Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.26 MB, 89 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>BK OS</small>
<small>(Dinh hướng nghiên cứu)</small>
<small>(Định hướng nghiên cứu)</small>
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thị Lan Anh
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cơng bố tỏ lịng cảm ơn và các thơng tin trích dẫn trong Luận văn đã <small>được ghi rõ nguôn gôc.</small>
<small>TÁC GIÁ LUẬN VĂN</small>
<small>Nguyễn Phan Linh</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>của các thây cô giáo và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, đông nghiệp vàgia đình. Học viên xin được bày tỏ lịng biệt ơn tới các tô chức và các cá nhân</small>
<small>sau đây:</small>
<small>- Ban Giám hiệu; Ban chủ nhiệm Khoa Dao tạo Sau dai học — TrườngĐại học Luật Hà Nội;</small>
- C6 giáo PGS. TS. Vũ Thị Lan Anh, giáo viên hướng dẫn Luận văn này; - Ban lãnh đạo Cục thi hành án dân sự Thành phó Hà Nội.
- Ban lãnh đạo Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
Các thầy cô giáo, các đồng nghiệp và gia đình đã giúp tơi hoàn thành
<small>luận văn này.</small>
<small>Học viên</small>
Nguyễn Phan Linh
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>TTTM Trọng tài thương mạiTHADS Thị hành án dân sựTHA Thi hanh an</small>
VIAC Trung tâm trong tài quốc tế Việt Nam
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">1. Tính cấp thiết của đề tài...---s--<scscsecseseeseesesersesersessesers 1 2. Tinh hình nghiên cứu của đề tài...---- 5-2 se sese<sesesessesee 3 3. Mục dich, đối tượng và phương pháp nghiên cứu ... 4
<small>A. Kết cầu của Luận văn...---s--°s< 5° s sessessEssEseEsessessessesersersee 5CHUONG 1. MOT SO VAN DE LÝ LUẬN CƠ BẢN VE THI HANHPHÁN QUYET TRONG TÀI THUONG MẠI...--.- 5-5 5° 5s 7</small>
<small>1.1. Khái niệm trọng tài thương IẠÌ... o5 <5 5 55 959 55999 95 7</small>
1.2. Khái niệm, đặc điểm phán quyết trọng tài thương mại... 10 1.2.1. Khải niệm phán quyết trọng tài thương mại...--- 2-5 5s 55c: 10 1.2.2. Đặc điểm phán quyết trọng tài thương mạii...----s- +55 sse: 12 1.3. Khái niệm, các nguyên tắc, vai trò của thi hành phán quyết trọng
<small>CCE | i 14</small>
1.3.2. Nguyên tắc thi hành phán quyết trọng tài thương mại ...-. 16 1.3.3. Vai trò của thi hành phản quyét trọng tài ...-- c5 s5ss5s+ssc: 18 1.4. Những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả thi hành phán quyết trọng tài20
1.4.1 Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tranh CRAP _...ĂĂSĂ CS E111 2110111111111 Eerrreg 20 1.4.2. Truyền thong văn NOG? ...-- - 2-5 ©k+S+k‡E+E‡EEEEEEEEEEEEEEEEEkerkrreei 21 1.4.3. Mức độ hồn thiện cua hệ thống pháp luật ...--‹« 5s s<+<<<+2 21 1.4.4. Cam két qHỐC téseececccscessssessessessesssssssesesssssssssssssssssssssssssssnssessesesseees hs 1.4.5. Điễu kiện kinh tế xã hội ...-ccccccct series 22 <small>; 1.4.6. Năng lực của đội ngũ cán bộ TH ]Š... ...« 5s +++<++ss+s 23Ket luận Churong Í... 0< G55 6 5S 999 999 9999 9994.9905 96909 9698999986 23</small> CHƯƠNG 2. THUC TRẠNG PHÁP LUAT VÀ THUC TIEN THI HANH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VE THI HANH PHÁN QUYET TRỌNG TÀI THUONG MẠI VIET NAM...5--s-scsscsscsesse 25
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>trong tài thương mại VIỆT ÏNam... 0G G55 S9 95.99.0990 985959 45</small> 2.2.1. Tình hình thi hành quán quyết trọng tài thương mại...-. - 45 2.2.2. Hạn chế, khó khăn và nguyên nhân của hạn chế, khó khăn trong thi ; hành phán quyết Trọng tài thương ImqÌ ...--- --s-5s+ceck+xeteEerkerrrered 49 <small>Ket luận Churong 2 ... G55 6 S9 99 99. 999. 9.0.0 909099690996 586 55</small> CHUONG 3. MOT SO GIAI PHAP HOAN THIEN VA NANG CAO HIEU QUA THUC THI PHAP LUAT THI HANH PHAN QUYET TRONG TÀI THƯƠNG MẠI VIET NAM...---- 52s <<cses 56 3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về thi hành
<small>phán quyết trọng tài thương ImẠÌ... <5 5 5< s5 95055985 559 56</small>
3.1.1. Dam bảo tinh đồng bộ với các quy định pháp luật liên quan. ... 56 3.1.2. Đảm bảo nguyên tắc tự định AOA ccesecececcscssscscsvsvssssessssscsvsvsveveveseees 56 3.1.3. Đảm bảo tinh hội nhập quốc té và sự tương thích với Diéu ước QUOC ẲỂ... C52 SE EESEEE 1E E121 121111111121111.1111111.1111.111111.11 E111. n te 57 3.1.4. Đảm bảo tinh minh bạch, ồn định ...-:-c+c+cscscs: —... 58
