Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 16 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
ĐỀ TÀI: BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
HÀ NỘI, 2024
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">BIÊN BẢN PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ 2 <sup>Nguyễn Thị Khánh</sup>Chi <sup>Làm nội dung 1.2</sup> 3 <sup>Nguyễn Thị Thảo</sup>Chi <sup>Làm nội dung </sup>2.1.2 4 <sup>Nguyễn Thùy Linh</sup>Chi Làm nội dung 2.3 5 Hoàng Kim Chung Tổng hợp word 6 Vũ Thị Cúc Làm powerpoint 7 Nguyễn Đức Cường Thuyết trình 8 Nguyễn Huyền Diệu Làm nội dung 1.1 9 Lê Tuấn Dũng Làm nội dung 2.2 10 Lưu Nguyễn Dương Làm nội dung 1.3
MỞ ĐẦU………...4
NỘI DUNG………....5
I. BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
II. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY………...8
2.1. Thực trạng vận dụng quy luật biện chứng giữa lục lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Đảng ta hiện nay……….
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa về việc vận dụng quy luật biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Đảng ta hiện nay……….14
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">KẾT LUẬN……… DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………..
Triết học Mác – Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học nói chung và lý luận nhận thức nói riêng. Quan điểm đó đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học. Lý luận và thực tiễn là hai vấn đề mà chắc hẳn chúng ta đều bắt gặp khá nhiều. Hai vấn đề này đã và đang thu hút sự quan tâm và nghiên cứu của giới khoa học. Sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn vừa là nhận thức luận, vừa là phương pháp luận khoa học. Không thấy rõ sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đều là sai lầm trong nhận thức và hành động.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều đối tượng. Mặc dù có những khiếm khuyết khơng thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới về mọi mặt. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Sau khi nghiên cứu môn triết học Mác - Lênin, tôi tâm huyết với đề tài nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, vì vậy tơi lựa chọn nội dung: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng nó vị trí của bản thân” để viết thu hoạch.
NỘI DUNG
I. BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT – MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm, kết cấu của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 1.1.1. Khái niệm và kết cấu lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong q trình sản xuất, nó thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất
Lực lượng sản xuất bao gồm 2 bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và người lao động
Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu sản xuất bao gồm cơng cụ lao động (máy móc, cuốc, xẻng …) và đối tượng lao động khác (phương tiện để vận chuyển bảo quản chứa đựng công cụ lao động và sản phẩm). Còn đối tượng lao động gồm 2 bộ phận là những yếu tố nguyên nhiên vật liệu có sẵn trong tự nhiên (đất đai, than đá và bộ phận phải trải qua sự cải tạo của con người - cịn gọi là nhân tạo, ví dụ như nhựa, gỗ ép, …. ). Trong tư liệu sản xuất thì cơng cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vì người lao động đóng vai trị là chủ thể của quá trình sản xuất, là người tạo ra tư liệu lao động và
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm, cịn tư liệu sản xuất chỉ đóng vai trò là khách thể chịu sự tác động trong quá trình sản xuất.
Ngày nay sự phát triển vượt bậc và khả năng ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất đã khiến cho tri thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Các yếu tố trong lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất trong một phương thức sản xuất.
1.1.2. Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất quan hệ về tổ chức quản lý quá trình sản xuất quan hệ về phân phối sản phẩm sau quá trình sản xuất
Quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất (quan hệ sở hữu) nói lên ai chủ sở hữu đối với nhà máy, xí nghiệp, các thiết bị, các nguyên nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất về tổ chức quản lý quá trình sản xuất (quan hệ quản lý) nói lên ai là người thực hiện quyền tổ chức, quản lý, điều hành, giám sát q trình (đó chính là người sở hữu tư liệu sản xuất).
Quan hệ phân phối sau quá trình sản xuất (quan hệ phân phối) nói lên ai là người có quyền quyết định việc phân phối, chia thành quả của quá trình sản xuất cho ai, bao nhiêu và như thế nào?
