Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 33 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI</b>
<b>Giảng viên hướng dẫn: Cơ Nguyễn Ngọc DiệpLớp học phần: 2350HCMI0131 </b>
<b>Nhóm: 04</b>
<i>Hà Nội, tháng 3 năm 2023</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>Chương II SO SÁNH BA BƯỚC ĐỘT PHÁ ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẢNG (bước đột phá đầu tiên: tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 8/1979); bước đột phá thứ 2 tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 6/1985); bước đột phá thứ 3 tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V) (tháng 8/1986)...7</b>
2.1. Bước đột phá đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 8/1979)...7
2.2. Bước đột phá thứ hai tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 6/1985)...11
2.3. Bước đột phá thứ ba tại Hội nghị Bộ Chính Trị Khóa V (tháng 8/1986)...22
2.4. So sánh ba bước đột phá đổi mới kinh tế của Đảng...28
<b>Chương III NHẬN XÉT CHUNG...31</b>
3.1. Nhận xét chung về ba bước đột phá...31
<b>KẾT LUẬN...34</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>LỜI MỞ ĐẦU</b>
Yếu tố quan trọng nhất quyết định đến vận mệnh của một dân tộc chính là sự dẫn dắt của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, hoạt động nhận thức (tư duy) của Đảng có vai trị, ý nghĩa cực kì quan trọng. Trên cơ sở của một nhận thức nhất định mà Đảng vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách. Nhận thức đúng, sai quyết định đến xu hướng, bước tiến, quy mơ và có thành bại của cuộc cách mạng.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại đối với cách mạng Việt Nam – kỷ nguyên đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ mới đất nước có nhiều thắng lợi cơ bản đồng thời cũng gặp khơng ít thách thức. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tìm tới con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ 1975-1986. Đại hội toàn quốc lần thứ 4-5 của Đảng được tiến hành trong bối cảnh đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh đã chỉ ra đường lối chung xây dựng đất nước trong thời kỳ q độ. Đó chính là 3 bước đột phá trên quá trình hình thành con đường đổi mới của Đảng được diễn ra trước đại hội VI. Nhận thức được tầm quan trọng trên, nhóm 4 chúng em đã quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “So sánh ba bước đột phá đổi mới kinh tế của đảng (bước đột phá đầu tiên: tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 8/1979); bước đột phá thứ 2 tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 6/1985); bước đột phá thứ 3 tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V) (tháng 8/1986).”
Để hồn thành bài thảo luận, nhóm chúng em đã rất cố gắng nhưng vẫn không thể tránh khỏi những sai sót. Nhóm 4 rất mong sẽ nhận được sự góp ý và hồn thiện của cơ và các bạn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>NỘI DUNG</b>
<b>Chương I </b>
<b>BỐI CẢNH TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1.1. Tình hình thế giới</b>
Tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp ảnh hưởng đến cách mạng nước ta: sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ; sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản; xu thế chung của các nước xã hội chủ nghĩa là cải tổ, cải cách và đổi mới.
Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật trên thế giới tiếp tục phát triển mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, đối ngoại
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã tạo ra những bước nhảy vọt chưa từng thấy của lực lượng sản xuất, trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra năng suất lao động xã hội cao, tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay đổi vị trí của các ngành kinh tế, cơ cấu của các vùng kinh tế. Khoa học công nghệ cùng với sự phát triển trí tuệ của con người đã trở thành thang giá trị của sự phát triển. Điều này đã thay đổi quan hệ sản xuất, từ đó dẫn đến thay đổi phân công lao động xã hội, quốc tế hóa và hình thành xu thế chung tồn cầu hóa kinh tế.
Thứ hai, cơng cuộc cải tổ, cải cách diễn ra mạnh mẽ ở các nước XHCN
Các nước XHCN sau một thời gian dài phát triển đạt được những thành tựu in dấu ấn lên lịch sử nhân loại. Nhưng cuối thập kỉ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã lâm vào trì trệ, khủng hoảng. Đây là cuộc khủng hoảng có tính mơ hình, CNXH mà các nước đang xây dựng thực chất là CNXH thời chiến, bắt nguồn từ kinh nghiệm của Liên Xơ. Mơ hình này từng thích hợp với những điều kiện đặc biệt của Nga – Xô Viết, song lại
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">được coi là mơ hình duy nhất, phổ biến cho tất cả dân tộc khi lựa chọn con đường đi lên XHCN.