<small>3.2. Một sơ giải pháp hồn thiện các quy định pháp luật vê thi hànhphán quyết trọng tài thương ImẠÌ... <5 55 5 S5 95.99555985 5ø 58</small>
<small>3.3. Một sơ giải pháp nang cao hiệu qua thi hành pháp luật về thi hànhphán quyết trọng tài thương ImẠÌ... o5 55 5 S5 95 5 95 5 985 959 62</small> 3.3.1. Giải pháp nâng cao nhận thức, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên làm công tác thi hành phán quyết TTTÌM...--- s+cs+ce+ss+sscsee 62 3.3.2. Giải pháp tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật vé thi hành phán quyết TTTTÌM... .- + + +k+‡E+k$EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEErkerrred 65 3.3.3. Giải pháp quảng bá, nâng cao vị thé các Trung tâm Trọng tài ... 66 9000.000777. ... 68
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, trọng tài thương mại, với tư cách là một cơ chế giải quyết tranh chấp ngồi tồ án, đã và đang góp phần khơng nhỏ vào sự ôn định của hoạt động thương mại trên thế ĐIỚI. Ở nước ta, tiễn trình hình thành và phát triển của trọng tài thương mại được thê hiện qua ba giai đoạn chủ yếu: giai đoạn sơ khai (trước năm 2003), giai đoạn chuyển tiếp (năm 2003 — 2010) và giai đoạn hội nhập (năm 2010 — nay). Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay đang trong giai đoạn phát triển với tốc độ nhanh chóng với sự tham gia của nhiều chủ thé khác nhau. Hệ quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế là những tranh chấp trong kinh tế nói chung, trong kinh doanh thương mại nói riêng, các tranh chấp này diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp về cả tính chất và quy mơ. Do đó, dé bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của các chủ thể tham gia cũng như đáp ứng được môi trường lành mạnh cần thiết cho phát triển kinh tế, cần phải có các phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp có hiệu quả. Đóng vai trị là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp phô biến trên thế giới bên cạnh các phương thức như thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu việt với khả năng bảo mật thông tin, mức độ linh hoạt cao giữa các bên có tranh chấp.
Giải quyết tranh chấp thương mại băng trọng tài thương mại là xu thế ngày càng phổ biến trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế. Trong hoạt động thương mại, tôn trọng quyên tự quyết định về tài sản, quyên lợi kinh tế là một trong những quyền quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp và Luật Trọng
tài thương mại đã khắc phục khá triệt dé những han ché cua hoat động giải
quyết tranh chấp trước đây, đảm bảo phù hợp với pháp luật trọng tài thương mại quốc tế. Vụ trưởng Vụ Bồ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) Đỗ Hoàng Yến cho <small>biệt: “Sô lượng xét xử các vụ án kinh tê của tồn ngành Tịa án những năm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">tranh chấp thương mại còn hồng ở nhiều chỗ. Nếu có tranh chấp thì việc phải đưa vụ việc ra tòa án là chuyện “cực chang đã” đối với tất cả các doanh nghiệp. Mà quan trọng là mắt uy tín với thị trường, với bạn hàng. Chưa biết <small>sự việc đúng sai ra sao, nhưng doanh nghiệp đã phải ra tịa an thì cơ hội hợp</small> tác với các doanh nghiệp khác sẽ bi ảnh hưởng it nhiều. Bên cạnh đó, thủ tục để giải quyết một vụ tranh chấp thương mại tại tòa án thời gian qua cũng khiến nhiều doanh nghiệp nản lòng bởi phải tốn nhiêu thời gian dé hoàn thiện các thủ tục, nhiều khi các vụ tranh chấp thương mại còn luân chuyên từ tòa kinh tế - tòa dân sự - tòa hành chính khiến cho doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.”". Trái ngược han với phương thức giải quyết tranh chap bằng con đường Tòa án, việc lựa chọn phương thức Trọng tài thương mại có thé “linh
<small>hoạt” trong việc tự do, lựa chọn hình thức trọng tài, lựa chon trọng tài viên,</small>
quyền lựa chon địa diém..., không những đảm bảo được bí mật giữa các bên có tranh chấp mà cịn giữ được uy tín với các bạn hàng, tránh được những sức ép từ bên ngồi, góp phần hạn chế tối đa những nguy cơ đến từ các tác động bên ngoài khiến phát quyết trọng tài thiếu khách quan.
