khổ thực chất là tiêu diệt vô minh (sự tăm tối, không sáng suốt), gồm 8 con đường (Bát chính đạo). Đó là:
Chính kiến : hiểu biết đúng. Chính tư duy: suy nghĩ đúng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Chính ngữ: giữ lời nói chân chính.
Chính nghiệp : Nghiệp có hai loại là tà nghiệp và chính nghiệp. Tà nghiệp phải sửa, chính nghiệp phải giữ. Nghiệp có thân nghiệp (do hành động gây ra), khẩu nghiệp, ý nghiệp. Chính mệnh: tiết chế dục vọng, giữ điều răn.
Chính tinh tiến: hăng hái truyền bá chân lý của Phật. Chính niệm: hằng nhớ Phật, niệm Phật.
Chính định: tĩnh tâm, tập trung tư tưởng nghĩ về Tứ diệu đế, vơ ngã, vơ thường…
Theo Bát chính đạo, con người có thể diệt trừ vơ minh, giải thốt, nhập vào cõi niết bàn -Nirvana. Niết Bàn là trạng thái yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử, luân hồi. Như vậy Phật giáo có tư tưởng biện chứng, mang tính duy tâm chủ quan.
Chú ý: Bát chính đạo cịn gọi là Tam học: Tuệ (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ), Giới (chính nghiệp, chính mệnh), Định (chính tinh tiến, chính niệm, chính định)
- Đặc điểm của Phật giáo là không đề cập vị thần sáng tạo thế giới và con người. Đây là nét độc đáo trong thế giới quan Phật giáo. Về nhân sinh quan, Phật giáo đề cao vai trò của con người trong cuộc sốnh hiện thực.
Kinh luật tạng trình bày những phép tắc, giới luật. Về cơ bản, đạo Phật có hai giới luật quan trọng là ngũ giới và thập thiện, quy định những điều mà những người theo đạo phải tuân theo
- Ngũ giới :
+ Giới sát (không sát sinh). + Giới đạo (không trộm cắp). + Giới dâm (không tà dâm).
+ Giới vọng ngữ (khơng được nói điều sai trái). + Giới tửu (không uống rượu).
- Thập thiện :
+ Về thân: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
+ Về khẩu: khơng nói dối, khơng nói hai chiều, khơng ác khẩu, không thêu dệt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">+ Về ý: Không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
- Ngồi những quy định trên, người tu hành cịn phải thực hiện một số điều cấm khác. Các vị sư từ Đại đức trở lên phải theo giới luật nghiêm hơn:
+ Hàng Tỳ kheo : nam 250 giới, Tì kheo nữ 348 giới.
+ Hàng Sa di: phải thực hiện 10 giới: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, khơng nói điều sai, khơng uống rượu, khơng trang điểm, không nằm giường nệm, không xem ca hát, không giữ vàng bạc, không ăn quá giờ quy định).
Tổ chức của đạo Phật:
- Tổ chức Phật giáo không chặt chẽ. Phật giáo khơng có giáo quyền, khơng thống nhất cách tu hành, có nhiều tơng phái và sơn mơn.
- Người theo đạo Phật được chia làm hai loại:
+ Người tu hành: phải thốt ly gia đình và các sinh hoạt xã hội, đi tu ở chùa theo quy định. Nam tu sĩ gọi là Tăng, nữ tu sĩ gọi là Ni.
+ Người tu tại gia: thờ Phật, lễ Phật tại nhà và tuân theo Ngũ giới và Thập thiện. - Về hệ thống chức sắc và các nhà tu hành:
+ Đối với Tăng:
* Hịa thượng : có 40 năm tu, 60 năm tuổi đời và từ Thượng tọa được tấn phong lên. * Thượng tọa: có 30 năm tu, 50 năm tuổi đời và từ Đại đức được tấn phong lên. * Đại đức: là hàng Tỳ kheo, được thọ giới sau khi xuất gia khoảng 10 năm trở lên. * Sa di: được thọ giới từ Tiểu lên.
