Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Đề tài tìm hiểu về những bước “phá rào” trong lĩnh vực công nghiệp thời kỳ trước đổi mới (1975 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.89 MB, 53 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

ĐỀ TÀI

TÌM HIỂU VỀ NHỮNG BƯỚC “PHÁ RÀO” TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4

STT Họ và tên LHp HC

43 Nguyễn Thị Thu Hương K56A5 Thành viên

44 Nguyễn Thị Thu Hương K56A6 Thành viên

45 Hà Ngọc Huy K56A4 Thư ký

46 Nguyễn Thị Huyền K56A3 Thành viên

47 Trịnh Ngọc Khánh K56A3 Thành viên

48 Nguyễn Trọng Khôi K56A5 Thành viên

49 Phan Thị Khuyên K56A3 Thành viên

50 Mai Đoàn Hải Lam K56A4 Thành viên

51 Hoàng Văn Lâm K56A3 Thành viên

52 La Thị Lê K56EK1 Nhóm trưởng

53 Lại Thị Phương Linh K56Q2 Thành viên

54 Nguyễn Diệu Linh K56EK1 Thành viên

55 Nguyễn Thùy Linh K56A4 Thành viên

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, nhóm 4 chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Nguyễn Thị Lan Phương– giảng viên giảng dạy học phần Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã đồng hành và gắn bó với chúng em trong suốt học kì vừa qua. Chúng em cảm thấy vơ cùng vinh dự, tự hào và biết ơn khi được tiếp cận với bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua sự giảng dạy nhiệt tình, tâm huyết của cô. Nhờ vào phương pháp giảng dạy sáng tạo, linh động cùng giọng nói truyền cảm của cơ đã giúp chúng em hiểu sâu – hiểu rõ – hiểu rộng về bộ mơn. Ngồi ra, phong cách làm việc chun nghiệp của cô cũng là điều chúng em vinh dự học hỏi được. Tất cả những điều đó đều là yếu tố giúp chúng em nắm chắc kiến thức, vận dụng kiến thức và liên hệ thực tế để hoàn thành bài thảo luận một cách tốt nhất.

Bên cạnh đó khơng thể khơng nhắc tới những đóng góp nhất định khơng nhỏ tới từ thành viên trong nhóm, cảm ơn các bạn tham gia đầy đủ, tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng và hồn thành bài thảo luận. Mặc dù nhóm đã cố gắng để hồn thành bài thảo luận trong phạm vi và khả năng của mình song kinh nghiệm vẫn cịn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi những sai sót. Rất mong được nhận sự đóng góp ý kiến từ phía giảng viên và thành viên trong lớp.

Nhóm 4 chúng em cam kết bài thảo luận được tạo nên từ sự tìm tịi, phân tích tài liệu kết hợp với tồn bộ sự hiểu biết, sáng tạo và nỗ lực của các thành viên nhóm 4.

NhRm 4 chúng em xin trân thành cảm ơn!

3

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

MỤC LỤC

MỤC LỤC...4

A. MỞ ĐẦU...5

1. Lý do chọn đề tài...5

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...5

3. Phương pháp nghiên cứu...5

4. Ý nghĩa của đề tài...5

B. NỘI DUNG...6

CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH CƠNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM SAU NĂM 1975...6

1. 1 Ở miền Bắc...6

1. 2 Ở miền Nam...7

CHƯƠNG 2: NHỮNG BƯỚC PHÁ RÀO TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (1975-1986)...8

2. 1 Phá rào là gì?...8

2. 2 Tại sao Đảng ta lại quyết định thực hiện các bước phá rào sau năm 1975?...9

2. 3 Những bước phá rào trong lĩnh vực công nghiệp thời kỳ trước đổi mới (1975-1986) ...10

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ Ý NGHĨA...46

3. 1. Mối quan hệ giữa ba bước “phá rào...46

3. 2. Ý nghĩa của ba bước ‘’phá rào’’...48

3. 3 Bài học kinh nghiệm...49

C. KẾT LUẬN...53

4

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sau chiến thắng oanh liệt năm 1975, Việt Nam đã là một đất nước thống nhất trong hịa bình, hịa hợp. . Từ đây, nhân dân Việt Nam cùng tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc trên thế giới.

Giai đoạn này, đất nước ta đứng trước vơ vàn những khó khăn: ngân khố kiệt quệ, tài nguyên khoáng sản bị thực dân Pháp vơ vét cạn kiệt, đói nghèo tràn lan, nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu và manh mún, sản xuất công nghiệp chủ yếu tập trung vào khai thác mỏ

Yêu cầu đặt ra phải đổi mới tư duy kinh tế, phát triển kinh tế để khắc phục hậu quả tàn phá sau chiến tranh và nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh công cuộc xây dựng CNXH tiến lên.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ những bước phá rào trong lĩnh vực công nghiệp ở nước ta thời kỳ trước đổi mới (1975-1986), từ đó thấy được những thành tựu đầu tiên trong phát triển kinh tế sau khi giành độc lập và bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.

3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp chung. (Phương pháp thu thập và xử lý thông tin)

Vận dụng tổng hợp những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kế thừa khai thác những thành quả khoa học của các cơng trình được cơng bố; sử dụng phương pháp logic và lịch sử; phương pháp đặc trưng của chính trị học.