Tuy có nhiều ưu điểm là vậy nhưng trên thực tế, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài dường như chưa thật sự được các chủ thé trong quan hệ kinh doanh thương mại ưu tiên lựa chọn khi có tranh chấp xảy ra. Nguyên nhân dẫn tới hạn chế này phan vi tâm lý của các thương nhân đều cho rằng các phán quyết của TTTM sẽ khơng có giá trị thực thi do vậy họ vẫn chưa lựa chọn sử dụng TTTM như là một trong những phương thức giải quyết các tranh chấp ưu thế so với tòa án. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do các quy định pháp luật thi hành phán quyết của Trọng tài hiện nay vẫn cịn chưa thích hợp, dẫn đến hiệu quả thi hành chưa cao. Phán quyết Trọng tài sẽ
<small>' truy cập ngày</small>
<small>10/7/2018</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">trực tiếp đến lòng tin của các thương nhân nói riêng, của các chủ thê tham gia nên kinh tế thị trường nói chung vào tính nghiêm minh của pháp luật.
Với những lý do trình bày nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình với mong muốn sẽ làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về lý luận cũng như thực tiễn thi hành các phán quyết của trọng tài thương mại Việt Nam, qua đó có những đề xuất xây dựng một cơ chế thi hành phán quyết Trọng tài thương mại phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Song hành cùng với sự phát triển của nền kinh tế, việc thi hành phán quyết của trọng tài là vấn đề khá phức tạp, nhận được nhiều sự chú ý, quan
<small>tâm, theo dõi từ phía các học giả, nhà nghiên cứu, giới luật g1a trong và ngoài</small>
nước, đặc biệt là các chuyên gia và những người làm công tác thực tiến.
Không nam ngoai xu thé đó, trên nhiều dién đàn, sách báo, tạp chí, các buổi
hội thao đã có nhiều bài viết, các buổi trao đổi, các cơng trình nghiên cứu về
<small>hoạt động Trọng tài thương mại. Tuy vậy, nhìn chung, các cơng trình, sách</small>
báo, bài viết này đều chỉ tập trung phân tích làm rõ các quy định chung của
<small>Trọng tài thương mại dưới giác độ lý luận hoặc thực trạng hoạt động của các</small>
trung tâm trọng tài ở Việt Nam hay những hạn chế bất cập của pháp luật về Trọng tài thương mại, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản đề hồn thiện. Bên cạnh đó, đã có nhiều cơng trình về Trọng tài và giải quyết tranh chấp bang trọng tài mà tiêu biểu là các cơng trình: “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - Thực tiên hoạt động của các trung tâm trọng tài thương mại trên địa bàn thành pho Hà Nội ”¬ luận van thạc si luật hoc cua Nguyễn Mạnh Linh năm 2015; “Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, <small>thương mại bang trọng tài và toà án đưới góc độ so sánh ”¬ luận văn thạc sĩ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">thạc sĩ luật học của Lê Thị Nhàn năm 2012; “G/ảá¡ quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam ” — luận văn thạc sỹ luật học của Trần Thị Thắm năm 2013; “N;ững nguyên tắc giải quyết tranh chap bằng trong tài thương mại ” — luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Hiền năm 2013. Tuy vậy, các cơng trình này chỉ tập trung chủ yếu vào phân tích, nghiên cứu cơ cau tơ chức và hoạt động của Trọng tài, cách thức, thâm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, còn vẫn đề pháp luật về thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại Việt Nam ít được đề cập tới, hoặc có nhưng đã khơng cịn phù hợp với tình hình thực tế vốn có nhiều biến động như hiện nay. Về cơ bản pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài vẫn chưa được thực sự quan tâm và như vậy cho đến nay, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu cơ sở lý luận một cách cơ bản và tồn diện về vấn đề này.