* Tiểu: người xuất gia tu hành. + Đối với Ni:
Gồm có Ni trưởng, Ni sư, Ni cô, Sadini, Tiểu cũng phải thọ giới và tấn phong như bên Tăng.
- Phật giáo gồm hai phái là Đại thừa, Tiểu thừa. Từ hai phái đó mỗi phái lại chia thành nhiều tơng nên hay gọi là “tông phái”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">+ Đại thừa (cỗ xe lớn ): phái này cho rằng con người có thể giác ngộ bằng tự lực và bằng tha lực tức bằng sự dẫn dắt của người khác, đặc biệt là của các vị Bồ Tát. Do đó phải “tự giác giác tha, tự độ độ tha” tức mình đã giác ngộ thì phải giác ngộ người khác. Ở Việt Nam phái Đại thừa cịn gọi là Bắc tơng.
+ Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): Mỗi người phải lo tu thân, giác ngộ chỉ bằng tự lực. Ở Việt Nam phái Tiểu thừa cịn gọi là Nam tơng.
<b>Chương II: Thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Giáo</b>
2.1 Thế giới quan
<small>2.1.1. Khái quát về thế giới quan của Phật pháp</small>
Nói đến vũ trụ quan là nói đến cách nhìn của chúng ta về sự cấu thành và hủy hoại của vũ trụ, cũng tức là nói đến sự hiểu biết của nhân loại về hiện tượng giới.
Như chúng ta đã biết, thế giới quan là một khái niệm triết học, tức là cá nhân đối với thế giới, cho đến cách nhìn rất căn bản về vũ trụ, từ năng lực tư duy của nhân loại hiện khởi, chứ không phải dừng lại ở sự nghiên cứu hay suy xét đối với một vấn đề nào đó. Như vậy, Phật giáo có cách nhìn ra sao về vấn đề trên?
Lúc cịn tại thế, suốt bốn mươi chín năm thuyết giảng, khai mở hơn ba trăm pháp hội, đức Phật luôn luôn lấy hai phạm trù : phá ngã chấp[1] và phá pháp chấp[2] làm ý nghĩa trọn vẹn cho giáo pháp của mình. Ngã chấp chính là cái “ta” mang tính chủ quan, và pháp chấp chính là vũ trụ vạn hữu mang tính khách quan. Nói chung, nội dung của phật pháp khơng ngồi việc giải thích rõ thực tướng của nhân sinh tức “ngã” (cái ta) và vũ trụ tức là hoàn cảnh nơi mà chúng ta nương ghá để sinh tồn. Phật pháp cho rằng nếu nhận thức được chân tướng của “ngã” và “pháp”, thì chúng ta khơng bị tự ngã và hồn cảnh khách quan gây bức bách. Nghĩa là chúng ta hân hoan chuyển mê khai ngộ, từ đó lìa khổ được vui và đạt đến giải thoát vĩnh cửu.
Do vậy, thực chất “pháp” được đức Phật thuyết giảng chính là nguyên tắc tự nhiên của vũ trụ, là bản hữu của vũ trụ, chứ không phải mơ hồ như một số tôn giáo khác nói “pháp là do thần linh sáng tạo ra”. Đức Phật luôn huấn thị: “pháp vốn như vậy”, nghĩa là vạn hữu vũ trụ xưa nay đều hiện tồn theo nguyên tắc tự nhiên và được đức Thích Ca Mâu Ni khám phá nhờ vào trí tuệ vơ thượng của Ngài. Đức Phật phát hiện sự bí áo của nhân sinh và vũ trụ để rồi tự tại an nhiên giải thoát trở thành bậc Giác Ngộ. Tuy nhiên, đức Phật khơng hề lấy đó làm niềm hạnh phúc tuyệt đối cho chỉ riêng bản thân mình, ngược lại, Ngài vơ cùng hoan hỷ đem sự bí áo ấy thuyết giảng cho chúng sanh khiến họ nương vào giáo pháp thâm diệu để học tập tu hành, đồng thời thấu triệt huyền cơ bí yếu và trở thành
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">người giác ngộ như Ngài. Trong lịch sử nhân loại, chúng ta có thể nói rằng chưa có vị giáo chủ nào vĩ đại như thế, và điều ấy đã trở thành bản ý trong sự nghiệp thuyết pháp độ sanh của đức Phật.