4. Ý nghĩa của đề tài

Hiểu biết sâu rộng hơn về tình hình phát triển cơng nghiệp ở nước ta thời kỳ trước đổi mới.

Làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, nghiên cứu vấn đề, mở rộng hiểu biết về công cuộc đổi mới đất nước, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa.

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH CƠNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM SAU NĂM 1975 ★ Tình hình chung cả nước:

Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất và bước vào kỷ ngun hồ bình xây dựng, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn lịch sử mới, ngành Công nghiệp Việt Nam đứng trước những thuận lợi và khó khăn cùng những nhiệm vụ nặng nề. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đất nước ta đã từng bước đạt được những thành tựu đầu tiên trong lĩnh vực công nghiệp.

Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, tại cuộc họp trù bị của Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn sau khi đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình, gồm cả tình hình kinh tế, thừa nhận những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và của thị trường tự do ở miền Nam sau chiến tranh đã phát biểu:

“Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hóa ngay lập tức. Nhưng miền Nam bây giờ không thể làm như vậy. . . Phải có tư sản, phải cho nó phát triển phần nào đã. . . Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để mấy thành phần kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này. . . Xưa nay ở miền Bắc chúng ta có một số sai lầm, là vì chúng ta đã đi sai quy luật. Nếu chúng ta đi sai quy luật mà đưa vào miền Nam thì càng sai lắm. ”

Tuy nhiên, đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc ấy lại muốn áp dụng mơ hình kinh tế của miền Bắc cho miền Nam: chế độ quan liêu bao cấp. Vì thế điều này đã dẫn tới một số các vấn đề kinh tế, đặc biệt là công nghiệp do sự không hòa hợp giữa miền Bắc và miền Nam.

1.1 Ở miền Bắc

Sau 20 năm khôi phục, cải tạo, xây dựng và phát triển, đến cuối năm 1975, đã hình thành một nền công nghiệp tự chủ với cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường đáng kể. Cơ

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

cấu cơng nghiệp đã phát triển hồn chỉnh hơn, bao gồm các ngành công nghiệp nặng như điện, than, gang thép, chế tạo máy công cụ…; công nghiệp hố chất đã sản xuất được xút, phân bón, thuốc trừ sâu…; công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm đã sản xuất được vải mặc, thuốc lá, đường mật, rượu, bia, đồ hộp… Sản xuất công nghiệp bao gồm các lực lượng quốc doanh trung ương, quốc doanh địa phương và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, cả cơng nghiệp nhóm A và cơng nghiệp nhóm B.

Nếu xét về phát triển giá trị sản lượng công nghiệp, năm 1955 = 1 lần thì năm 1975 = 16,2 lần, trong đó quốc doanh = 44,8 lần và tiểu thủ cơng nghiệp = 5,6 lần, nhóm A = 27,1 lần và nhóm B = 12,3 lần, cơng nghiệp trung ương = 76 lần và công nghiệp địa phương = 9,2 lần. Tuy vậy, nền công nghiệp miền Bắc có những hạn chế đáng kể: các ngành cơng nghiệp nặng then chốt còn nhỏ yếu, phát triển thiếu đồng bộ, chưa đủ khả năng trang bị hiện đại hoá cho các ngành kinh tế quốc dân. Đặc biệt, cơng nghiệp phát triển chưa gắn bó phục vụ tốt cho nông nghiệp; sản xuất chưa ổn định, chưa có cơ sở nguyên liệu trong nước vững chắc; chưa tạo được tích luỹ và chưa có thị trường cho các sản phẩm của mình, nhất là cơng nghiệp nặng; trình độ quản lý cịn thấp và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hơn nữa cơ chế này lại bị chiến tranh kéo dài, làm cho sâu sắc thêm những nhược điểm cố hữu của nó.

Do đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, do sản xuất ách tắc, các cơ sở kinh tế và địa phương đã tìm những cách thức để giải quyết khó khăn và ách tắc của mình. Nổi bật nhất là trường hợp khốn ở xí nghiệp đánh cá Vũng Tàu - Cơn Đảo năm 1979, khốn nơng nghiệp ở Đồn Xá (Đồ Sơn, Hải Phòng).

Đặc biệt, một số cố vấn Liên Xô đã đánh giá cao các cơ sở kinh tế phá rào nói trên. Sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế, Liên Xô đã cử các chuyên gia kinh tế sang giúp Việt Nam.

1.2 Ở miền Nam

Ở miền Nam, sự phong phú về hàng hóa đã sớm chuyển thành sự thiếu hụt. Chúng ta biết rằng nguồn hàng công nghiệp phong phú của miền Nam chủ yếu là dựa vào nhập khẩu. Mỗi năm, miền Nam nhập khẩu khoảng trên dưới một tỷ đô la, thông qua hệ thống viện trợ Mỹ. Nguồn này chấm dứt đột ngột từ 30/04/1975 đã ảnh hưởng tới cả sản xuất lẫn tiêu dùng.