Vì vậy, những năm cuối thập kỷ 70 – đầu thập kỷ 80, các nước XHCN đã lần lượt diễn ra các cuộc cải tổ, cải cách đổi mới như ở Ba Lan, Tiệp Khắc, Trung Quốc,…Các cuộc cải tổ đã tiến hành sửa chữa mô hình XHCN và dù kết quả điều chỉnh của cơng cuộc cải tổ, cải cách về sau có khác nhau, song trào lưu cải tổ, đổi mới cải cách đã phản ánh một nhu cầu khách quan giúp tháp gỡ một hàng rào to lớn về nhận thức và tạo khơng khí thuận lợi cho cơng cuộc phát động, đổi mới ở Việt Nam.
Thứ ba, xu thế chạy đua phát triển kinh tế diễn ra sơi nổi trên tồn thế giới Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hịa bình và hợp tác phát triển. Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.
<b>1.2. Tình hình trong nước</b>
Sau đại thắng mùa xn năm 1975, Miền Nam hồn tồn giải phóng, Tổ quốc hồ bình, thống nhất, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại, dân tộc Việt Nam bước vào một giai đoạn lịch sử mới "giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất và làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội" (Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, cách mạng nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Một là, chúng ta đã thống nhất được nước nhà về mặt Nhà nước. Hai là, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong xây dựng CNXH. Ba là, giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Song, nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra đều khơng hồn thành. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ cuối những năm 70 và kéo dài trong nhiều năm (đỉnh cao của khủng hoảng là vào những năm 1985 và đầu năm 1986). Hai cuộc chiến tranh biên giới bùng phát đồng thời làm tình hình đất nước thêm gay gắt. Hơn nữa, nước ta bị bao vây, cấm vận và cô lập bởi đế quốc Mỹ và các thế lực phản động, thù địch trên thế giới, làm cho sản xuất trong nước tăng rất chậm, nhiều chỉ tiêu được Đảng ta đặt ra nhưng khơng hồn thành, tài ngun thiên nhiên bị lãng phí, người lao động thiếu việc làm, khan hiếm hàng tiêu dùng… Yêu cầu bức thiết là đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Nhiệm vụ đặt ra là Đảng ta buộc phải đổi mới, lấy đổi mới tư duy kinh tế làm trọng tâm.
Trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, địi hỏi Đảng và nhân dân ta phải suy nghĩ, tìm tịi con đường đổi mới để tháo gỡ khó khăn, đưa đất nước đi lên. Từ những tìm tịi, sáng tạo ở địa phương, cơ sở, Đảng ta đã đề ra những chủ trương có tính chất đổi mới từng phần. Những đổi mới này có ý nghĩa rất lớn đối với đường lối đổi mới tồn diện, có vị trí rất quan trọng đối với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>Chương II</b>
<b>SO SÁNH BA BƯỚC ĐỘT PHÁ ĐỔI MỚI KINH TẾ CỦA ĐẢNG (bước đột pháđầu tiên: tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 8/1979); bước đột phá thứ 2 tại Hội nghịTrung ương 8 (tháng 6/1985); bước đột phá thứ 3 tại Hội nghị Bộ Chính trị khóa V)</b>
<b>(tháng 8/1986).</b>
<b>2.1. Bước đột phá đầu tiên tại Hội nghị Trung ương 6 (tháng 8/1979)</b>
2.1.1. Chủ trương
Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8/1979) với chủ trương là khắc phục những khuyết điểm sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa phá bỏ những rào cản để quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta. Cụ thể:
a. Trong công nghiệp
Sau khi đánh giá thành tựu và hạn chế trong phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương, Nghị quyết xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương trong tình hình mới. Nhiệm vụ cơ bản của công nghiệp địa phương là phục vụ đời sống nhân dân địa phương, góp phần phục vụ nhu cầu của cả nước và xuất khẩu. Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển.
Tư tưởng cốt lõi của Hội nghị là: “ Phải tận dụng các thành phần kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể (kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp ); kết hợp quy mô lớn, vừa, nhỏ; Kỹ thuật thủ công, nửa cơ giới và cơ giới; kết hợp trung ương, địa phương (tỉnh, thành, huyện) và cơ sở. Tận dụng mọi khả năng về lao động, tài nguyên và năng lực sản xuất của các ngành kinh tế, quốc phịng văn hóa để sản xuất hàng tiêu
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">dùng”. Những chủ trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
b. Trong nơng nghiệp
Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất đai nơng nghiệp để khai hoang, phục hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm sốt để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi tổ chức thí điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khốn sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu, cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ trương đó được nơng dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng. Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nơng nghiệp giảm đi đáng kể.