Nói đến nhân sinh và vũ trụ, thực sự đây là một vấn đề hết sức nan giải khiến chúng ta khó mà nắm bắt hết được. Ví dụ vấn đề được đặt ra: Vũ trụ do đâu sanh khởi? Nó nương vào đâu để hình thành? Thời gian tồn tại của nó là bao lâu? Phạm vi hay không gian chiếm hữu của nó rộng bao nhiêu? Với mn hình vạn trạng hết sức phức tạp của nó rốt cuộc liệu có hay khơng có quy luật? Hoặc nó có một chủ tể? Hơn nữa, vũ trụ nhân sinh do đâu mà có? Đến đi về đâu? Giá trị của sinh mạng nằm ở chỗ nào? Ý nghĩa của nó tồn tại ở đâu? Những vấn đề này, từ xưa đến nay, rất nhiều các nhà tư tưởng, các triết gia, các nhà khoa học đã hơn một lần tìm tịi nghiên cứu, nhưng thực chất không ai đưa ra lời giải đáp hồn tồn thích đáng.
Vũ trụ này, theo Phật giáo, đó chính là thế giới. Duy Nam Tử nói: “bốn phương trên dưới là Vũ; xưa, nay và mai sau là Trụ”. Kinh Phật nói: “quá khứ, hiện tại và tương lai là Thế; Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới là Giới”. Như vậy, cả hai quan điểm này đều nói đến sự hợp xướng của thời gian và khơng gian vơ lượng. Do đó, thế giới quan của phật giáo cũng chính là vũ trụ quan mà chúng ta thường gọi.
Nói đến vũ trụ quan là nói đến cách nhìn của chúng ta về sự cấu thành và hủy hoại của vũ trụ, cũng tức là nói đến sự hiểu biết của nhân loại về hiện tượng giới. Từ xưa đến nay, các học giả phương Đông cũng như phương Tây đã đưa ra nhiều quan điểm lý luận cho vấn đề này dưới nhiều phạm thức như duy tâm, duy vật.., và hiện tại chỉ lược nêu ra một số luận điểm của các trường phái như sau.
<small>2.1.2. Duy Vật Luận</small>
Vũ trụ quan của duy vật luận khẳng định vũ trụ chỉ là hình thái tồn tại của vật chất. Nếu loại trừ vật chất, thì khơng có thế giới. Do vậy, trường phái này đi đến quyết định rằng con người cũng do vật chất tạo ra. Các học giả của duy vật luận nói nếu con người khơng có buồng tim hay võ não, thì khơng thể suy nghỉ. Do đó, họ cho rằng tư tưởng đều nương vào vật chất để tồn tại; con người sau khi chết, nhục thân sẽ biến mất và tinh thần theo đó cũng tiêu vong. Họ khơng thừa nhận có một tinh thần tồn tại trong vũ trụ. Trường phái này khẳng định bất cứ một hoạt động nào của vũ trụ, đều là hoạt động của vật chất. Các phạm trù như không gian, thời gian, trật tự vv cũng đều trực thuộc đặc tính của vật lý, chứ con người không thể căn cứ vào hư không để sáng tạo ra quy luật vật lý. Do đó, ngun lý của thế giới tự nhiên khơng lệ thuộc vào con người để tồn tại mà nó tồn tại độc lập. Họ vẫn công nhận rằng con người có tâm linh, nhưng tâm linh đều do vật chất tạo ra. Nói chung, Duy vật luận đã chứng minh rõ mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần qua ba
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">luận cứ: tinh thần là thuộc tính của vật chất, tinh thần là sản phẩm của vật chất, tinh thần là một phần của vật chất. Thuyết duy vật luôn chú trọng vào yếu tố vật chất để hình thành nên thế giới hiện tượng cũng như nội tại nhằm lý giải sự xuất hiện của vũ trụ trong phạm trù duy vật biện chứng. Họ cho rằng xã hội là do con người quyết định và con người đều bắt nguồn từ vật chất, sau đó mới nảy sinh tinh thần để suy nghỉ hay định liệu. Trên cơ sở này, họ chối bỏ khởi nguyên của tinh thần và đặt tinh thần vào bậc thứ yếu. Trong khi đó, mọi hiện tượng cũng được đúc khuôn theo một hệ thức không thay đổi “vật chất có trước, tinh thần có sau”. Do vậy, họ khẳng định tinh thần là sản phẩm của vật chất và đã phá những luận điểm của các tơn giáo có mặt trong thế giới này. Thế giới, theo họ, là sự đúc kết của một khối vật chất tạo nên.