Tình hình phát triển cơng nghiệp, nhỏ bé, thiếu cân đối, nhất là thiếu các ngành công nghiệp nặng. Công nghiệp miền Nam được hình thành và phát triển gắn với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ trước đó nên có những hạn chế: chiếm tỷ trọng không lớn, chỉ từ 8

-7

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

10% tổng sản phẩm xã hội; phần lớn là các cơ sở công nghiệp nhỏ: 175 ngàn cơ sở với 1,4 triệu lao động và 800 triệu USD giá trị tài sản cố định, khoảng 1% cơ sở có quy mơ từ 10 cơng nhân trở lên, cịn lại là dưới 10 cơng nhân; cơng nghiệp nhẹ chiếm 90% giá trị sản lượng của toàn ngành, được tập trung vào các lĩnh vực như đồ uống, thực phẩm, thuốc lá, dệt may…

Ngay sau ngày giải phóng, nguồn điện chủ yếu cũng dựa vào xăng dầu để sản xuất ra điện, bây giờ cũng bắt đầu khó khăn. Chỉ gần một năm sau giải phóng, miền Nam bắt đầu phải hạn chế điện theo giờ để ưu tiên cho sản xuất. Một số nhà máy thiếu nhiều thứ nguyên vật liệu quan trọng. Nhà máy đường thiếu đường thô (trước đây việc sản xuất đường của miền Nam chủ yếu cũng dựa vào đường thô nhập khẩu theo chương trình viện trợ Mỹ). Nhà máy thuốc lá thiếu sợi thuốc. Nhà máy dệt thiếu sợi dệt, thuốc nhuộm. Nhà máy in thiếu mực, giấy. Các lò bánh mỳ thiếu bột mỳ, men nở. Các cơ sở sản xuất bánh kẹo thiếu đường. Các nhà máy làm đồ nhựa thiếu hạt nhựa... Trong nhiều sự thiếu hụt, thì sự thiếu hụt phổ biến nhất là thiếu hụt phụ tùng thay thế. Các nhà máy thiếu vòng bi. Xe cộ thiếu săm lốp. Ngay những chiếc xe Honda cũng bắt đầu khủng hoảng về xích cam, bạc đạn, pítơng. Trên các nẻo đường của miền Nam bắt đầu xuất hiện các tiệm sửa xe đề biển "phục hối bugie cũ", "làm lại xích cam, "doa xilanh"...

Do những thiếu hụt lớn đó, hàng trăm xí nghiệp của miền Nam mà dự kiến sẽ là những đầu tàu đưa cả nước cất cánh trên con đường cơng nghiệp hóa, thì bản thân nó kêu cứu: Một số lớn đã đóng cửa, cho cơng nhân nghỉ việc hoặc đi làm ruộng rẫy kiếm ăn, số còn lại chỉ sản xuất cầm chừng.

CHƯƠNG 2: NHỮNG BƯỚC PHÁ RÀO TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (1975-1986)

2.1 Phá rào là gì?

Hàng rào là những thể chế, những nguyên tắc của mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung được hình thành ở Liên Xơ và sau đó được áp dụng tại hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Phá rào tức là vượt qua những hàng rào về quy chế đã lỗi thời để chủ động tháo gỡ nhiều ách tắc trong cuộc sống, đồng thời cũng góp phần từng bước dẹp bỏ hàng loạt rào cản cũ kỹ để mở đường cho công cuộc Đổi mới.

8

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

2.2 Tại sao Đảng ta lại quyết định thực hiện các bước phá rào sau năm 1975?

Nguồn nguyên liệu phụ thuộc nước ngoài, các ngành lệ thuộc hồn tồn là cơ khí, hóa chất, dệt… Thiết bị nhập từ nhiều nguồn, trong đó của 13 nước tư bản (chiếm 41%) của Liên Xô và Đông Âu (chiếm 20%) và trong nước chế tạo (13%).

Sau thắng lợi năm 1975, Mỹ chấm dứt viện trợ cho miền Nam Việt Nam. Điều này đã ảnh hưởng khơng nhỏ tới tình hình kinh tế nước ta, đặc biệt là lĩnh vực cơng nghiệp. Về phía Trung Quốc, từ sau ngày giải phóng do nhiều diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, nguồn này giảm mạnh và đến năm 1977 thì chấm dứt hồn tồn.

Sự viện trợ của các nước XHCN khác cũng giảm sút về mặt hiện vật. Từ năm 1978, Việt Nam tham gia Hội đồng Tương trợ Kinh tế (khối SEV), phải chấp nhận mọi thiết chế kinh tế của khối đó, trong đó có thiết chế về giá.

Với một quốc gia vừa mới thoát khỏi chiến tranh, sự giảm sút và chấm dứt viện trợ từ các nước XHCN là một cú sốc lớn với nền kinh tế còn quá yếu ớt.

Nền cơng nghiệp miền Bắc có những hạn chế đáng kể: các ngành cơng nghiệp nặng then chốt cịn nhỏ yếu, phát triển thiếu đồng bộ, chưa đủ khả năng trang bị hiện đại hoá cho các ngành kinh tế quốc dân. Đặc biệt, công nghiệp phát triển chưa gắn bó phục vụ tốt cho nơng nghiệp; sản xuất chưa ổn định, chưa có cơ sở nguyên liệu trong nước vững chắc; chưa tạo được tích luỹ và chưa có thị trường cho các sản phẩm của mình, nhất là cơng nghiệp nặng; trình độ quản lý cịn thấp và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hơn nữa cơ chế này lại bị chiến tranh kéo dài, làm cho sâu sắc thêm những nhược điểm cố hữu của nó.