Một trong 3 mặt trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng nhất, quyết định 2 mặt kia, đồng thời quan hệ quản lý và quan hệ phân phối có tác động trở lại, kìm hãm hoặc thúc đẩy quan hệ sở hữu.
I.2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác động biện chứng trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối tượng sản xuất.
Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất:
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của q trình sản xuất có tính năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của q trình sản xuất, có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động của mâu thuẫn biện chứng đó, quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất quyết định.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, làm thay đổi các quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất sẽ phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó. Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
Hướng tích cực: Sự phù hợp của quan hệ sản xuất là vô cùng quan trọng nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì trở thành động cơ mở đường, tạo điều kiện đầy đủ thúc đẩy cho lực lượng sản xuất phát triển.
Hướng tiêu cực: Ngược lại quan hệ sản xuất “đi sau” hoặc “đi trước” , lỗi thời hoặc q tân tiến thì nó khơng cịn phù hợp với tính chất và trình độ sản xuất của lực lượng sản xuất dẫn đến kìm hãm sự phát triển, thậm chí là phá hoại của lực lượng sản xuất. Song tác dụng kìm hãm chỉ có tính tạm thời vì cuối cùng nó cũng sẽ bị thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại và không tách rời nhau. Hai yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau để tạo thành một quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây chính là quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội. Sự tác động của qua lại của chúng trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái xã hội cao hơn.
1.3.Ý nghĩa của phương pháp luận của quy luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">* Ý nghĩa trong nhận thức
Nhờ có phương pháp luận mà chúng ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
* Ý nghĩa trong thực tiễn
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, cho nên trong hoạt động thực tiễn phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, từ đó nhận thức và giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn, phù hợp với điều kiện khách quan cụ thể. Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra các mặt đối tồn tại trong thể thống nhất bên trong sự vật, hiện tượng.
Trong q trình phân tích mâu thuẫn, cần phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể để đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó cho phù hợp. Đối với từng loại mâu thuẫn cụ thể, cần có giải pháp giải quyết cụ thể, phù hợp.
Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, khơng điều hồ, thủ tiêu, xóa nhịa mâu thuẫn; xong cũng khơng nóng vội, chủ quan, tuyệt đối hóa đấu tranh của hai mặt đối lập mà bỏ qua sự thống nhất vốn có của chúng. Trong thực tiễn, cần chủ động, mềm dẻo, linh hoạt và sáng tạo trong giải quyết từng mâu thuẫn cụ thể trong những điều kiện cụ thể, nhất là có thể và cần phải biết khai thác và vận dụng hiệu quả phương pháp giải quyết mâu thuẫn bằng biện pháp kết hợp biện chứng các mặt đối lập.
II. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng vận dụng quy luật biện chứng giữa lục lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Đảng ta hiện nay.
Mặt tích cực:
Nền kinh tế tăng trưởng: Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm qua, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Cạnh tranh quốc tế được nâng cao: Việt Nam đã gia nhập nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng, thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế.
Khoa học - công nghệ được chú trọng: Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển khoa học - công nghệ, ứng dụng công nghệ vào sản xuất.
An sinh xã hội được đảm bảo: Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện hiệu quả, góp phần giảm nghèo, đảm bảo an sinh cho người dân.
Sự chuyển đổi kinh tế: Việt Nam đang trải qua sự chuyển đổi từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Quy luật biện chứng được áp dụng để thúc đẩy quá trình này, nhưng cũng gây ra những thách thức trong việc điều tiết, cân bằng các yếu tố kinh tế và xã hội.
Mặt hạn chế:
Chất lượng tăng trưởng chưa cao: Nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu, giá trị gia tăng thấp. Năng suất lao động còn thấp so với các nước trong khu vực. Chênh lệch giàu nghèo còn lớn: Tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội. Các nhóm yếu thế trong xã hội chưa được quan tâm đầy đủ.