<small>2.1.3. Duy Tâm Luận</small>
Duy tâm luận còn được gọi là Quan niệm luận. Trường phái này lấy tinh thần làm nền tảng căn bản của vũ trụ, đối lập với thuyết duy vật. Do vậy họ đưa ra quan điểm rằng bất cứ một sự vật nào tồn tại trong vũ trụ đều xuất phát từ tinh thần. Tác dụng của loại tinh thần này được biểu hiện qua quan niệm của con người và ngay nơi năng lực của sự vật. Như vậy, vật chất là sản phẩm của tinh thần và chính tinh thần quyết định vật chất. Con người có quan niệm cũng như sự vật có năng lực. Con người hiểu rõ vũ trụ là nhờ vào quan niệm nắm bắt sự vật một cách thực sự. Nếu khơng có tinh thần, thì vũ rụ vạn hữu khơng thể hình thành và diệt vong ngay từ buổi đầu sơ khởi. Do tinh thần vốn mang ý nghĩa như vậy nên nguồn gốc của vũ trụ có sự phát triển hợp lý để tạo thành. Có tinh thần thì có sự vật. Chính tinh thần là nền tảng làm phát sinh mọi thứ trong vũ trụ. Một sự vật tồn tại, nếu vắng bóng tinh thần, thì sự vật ấy chết cứng ngay khi chưa thể mường tượng. Tinh thần là nguyên nhân tạo ra vật thể, đồng thời tự thân của nó có đủ lý tánh để điều phối sự vật. Tất cả vạn vật trong vũ trụ đều bắt nguồn từ tinh thần, chịu sự chi phối của tinh thần, cho nên chúng mới hình thành có trật tự và khơng bị hổn loạn.
<small>2.1.4. Nhị Nguyên Luận</small>
Quan điểm của trường phái này chủ trương vũ trụ được tạo thành từ tính chất dung hợp của hai phạm trù vật chất và tinh thần. Tâm và vật hiện hữu trong vũ trụ là hai chủng tánh tương quan tương liên không thể tách rời. Nguồn gốc của tâm và vật là thuộc tính hịa hợp, bản thân của chúng là thực thể bất biến. Trường phái này đem mối quan hệ tinh thần và vật chất chuyển biến thành mối quan hệ của thân và tâm, lấy quá trình bất đồng giữa tư tưởng và vật chất tổ chức thành nhất thể, đem thân tâm và vật chất tổng hợp làm một không thể tách rời. Thuyết nhị nguyên đem vật chất và tinh thần dung hợp ở đỉnh cáo của vạn hữu. Sự chia chẻ hay phân biệt giữa tinh thần và vật chất, theo thuyết này, là một cách nhìn sai lầm khơng có tính thống nhất. Vạn hữu vũ trụ là sự dung hòa chặt chẻ của
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">tinh thần và vật chất. Nếu tách rời tinh thần để tìm vật chất, thì hồn tồn khơng thấy sự tồn tại của vật chất. Ngược lại, nếu tách rời vật chất để nắm bắt tinh thần, thì tuyệt đối khơng có tinh thần tồn tại độc lập. Thế giới này là quá trình dung hợp của cả tinh thần lẫn vật chất. Nếu vắng bóng sự hịa hợp của hai yếu tố này thì thế giới nhất định khơng thể hình thành và tồn tại. Như vậy, theo Nhất nguyên luận, vũ trụ vạn hữu được tạo nên nhờ vào sự kết hợp nhuần nhuyển và có thứ tự của hai lãnh vực vật chất và tinh thần.