3. Mục đích, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, lập luận dé làm rõ một số van dé lý luận và thực tiễn về pháp luật thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt Nam, mục đích của luận văn là đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại và bảo đảm hiệu quả hoạt động thi hành phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay nhằm tạo một hành lang pháp lý an toàn chung, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh, hướng các quan hệ kinh doanh phát triển tích cực, đặt chúng trong mối quan hệ hài hịa với lợi ích chung của nên kinh tế - xã hội.
Đề đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận văn này bao gồm: a) Nghiên cứu, làm rõ khái niệm và các đặc điểm của phán quyết trọng
tài; những van dé lý luận về thi hành phán quyết trọng tài thương mại b) Phân tích thực trạng quy định pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài
thương mại về trình tự, thủ tục thi hành phán quyết trọng tài thương
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">chế nhằm đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt Nam.
c) Phân tích thực trạng thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt Nam hiện nay, những hạn chế, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành phán quyết Trọng tài thương mại, làm rõ những nguyên nhân của thực trạng nói trên dé từ đó dé xuất các giải pháp nâng cao hiệu qua thực thi pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mai.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại và thực tiễn thi hành phán quyết Trọng
<small>tài thương mại ở Việt Nam hiện nay. Pham vi nghiên cứu giới hạn ở các quy</small>
định hiện hành về Trọng tài thương mại, chủ yếu được ghi nhận tại Luật TTTM 2010, Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đôi bố sung năm 2014.
<small>Phương pháp nghiên cứu</small>
Luận văn được triển khai trên cơ sở phương pháp luận của triết học Macxit chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lich sử, kết hop các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê, điều tra, phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo cứu tài liệu... để làm sáng tỏ các khía cạnh của vấn đề pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt
<small>4. Kêt cầu của Luận văn</small>
Ngoài phần mở dau, kết luận, danh mục tai liệu tham khảo, Luận văn có nội dung được chia thành 3 chương, cụ thé như sau:
Chương 1: Một số van dé co bản về thi hành phán quyết trọng tai
<small>thương mại</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">TRONG TAI THUONG MAI
<small>1.1. Khái niệm trong tài thương mai</small>
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó bên mua và bên bán thiết lập quan hệ với nhau theo quy luật cung cau, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Doanh nghiệp cũng là chủ thể cấu thành của nền kinh tế, chúng được thành lập và hoạt động dưới nhiều hình thức da dạng phong phú như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phan hay công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hai thành viên trở lên... Nhằm đáp ứng được nhu cau phát triển kinh tế, sự liên kết giữa các doanh nghiệp này ngày càng trở nên phô biến với những giao kết thương mại mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Tuy vậy, bên cạnh những giao dịch “thudn bm xi gió ”, vẫn ln tiềm an những nguy cơ gây phát sinh mâu thuẫn, bat đồng giữa các bên dẫn tới các tranh chấp thương mại. Tranh chấp thương mại có một số đặc điểm như được phát sinh từ hoạt động thương mại — hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiễn thương mại...; chủ thể chủ yếu là các thương nhân; nội dung là những
mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về lợi ích vật chất của các bên trong hoạt động
thương mại, thường là giá trị vật chất với giá trị lớn mà các bên hướng tới. Trên thực tế, có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp thương mại như giải quyết bằng phương thức hòa giải, thương lượng, trọng tài hay tịa án. Mỗi phương thức đều có ưu, — nhược điểm riêng. Nếu phương thức giải quyết tranh chấp bang tịa án mang tính quyền lực Nhà nước, — quyền tư pháp, — biện pháp mà cực chang đã các bên mới lựa chọn dé bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì dường như phương thức giải quyết tranh chấp bang trọng tài thương mại lại linh hoạt, kín đáo và được nhiều bên tranh chấp lựa chọn. Trên thế giới, Trọng tài thương mại là một khái niệm “than thuộc ”
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">trường, “Trọng tài là một phương thức giải quyết một cách hịa bình các vụ tranh chap. Là chỉ đơi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những van đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách cơng bằng, chính trực xét xử, phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên ””. Còn
<small>theo Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ: “7rọng tài thương mai là cách thức giải</small>
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người xem xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt GO Việt Nam, pháp luật tiếp cận khái buộc các bên tranh chấp phải thi hành
niệm “Trọng tài” là một phương thức giải quyết tranh chấp như hầu hết pháp luật các nước nhưng sử dụng thuật ngữ “Trọng tài thương mại” để gọi tên cho phương thức này. Khoản 1, Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (sau đây gọi tat là Luật LTTTM ) quy định “L7TT7M là phương thứcgiải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiễn hành theo quy định cua Luật
<small>này ”.</small>
Bên cạnh phương diện là phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại còn được hiểu là cơ quan giải quyết tranh chấp. Với cách hiểu này, trọng tài sẽ bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa họ hoặc trọng tài là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp để xét xử. Về mặt tổ chức, Trọng tài có thé là <small>các trung tâm trọng tài thương mại — các cơ quan chuyên biệt hoạt động</small> thường xuyên, có trụ sở làm việc, danh sách trọng tài viên và điều lệ hoạt động riêng của mình hoặc chỉ là cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập theo vụ việc và tự giải tán sau khi hoàn thành việc giải quyết tranh chấp
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">quyết tất cả các tranh chấp thương mại gồm: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài (Điều 2, Luật TTTM). Khi các bên tham gia tranh chấp đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các chủ thé này có quyền lựa chọn giải quyết tranh chấp này tại trong tai thường trực (quy chê) hoặc trong tài vụ việc.