Tham nhũng, lãng phí cịn phổ biến: Tham nhũng, lãng phí là một vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân và hiệu quả của nền kinh tế. Cơng tác phịng chống tham nhũng, lãng phí chưa thực sự hiệu quả.
Nạn quan liêu còn tồn tại: Nạn quan liêu gây cản trở cho sự phát triển của nền kinh tế, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Cơng tác cải cách hành chính chưa thực sự mạnh mẽ và hiệu quả.
Biến đổi khí hậu và dịch bệnh: Biến đổi khí hậu và dịch bệnh là những thách thức lớn đối với sự phát triển của Việt Nam. Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ để ứng phó với những thách thức này.
Thách thức từ công nghệ và đổi mới: Sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ đòi hỏi sự đổi mới liên tục trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Việc quản lý và sử dụng công nghệ một cách hiệu quả là một thách thức lớn.
2.1.1. Thành tựu của việc vận dụng quy luật Nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ:
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">GDP bình quân đầu người tăng cao, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp theo phân loại của Ngân hàng Thế giới.
Cạnh tranh quốc tế được nâng cao:
Việt Nam đã gia nhập nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng, mở ra cơ hội thu hút đầu tư và xuất khẩu.
Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư.
Khoa học - công nghệ được chú trọng phát triển:
Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển khoa học - cơng nghệ, ứng dụng công nghệ vào sản xuất.
Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo. An sinh xã hội được đảm bảo:
Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện hiệu quả, góp phần giảm nghèo, đảm bảo an sinh cho người dân.
Hệ thống y tế, giáo dục được quan tâm đầu tư, chất lượng giáo dục và sức khỏe được nâng cao.
2.1.2. Hạn chế
Thời kỳ trước đổi mới
Từ sau năm 1954 đến 1975: Sau năm 1954, miền Bắc hồn tồn giải phóng, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này với đặc điểm một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất cịn thấp kém, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, vì thế, Đảng chủ trương đẩy mạnh khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sau 3 năm thực hiện (1955-1957) kinh tế miền Bắc có nhiều tiến bộ, tuy nhiên vẫn khơng thốt khỏi tình cảnh khó khăn. Từ đó, trong những năm tiếp theo, Đảng chủ trương đẩy mạnh hợp tác hố trong nơng nghiệp, lấy kinh tế hợp tác xã làm trọng tâm, mở rộng quy mô hợp tác xã (1966-1975) trong nông nghiệp từ nhỏ đến lớn trong khi trình độ thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật không được đảm bảo, đội ngũ cán bộ quản lý không được đào tạo bài bản, điều này gây trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế trong điều kiện kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Có thể thấy, do chưa có kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">trong giai đoạn này, chúng ta tuyệt đối hoá việc cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa theo mơ hình Liên Xơ cho kinh tế miền Bắc trong khi trình độ lực lượng sản xuất cịn thấp kém, khơng đáp ứng được nhu cầu cao đó, vì thế khơng thúc đẩy năng suất lao động phát triển, mặc dù có lúc phù hợp.
Sau năm 1975, cả nước thống nhất, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Cũng như ở miền Bắc trước đây, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam vẫn chủ yếu tập trung vào vấn đề sở hữu. Điều này đã gây ra sự mất cân đối trong việc giải quyết các mặt của quan hệ sản xuất. Việc nhận thức và vận dụng không đúng quy luật này đã làm cho kinh tế - xã hội khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Ở nước ta trong thời kỳ từ Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI (năm 1986) của Đảng, chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội và bệnh bảo thủ trì trệ do vi phạm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của một đất nước kinh tế kém phát triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại.
Đúng như văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu tố đi q xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”(3). Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ lực lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng tồn tại và cản trở bước tiến của cách mạng.
Thời kỳ sau đổi mới
Đại hội lần thứ VI của Đảng là dấu mốc quan trọng đánh dấu cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, trong đó có sự đổi mới nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản
</div>