<small>2.1.5. Đa Nguyên Luận</small>
Tương phản với Nhất nguyên luận, Đa nguyên luận cho rằng yếu tố tạo nên vũ trụ không phải là một cá thể mà tổ hợp nhiều cá thể. Vì bản thể của vũ trụ vạn hữu mang nhiều yếu tố, cho nên vũ trụ mới có nhiều hiện tượng. Do đó, trong hiện tượng bất đồng này vốn đã chứa đựng nguồn gốc bất đồng, chứ không phải chỉ có một căn nguyên nào đó biến dịch ra hiện tượng.
Căn cứ vào tính chất của bản thể vũ trụ mà nói, thì vốn có sự hiện hữu của duy vật, duy tâm, nhị nguyên, đa nguyên bất đồng. Nhưng nếu dựa vào sự hình thành của bản thể vũ trụ để trình bày, thì vốn có nhiều phương pháp diễn thuyết như cơ giới luận, mục địa luận, điều hòa phái, siêu việt phái .v.v Tuy nhiên, các học thuyết trên, mỗi học thuyết đều có khuyết điểm của nó. Thực chất của bản thể vũ trụ, nếu nói theo duy vật, thì sự sáng tạo của sinh mạng, tác dụng của tinh thần, chuyển biến của năng lực đơn thuần không thể chấp nhận được. Nếu căn cứ vào duy tâm mà nói, thì sự tồn tại của vật chất cũng là sự thực, và tinh thần không thể sáng tạo ra vật chất. Theo thuyết nhị ngun, tâm và vật đều có đặc tính khơng tương quan của nó, nhưng tinh thần khơng thể tách rời nhục thể để tồn tại và hoạt động độc lập. Đa nguyên luận cho rằng có nhiều yếu tố tạo thành vũ trụ chứ không phải chỉ một yếu tố, và các yếu tố này có tính mâu thuẩn thống nhất với căn nguyên của vũ trụ. Ngay cả sự lý giải về diễn biến hình thành vũ trụ của cơ giới luận, mục địa luận, điều hòa phái, siêu việt phái, mỗi thuyết cũng có sở trường và sở đoản của nó, nhưng khơng thể giải đáp được tính viên mãn của vũ trụ mà chúng ta đề cập đến. 2.2 Nhân sinh quan
Triết học Phật giáo đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề của tư duy triết học. Đó là những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan triết học. Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con người, đời sống của con người. (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống)
*Về con người
Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và tái sinh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Theo Phật con người được cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh sắc và thuyết Lục đại.
Thuyết Danh sắc: Con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh thần. Thuyết Lục đại: Con người được cấu tạo từ sáu yếu tố:
Thuyết Ngũ ẩn: Xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố.
Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả. Có bốn loại thực:
Đoạn thực: Thức ăn là động, thực vật, thức ăn vật chất, là cơm ăn nước uống hàng ngày. Xúc thực: Thức ăn là những cảm xúc, cảm giác.
Tư thực : Thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi.
Thức thực: Thức ăn là tinh thần, là thức ăn ở cõi vô sắc, sống bằng tinh thần thanh cao. Phật giáo quan niệm sự vật đều luôn vận động biến đổi, khơng có cái gì là thường hằng, bất biến. Cịn tương tục vô thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có sinh – trụ – dị – diệt (đối với sinh vật), hay thành – trụ – hoại – không (đối với sự vật), đối với con người là sinh – lão – bệnh- tử. (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống)
Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con người là sự kết hợp động của những yếu tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã.
Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con người gieo nhân nào hưởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.
Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ thống nhân duyên của nhau, cứ thế sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng tận. Thân xác con người được đề cập trong các thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo.
*Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ diệu đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào.
Luận điểm thứ nhất (khổ đế): (Tiểu Luận Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống)
</div>