Ở miền Nam có sự phát triển nhất định của cơng nghiệp, tuy nhiên còn nhỏ bé, thiếu cân đối, nhất là thiếu các ngành cơng nghiệp nặng

Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tháng 12-1976 đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối phát triển công nghiệp nước ta trong giai đoạn mới như sau: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng”.

9

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

2.3 Những bước phá rào trong lĩnh vực công nghiệp thời kỳ trước đổi mới (1975-1986)

2.3.1 Bước đột phá thứ nhất

2.3.1.1 Những bước phá rào từ địa phương Xí nghiệp Dệt Thành Cơng Thành phố Hồ Chí Minh

Xí nghiệp Dệt Thành Cơng Thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc là một xí nghiệp dệt tư nhân tên là Tái Thành Kỹ nghệ, được chủ hiến cho Nhà nước sau ngày giải phóng miền Nam. Từ đó, nó do Bộ Cơng nghiệp nhẹ quản lý. Đây là một xí nghiệp dệt lớn, được trang bị hiện đại nhất nhì ở miền Nam trước năm 1975. Khi tiếp quản, thiết bị của xí nghiệp gồm 136 máy dệt thoi với gần 20 ngàn cọc sợi, 9 máy đan kim, 4 máy nhuộm cao áp, 4 máy nhuộm ớ nhiệt độ thường, 2 máy định hình. Cơng suất khoảng 4 triệu mệt vải/năm. Số lao động khoảng từ 400 đến 500 người. Toàn bộ nguyên vật liệu (sợi tổng hợp, hóa chất, thuốc nhuộm), phụ tùng thay thế đều phải nhập từ thị trường tư bản. Mặt hàng truyền thống là oxford, poly soir, sandcrep. . . Sản phẩm được tiêu thụ tại thị trường miền Nam và một phần vào thị trường Campuchia. Mấy năm sau giải phóng, xí nghiệp vẫn cịn hoạt động tương đối bình thường. Nhưng từ năm 1978, xí nghiệp bắt đầu lâm vào tình trạng thiếu đầu vào do đó giảm sút đầu ra. Cũng như mọi xí nghiệp miền Nam khác, trước đây mọi nhu cầu về nguyên liệu, hóa chất, thuốc nhuộm, phụ tùng, máy móc của xí nghiệp đều phải nhập bằng ngoại tệ mạnh, mà trong quan hệ với thị trường thế giới lúc đó thì việc này khơng có gì khó khăn. Từ năm 1978, do hàng loạt điều kiện trong nước và điều kiện quốc tế, toàn bộ nền kinh tế Việt Nam đi vào giai đoạn khủng hoảng thiếu hụt. Nguồn nhập khẩu giảm sút. Nguồn hàng nhập khẩu giảm thì đầu vào cho các ngành sản xuất cũng cạn kiệt. Đến năm 1980, Nhà nước chỉ cung cấp cho nhà máy khoảng 40- 50% nguyên liệu so với kế hoạch, có thứ thì chỉ được 20%. Do đó, đầu ra cũng giảm sút tương ứng. Sản lượng từ 4,2 triệu mét năm 1979 xuống còn 2,5 triệu mét năm 1980. Sản xuất tê liệt, máy móc bị mạng nhện giăng đầy, 500 cơng nhân khơng có việc làm. Theo quy định thì nghỉ việc cũng được hưởng 75% lương, nhưng xí nghiệp không đào đâu ra tiền để trả cho người khơng có việc. Nhà máy đứng trước nguy cơ phải đóng cửa. Cơng nhân và cán bộ của nhà máy đã nghĩ đến biện pháp tự cứu mình. Nhưng muốn tự cứu thì trước hết phải có ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu.

Sau ngày giải phóng, thành phố Sài Gịn có khoảng 4 triệu dân. Một, hai năm sau đó, khoảng nửa triệu người được đưa đi vùng kinh tế mới. Nhưng muốn tự cứu thì trước hết phải có ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu.

10

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.

được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta cịn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.

Cơ cấu nền kinh tế

Chú trọng chủ yếu là vào nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đã xuất hiện nhưng chưa phát triển.

Phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp - dịch vụ.

Tác động Nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng, khơng có cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ của khoa học kĩ thuật, triệt tiêu động lực kinh tế của người lao động, khơng kích thích được tính năng động, sáng tạo của đơn vị sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ này, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu, coi thị trường chỉ là công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch.

Nền kinh tế trở nên năng động và phát triển hơn, cạnh tranh mạnh mẽ và gay gắt tuân theo quy luật vốn có của thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh; doanh nghiệp cũng như người lao động có cơ hội thể hiện khả năng, năng lực, cũng như sự sáng tạo của bản thân.

Hạn chế

1. Quá trình đổi mới tư duy kinh tế, tư duy lý luận của Đảng trong những năm qua vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới cũng như chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn, nhất là việc cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách, cộng với sự lúng túng, chậm trễ trong lý luận về kinh tế thị

19

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

trường định hướng XHCN, đã cản trở sự đổi mới trên thực tế. Một số vấn đề lý luận cơ bản về định hướng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực ngoài kinh tế, chưa thật sự sáng rõ.

2. Việc phân bổ, sử dụng các nguồn lực còn kém hiệu quả, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư dàn trải, thậm chi gây ra sự lãng phí các nguồn lực, chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế của các ngành, vùng. Chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển.