2.1.2. Quá trình thực hiện
Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển: ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thơng tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hố; đẩy mạnh chăn ni gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã nhanh chóng nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của nhân dân cả nước và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn, trên toàn quốc đã xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới. Long An từ giữa năm 1980 đã thí điểm mơ hình theo cơ chế "mua cao, bán cao", "bù giá vào lương" thay đổi cho cơ chế "mua cung, bán cấp". Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh thí điểm hình thức khốn.
Trên cơ sở đó, chỉ thị 100 - CT/TW, ngày 13/1/1981 của Ban bí thư về cải tiến cơng tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm tới nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời, thường được gọi là Khoán 100, làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất. Tuy chưa hồn thiện và cịn nhiều hạn chế song đã đóng góp một phần quan trọng, bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp, mở ra phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ kinh tế mới ở nông thôn.
Trên lĩnh vực công nghiệp, với quyết định 25/CP, ngày 21/1/1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khốn, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh được áp dụng, bước đầu tạo ra động lực mới cho lĩnh vực công nghiệp,..Tập trung đẩy mạnh cơng nghiệp hố XHCN: ưu tiên phát triển CN nặng một cách hợp lý. Chấn chỉnh công tác xây dựng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Đối với các xí nghiệp, Hội nghị chủ trương đảm bảo quyền tự chủ sản xuất, kết hợp ba lợi ích nhà nước, tập thể và người lao động.
2.1.3. Đánh giá 2.1.3.1. Ưu điểm
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tư duy kinh tế nổi bật thơng qua đại hội là tư duy “cởi trói”, “giải phóng
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">lực lượng sản xuất”, “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, cải tạo XHCN, tạo ra động lực cho sản xuất. Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và tồn diện, nhưng đó là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng, đặt ra những nền tảng cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
Đại hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.1.3.2. Hạn chế
Bên cạnh đó, đường lối chung, đường lối kinh tế đều ảnh hưởng từ mơ hình xây dựng CNXH ở miền Bắc nên có nhiều chủ trương nóng vội, nội dung hạn chế, khơng phù hợp như: việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ quá độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế nên đã không thực hiện được.
2.1.4. Ý nghĩa
Bước đột phá thứ nhất về kinh tế được đánh dấu bởi Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8-1979) với quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”. Đây có thể coi là sự “đột phá đầu tiên” trong việc thay đổi chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý nghĩa là khắc phục những khiếm khuyết, sai lầm trong quản lý kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, xóa bỏ những rào cản để cho lực lượng sản xuất phát triển, tạo động lực cho sản xuất, chú ý kết hợp các lợi ích, quan tâm đến lợi ích của người lao động...
Bước đột phá thứ nhất đã khai mở chấp nhận kinh tế tư hữu và thị trường tự do tồn tại bên cạnh và đồng hành với “thị trường có tổ chức” từ năm 1979 với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (Khóa IV, 9-1979). Việt Nam đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">trung quan liêu, với phương thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh vực này đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam giành được nhiều thành quả.
Qua nội dung nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, ta đã thấy rõ từng bước tiến của Đảng ta trong đổi mới tư duy kinh tế. Từ thực tiễn và kinh nghiệm xương máu, Đảng và Nhà nước ta đã có những chuyển hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương, chính sách thể hiện trong sự rõ ràng, rành mạch giữa vấn đề và biện pháp giải quyết từ nông nghiệp cho đến công nghiệp. Tất cả bởi Đảng ta thấy rõ nền kinh tế bao cấp khơng cịn phù hợp và thấy được tiềm năng của nền kinh tế thị trường, cũng như có cái nhìn mới, đúng đắn về con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước nhà phát triển lên một bước. Không những vậy, việc đổi mới này mang ý nghĩa cách mạng mà cuộc cách mạng ấy cả Đảng, cả dân cùng đồng lịng, từ đó phát huy truyền thống q báu của dân tộc là đoàn kết.
<b> 2.2. Bước đột phá thứ hai tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 6/1985)</b>
2.2.1. Hồn cảnh
Kể từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 9/1979), Đảng và Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, chính sách về sản xuất và phân phối. Bản thân hệ thống tiền lương bấy giờ đã lâu không được sửa đổi nên không chỉ lạc hậu về tiền lương, mà còn mang nặng tính bao cấp. Cụ thể:
- Tiền lương của cán bộ, công nhân, viên chức không được điều chỉnh tương ứng với sự tăng giá của những năm 1981-1982. Kinh nghiệm thực tiễn về vấn đề lương thưởng đang đòi hỏi sự giải quyết đồng bộ trên cả nước.
</div>