3. Nhận thức về vai trò của hệ thống giá cả thị trường và cạnh tranh tự do trong nền kinh tế thị trường không rõ ràng, thể hiện qua thái độ đối với tình trạng độc quyền trong một số lĩnh vực của nhiều DNNN.

2. 3. 2 Bước đột phá thứ hai ThSc trạng

Sản xuất chưa ổn định, còn mất cân đối nghiêm trọng, nhất là về năng lượng, nguyên liệu, phụ tùng. Đất, rừng, biển, lao động và các năng lực sản xuất hiện có mới được sử dụng ở mức thấp. Năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, xây dựng và vận tải cịn kém, tình trạng lãng phí, tham ơ trong quản lý vật tư và sản phẩm rất nghiêm trọng.

Phân phối, lưu thông có một số tiến bộ trong thu mua lương thực và nơng sản khác, song có nhiều diễn biến xấu: ngân sách và tiền mặt bội chi lớn; thị trường rối loạn, giá cả biến động mạnh; công tác quản lý còn lỏng lẻo ở ngay trong khu vực quốc doanh và thị trường có tổ chức, nạn đầu cơ, buôn lậu phổ biến; tiền lương cơ bản ngày càng giảm ý nghĩa thực tế, đời sống của công nhân, cán bộ, nhất là trong khu vực hành chính, sự nghiệp và của bộ đội, cơng an rất khó khăn. Phân phối, lưu thông là nơi biểu hiện tập trung cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, đồng thời là lĩnh vực mà kẻ thù bên ngoài câu kết với bọn phản động bên trong xoáy vào để phá hoại ta. Sự yếu kém và sơ hở trong phân phối, lưu thơng đang làm trầm trọng thêm những khó khăn của nền kinh tế.

2.3.2.1 Những bước phá rào từ địa phương Nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội

Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội vốn là Nhà máy Thuốc lá J. BASTOS. Đó là nhà máy thuốc lá đầu tiên của Pháp ớ Việt Nam, được thành lập ở Sài Gòn từ năm 1936. Cho đến trước năm 1975, nhà máy vẫn do chủ Pháp quản lý. Trong thời kỳ 1946-1954, nhà máy đã liên kết với hãng thuốc lá MIC thành một hiệp hội, cùng bắt tay nhau thống lĩnh, thao túng thị

20

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

trường thuốc lá ở Việt Nam, cùng hợp tác giải quyết những vấn đề liên quan đến việc cung ứng nguyên liệu, vật tư, phụ tùng thay thế, thiết bị nhập khẩu, thuế, giá bán, chi phí sản xuất, quảng co, cạnh tranh. Ngày 19/09/1976, hãng J. BASTOS chính thức được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản và đến ngày 01/01/1978, được đổi tên thành Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội. Từ đây, nhà máy đi vào hoạt động theo phương thức, nội dung hồn tồn mới về bản chất: Cơng nhân được làm chủ tập thể, sản xuất nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đây cũng là khoảng thời gian nhà máy bắt đầu gặp nhiều khó khăn về vật tư, vốn. Nhà máy chỉ sản xuất cầm chừng nhờ vào lượng vật tư dự trữ ít ỏi cịn tồn lại từ trước. Nếu nhìn vào diễn biến của sản lượng trong 3 năm 1975-1977 thì thấy rằng mức độ sa sút của nhà máy còn trầm trọng hơn mức độ sa sút chung của toàn nên kinh tế.

Nguồn nguyên liệu của nhà máy trước đây chủ yếu dựa vào nhập khẩu, nay khả năng nhập khẩu hầu như khơng cịn. Trong khi ngoại tệ để nhập khẩu những thứ tối cần thiết cho quốc kế dân sinh cịn chưa đủ, thì lấy đâu ra ngoại tệ để nhập đầu lọc, giấy thuốc, sợi thuốc!

Nguồn thuốc lá trong nước khơng phải là khơng có. Nhưng cơ chế kinh tế cả trong sản xuất lẫn trong thu mua đều góp phần làm cho nguồn cung cấp này ngày càng teo lại. Sản xuất thuốc lá phải đưa vào hợp tác xã. Cịn thu mua thì phải theo giá chỉ đạo. Vật tư đối lưu thì khơng đủ. Hậu quả mà nhà máy phải gánh chịu: Không cR nguyên liệu.

Do cơ chế quản lý thay đổi một cách đột ngột. Theo cơ chế cũ, thì hiệu quả kinh tế và lợi nhuận là lý do tồn tại của nhà máy. Bất cứ những gì có thể góp phần phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, làm ra lợi nhuận là được nhà máy sử dụng tới mức tối đa. Cịn theo cơ chế mới, từ ngày tiếp quản, thì mục đích tối cao khơng phải là lợi nhuận, mà là những nguyên lý của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa: Tính chất xã hội của sản xuất, sở hữu xã hội chủ nghĩa, làm chủ tập thể, chống bóc lột, chống lệ thuộc, chống chạy theo kinh tế thị trường. Với cơ chế đó, văn bản thì nói rằng cần kích thích tính năng động của xí nghiệp, nhưng trong thực tế thì có vơ số quy chế làm tê liệt dần mọi sự năng động. Xí nghiệp được đặt vào Liên hiệp Xí nghiệp. Liên hiệp Xí nghiệp lại lệ thuộc vào Bộ Cơng nghiệp nhẹ. Bộ Công nghiệp nhẹ lại nằm trong Chính phủ và lệ thuộc vào các nguồn cung ứng vật tư của ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Vì thế mà cứ chờ nhau, anh này nhìn anh kia. Xí nghiệp khơng có quyền chủ động trong việc tìm kiếm vật tư, nguyên liệu, thị trường. Trong tình trạng cung nhỏ hơn cầu thì cần gì sáng tạo ra những mẫu mã mới, mặt hàng mới để chiếm lĩnh thị trường. Đến năm 1979, cũng như tình hình chung trong cả nước, số phận kinh tế nhà máy đã xuống đến đáy

21

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

vực. Trước hết, xí nghiệp tìm cách bươn chải để kiếm nguyên liệu trong nước bằng nhiều biện pháp khác nhau: Nhà máy đã thành lập một công ty con, mang tên SOVITAB, chuyên lo gieo trồng và thu mua thuốc lá. Lãnh đạo nhà máy còn tổ chức đưa bớt công nhân tham gia trồng thuốc lá ở sơng Ray (Long Khánh). Nhà máy cử các tốn công nhân đến các vùng sâu vùng xa, trực tiếp thu mua mọi loại nguyên liệu thuốc lá sẵn có của nơng dân, kể cả thuốc lá cịn xanh, tươi. Nhà máy còn phải hướng dẫn cách sơ chế cho nông dân. Những cố gắng kể trên rất đáng khích lệ, nhưng nó chỉ có thể khắc phục một phần nào sự giảm sút về số lượng, chứ không thể nào khắc phục được sự sa sút về chất lượng Với những nguồn nguyên liệu như thế, chất lượng thuốc lá giảm nghiêm trọng.

Từ năm 1979, ngành Thuốc lá Việt Nam đứng trước một thách thức rất lớn. Nhiều nguồn thuốc lá khác nhau được nhập lậu vào Việt Nam. Thủy thủ các tàu VOSCO, cán bộ, học sinh, sinh viên và công nhân đi lao động ở nước ngoài, đặc biệt là qua con đường biên giới Lào và Campuchia, các loại thuốc lá: SAMIT của Thái Lan, A Lào của Lào đã tràn vào thị trường Việt Nam. Bất chấp ý chí của những nhà quản lý, người tiêu dùng vẫn hút những loại thuốc lá này. Điều đó có nghĩa là một nước đang thiếu thốn vàng và ngoại tệ, hằng năm lại phải "chảy máu vàng" để nhập những loại thuốc lá đó về. Trong khi đó thì những nhà máy thuốc lá trong nước có đủ khả năng sản xuất loại thuốc lá này thì lại khơng có nguyên liệu để sản xuất, không được nhập nguyên liệu về để tổ chức sản xuất! Càng không được dùng ngoại tệ nhập khẩu để sản xuất thuốc lá cao cấp!

Sự vơ lý đó dần dần đã được cơ sở nhận thức: Tại sao tư thương có thể tung vàng và ngoại tệ để nhập thuốc lá về lấy lãi, mà chúng ta không thể kiếm ngoại tệ để tổ chức sản xuất trong nước? Nếu ta nhập được nguyên vật liệu chất lượng tốt, ta có thể đánh bại những mặt hàng nhập khẩu đó, chiếm lĩnh thị trường, lại cịn có thể tiêu thụ lấy ngoại tệ để phục hồi vốn ngoại tệ và quay vòng sản xuất? Với ý tưởng đó, Giám đốc nhà máy Lê Đình Thụy đã bàn với Đảng ủy xí nghiệp, và cũng được nhất trí cao. Sau đó, ơng tìm gặp các ông Nguyễn Văn Phi (Mười Phi) - Giám đốc Imexco Saigon, Nguyễn Nhật Hồng - Giám đốc Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh đặt vấn đề này và cũng được cả hai đồng tình ủng hộ. Cả Giám đốc Imexco Saigon và Giám đốc Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh đều là những cán bộ cách mạng lâu năm, đồng thời lại rất am hiểu thị trường quốc tế, có nhiều quan hệ với thị trường này. Con đường đi từ xí nghiệp tới Vietcombank, từ Vietcombank tới Sở Ngoại thương, từ Sở Ngoại thương tới Chonimex từ Chonimex tới các chủ hàng ở nước ngoài mất vài tháng. Đó là tốc độ nhanh nhất có thể vào thời kỳ đó. Khi hàng về tới nơi thì đã giữa tháng 11. Nhưng đó cũng là quyết tâm của xí nghiệp, của Thành ủy. Xí nghiệp đã họp bàn và đề ra tất

22

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

cả những việc cần thiết để đảm bảo kế hoạch này. Như đã hứa với Bí thư Thành ủy, Giám đốc Lê Đình Thụy đã tính tốn rằng khi có nguyên liệu, vật liệu, có thể tổ chức sản xuất hết cơng suất và trong tháng 12 vẫn có thể hoàn thành được nhiệm vụ. Tất nhiên, để hồn thành nhiệm vụ nặng nề đó phải tổ chức lại khâu sản xuất, phải áp dụng một chế độ tiền lương mới, phải tổ chức các khâu cung ứng, đời sống, điện, nước, y tế. . . một cách tối ưu. Ngày 29/11/1980, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt đã trực tiếp đến phát động chiến dịch một tháng sản xuất 62 triệu bao. Đến ngày 30 tháng 11, bộ máy điều hành chiến dịch đã hình thành. Giám đốc Lê Đình Thụy được cử làm Tổng Chỉ huy chiến địch. Ông đưa ra ba phương châm của một tháng hành động: Gọn nhẹ, năng động, giải quyết kịp thời và hiệu quả mọi vấn đề phát sinh trong sản xuất. Khi đã có đủ ngun vật liệu thì vấn đề tổ chức sản xuất và phục vụ sản xuất có ý nghĩa quyết định công nhân, số máy và số thời gian lao động được tính tốn một cách hợp lý để đảm bảo khơng có chiếc máy nào khơng có thợ điều khiển, khơng có người lao động nào khơng có máy làm việc. Khi người và máy hoạt động thì khơng để mất điện, khơng thiếu ngun liệu. Sản phẩm làm ra được đóng gói kịp thời. Các khâu vệ sinh, ánh sáng, thơng gió được đảm bảo. Bữa ăn của cơng nhân được chăm sóc chu đáo, đảm bảo được ăn no, ăn ngon miệng. Ốm đau, mệt mỏi có thầy thuốc chăm sóc, thuốc thang khơng để thiếu. . . . Vì được hưởng theo năng suất lao động nên khơng cịn tình trạng đi muộn, về sớm. Ngược lại, cơng nhân thường đến trước giờ làm việc, đợi xí nghiệp mở cửa thì chạy ùa vào đứng máy để làm sao đảm bảo định mức cho mỗi buổi. Hết giờ lao động, nếu ai chưa đạt định mức thì cịn làm thêm để hoàn thành hoặc hoàn thành vượt định mức mới ra về. Trong suốt thời gian một tháng của chiến dịch, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt thường xuyên gọi điện thoại xuống theo doi sát sao tình hình và kịp thời giải quyết những vấn đe liên quan đến cấp thành phố. Hằng tuần, ông xuống tận nơi xem xét tình hình, cùng với ban chỉ huy chiến dịch bàn bạc những biện pháp cần thiết để đảm bảo tiến độ. Vì hai Nhà máy Thuốc lá MIC Sài Gòn và Vĩnh Hội được phân bố định mức đều nhau, mỗi bên 31 triệu bao cho chiến dịch một tháng, nên hai bên đã thi đua, động viên nhau cùng lao động. đến sáng sớm ngày 31 -12, cả hai xí nghiệp đã hoàn thành vượt mức kế hoạch với tống mức: 62. 462. 900 bao. Từ năm 1981, nhờ có đầy đủ nguyên vật liệu tốt, Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội đã tung ra thị trường hàng loạt mẫu mã thuốc lá chất lượng cao, trình bày đẹp, khơng kém thuốc lá nhập ngoại, giá lại rẻ hơn. Sau một thời gian không lâu, thuốc lá của nhà máy đã chiếm lĩnh thị trường, đẩy lùi dần những thuốc lá nhập lậu. Đặc biệt là trong cuộc chiến với thuốc lá Samit của Thái Lan, mặt hàng "Sài Gịn Xanh" có chất lượng tương tự, trình bày đẹp không kém, giá lại rẻ hơn đã chiến thắng. Từ đây nó cũng góp phần làm sáng rõ thêm một cách nhìn mới: Ngăn

23

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

chặn hàng ngoại nhập khơng chỉ đơn giản bằng cách cấm đốn, đánh thuế mà suy cho đến cùng, phải bằng một năng suất lao động cao hơn, chất lượng cao hơn, giá bán rẻ hơn.

2.3.2.2 Hội nghị TW 8 khoá V (tháng 6-1985) Hiện trạng:

Từ sau ngày giải phóng miền Nam, điều kiện kinh tế - tài chính của nước ta thay đổi căn bản: viện trợ khơng hồn lại hầu như khơng cịn nữa; số vốn vay dài hạn của các nước anh em và bè bạn để nhập khẩu nguyên liệu, nhiên liệu và hàng tiêu dùng bị giảm đi nhiều. Mặc dù chúng ta đã ra sức phát triển sản xuất trong nước, cố gắng đẩy mạnh xuất, nhập khẩu, và đã đạt được một số thành tựu đáng phấn khởi, nhất là từ năm 1981 trở đi, song số của cải do sản xuất trong nước tăng thêm vẫn chưa nhiều hơn số của cải từ các nguồn bên ngoài giảm đi. Hai cuộc chiến tranh xâm lược do bọn phản động . . . gây ra ở biên giới phía tây nam và phía bắc nước ta cùng những hoạt động phá hoại về nhiều mặt của chúng đã gây cho ta nhiều thiệt hại. Dân số lại tăng lên quá nhanh. Vì vậy, thu nhập quốc dân sử dụng bình quân đầu người, sau khi đã giảm đột ngột 20% năm 1975, vẫn tiếp tục giảm mỗi năm 2-3%. Trong khi đó thì nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng hơn trước, nhu cầu quốc phòng và chi về xây dựng cơ bản vẫn phải duy trì ở mức cao.

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước chưa kiên quyết và kịp thời sắp xếp lại sản xuất và xây dựng, định lại chính sách tài chính quốc gia, lấy nguồn động viên trong nước làm cơ sở; xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu - bao cấp để chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. . . Do bảo thủ, quan liêu, thiếu nhạy bén, chỉ đạo, điều hành có nhiều khuyết điểm, tư tưởng ỷ lại vào viện trợ từ bên ngồi cịn nặng, nên chúng ta đã chậm đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế.

Từ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV (tháng 9-1979), Đảng và Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, chính sách về sản xuất và phân phối lưu thông; một số ngành, địa phương và cơ sở đã mạnh dạn áp dụng những cách làm mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy mạnh thu mua nắm hàng, cải thiện một bước nền tài chính quốc gia, giải quyết một số vấn đề cấp bách về giá và lương. Tuy nhiên, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về vấn đề phân phối lưu thơng cịn có những mặt hạn chế rất cơ bản. Từ tình hình trên, cần rút ra bài học bao trùm là: phải dứt khoát xoá bỏ tập trung quan liêu - bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

24

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Mục tiêu

Căn cứ vào tình hình nói trên và nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đề ra, việc giải quyết các vấn đề giá lương -tiền phải nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:

Thúc đẩy sản xuất phát triển theo cơ cấu hợp lý (ngành, vùng, thành phần), khai thác mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, nhằm phát triển mạnh sản xuất với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.

Ổn định đời sống nhân dân lao động, trước hết là đời sống công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang. Nhà nước làm chủ sản xuất và phân phối lưu thông, làm chủ thị trường và giá cả; từng bước cân bằng ngân sách và tiền mặt.

Góp phần tạo dần nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, phát triển kinh tế gia đình.

Góp phần tăng cường quốc phòng và an ninh, kiên quyết chống địch phá hoại; đấu tranh có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực.

Hiện nay, xoá quan liêu bao cấp trong giá và lương là yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế hoạch hoá, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong cả nước.

Nội dung của bước phá rào;

1. Tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm, giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ; xố bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù lỗ bất hợp lý. Thực hiện cơ chế một giá trong tồn bộ hệ thống giá, khắc phục tình trạng "thả nổi" giá cả cũng như việc định giá và quản lý giá cứng nhắc. Phân công, phân cấp hợp lý trong cơ chế quản lý giá, vừa bảo đảm quyền tập trung thống nhất của trung ương trong việc định giá những vật tư hàng hố chủ yếu có tính toàn quốc; vừa bảo đảm quyền chủ động, linh hoạt của địa phương và cơ sở về những vật tư và hàng hố có tính địa phương. Trên cơ sở định giá đúng và phân công, phân cấp hợp lý, phải tăng cường kỷ luật quản lý giá.

25

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

2. Tiền lương thực tế phải thực sự bảo đảm cho người ăn lương sống chủ yếu bằng tiền lương, tái sản xuất được sức lao động và phù hợp với khả năng của nền kinh tế quốc dân. Gắn chặt tiền lương với năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, thực hiện phân phối theo lao động. Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm, xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá. Thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước có tính đến sự khác biệt hợp lý giữa các vùng, các ngành; ưu đãi thoả đáng các ngành nghề nặng nhọc, độc hại, có yêu cầu nghiệp vụ, kỹ thuật cao, các ngành giáo dục, y tế, văn hoá, nghệ thuật.

3. Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành kinh tế - kỹ thuật, các địa phương và đơn vị cơ sở gắn liền với sửa đổi cơ chế kế hoạch hoá và quản lý. Chuyển hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bắt đầu ngay từ kế hoạch hoá. Tất cả các tổ chức kinh tế phải tự chịu trách nhiệm về lời - lỗ của mình; xố bỏ mọi khoản bù lỗ bất hợp lý của ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương) về các hoạt động sản xuất - kinh doanh. Trường hợp có bù lỗ chỉ là cá biệt, tạm thời và phải được xem xét thật nghiêm ngặt. Xoá bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương và địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan; phấn đấu tích cực thực hiện cân bằng ngân sách trong thời gian ngắn; tạo điều kiện cho ngân sách địa phương có nguồn thu ổn định và phát triển.

4. Nhanh chóng chuyển hẳn cơng tác ngân hàng sang hạch tốn kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện tốt nhất cho các ngành, địa phương, đơn vị cơ sở thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy hiệu quả kinh tế của đồng vốn làm tiêu chuẩn hàng đầu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Để làm chủ sản xuất, làm chủ thị trường, làm chủ phân phối - lưu thơng, cần chủ động kế hoạch hố phát hành, phấn đấu sớm chấm dứt lạm phát cho chi tiêu ngân sách. Trong tình hình kinh tế đang chuyển biến, chưa ổn định, cuộc điều chỉnh lớn và toàn diện về giá - lương - tiền lần này phải tiến hành khẩn trương, kiên quyết, nhưng phải tính toán kỹ lưỡng các phương án vững chắc gắn với việc xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới.

Các chủ trương và việc tổ chức thực hiện ngay trong mỗi bước phải đồng bộ, quán triệt quan điểm xoá bỏ quan liêu bao cấp. Phải dự kiến được mặt tích cực, đồng thời phải lường trước những hệ quả kinh tế, chính trị và xã hội bất lợi nhất thời có thể xảy ra để có biện pháp tích cực đề phịng và khắc phục.

26

</div>

×