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập dé giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và Trọng tài sẽ tự cham dứt sự ton tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Bản chất của Trọng tài vụ việc được thé hiện qua các đặc trưng cơ bản như: Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự cham dứt hoạt động (tự giải thé) khi giải quyết xong tranh chấp; Trọng tài vụ việc khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ máy điều hành (vì chỉ được thành lập dé giải quyết vụ tranh chấp
<small>theo sự thỏa thuận của các bên) và khơng có danh sách Trọng tài viên riêng.</small>
Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ định có thê là người có tên trong danh sách Trọng tài viên của bất cứ trung tâm nào hoặc không phải là trọng tài viên của trung tâm nào; Trọng tài vụ việc khơng có quy tắc tố tung dành riêng cho mình. Trọng tai quy chế là hình thức giải quyết tranh chap tại <small>trung tâm trọng tài thành lập theo quy định của Luật trọng tài thương mại.</small> Theo pháp luật về TTTM, Trọng tài quy chế được tổ chức dưới dạng các
<small>Trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, có chức năng</small>
tổ chức, điều phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và hỗ trợ Trọng tài viên về các mặt hành chính, văn phịng và các trợ giúp khác trong quá trình tố tụng Trọng tài.Trung tâm TTTM được thành lập theo sáng kiến
<small>của các Trọng tài viên, sau khi được sự cho phép của cơ quan Nhà nước có</small>
thâm quyền, do đó, khơng nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước. Hoạt động
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">của Trung tâm TTTM dựa trên nguyên tắc tự trang trải trên cơ sở thu phí từ các vụ giải quyết tranh chấp chứ khơng được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước. Phán quyết của trọng tài không nhân danh quyền lực Nhà
1.2. Khái niệm, đặc điểm phán quyết trọng tài thương mại 1.2.1. Khải niệm phan quyết trọng tài thương mại
Khi các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài đối với việc giải quyết tranh chấp giữa các bên,một bên khởi kiện tại trọng tài và Trọng tải sẽ thụ lý để giải quyết theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật về TTTM quy định. Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp (gọi là tố tụng trọng tài), TTTM sẽ đưa ra quyết định giải quyết vụ việc dé các bên thi hành.
Dưới giác độ ngôn ngữ hoc, Từ dién tiếng Việt nêu rõ phán quyết được hiểu là “quyết định dé mọi người phải tuân theo” hay theo Dai từ điển kinh tế thị trường, “phán quyết trọng tài là quyết định mà trọng tài viên hoặc cơ quan trọng tài, theo trình tự luật định, sau khi xét xử, đưa ra đối với vụ việc đôi bên đương sự tranh chấp”.
Dưới giác độ luật học, để hiểu phán quyết trọng tài thì trước hết cần làm rõ các loại quyết định của trọng tài. Các quyết định trong tài có thé được phân thành ba loại đó là: quyết định cuối cùng, quyết định từng phần và tạm
thời, và quyết định dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên. Quyết định cuối
cùng là quyết định do hội đồng trọng tài ban hành, giải quyết mọi vấn đề (hoặc các vấn đề còn lại) đã được đưa ra trọng tài. Quyết định từng phần và tạm thời là quyết định do hội đồng trọng tài ban hành dé giải quyết một hoặc một số vấn đề riêng rẽ trong quá trình trọng tài trước khi ban hành quyết định cuối cùng. Quyết định trên cơ sở thỏa thuận là quyết định do hội đồng trọng tài đưa ra trên cơ sở thỏa thuận hòa giải mà các bên tranh chấp đạt được trong
<small>* Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa, 2010, tr. 8095 Viện nghiên cứu và phô biên tri thức Bách Khoa, Đại từ dién kinh tê thi trường, 1998, tr.850</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">khi đang tiến hành tố tung trọng tài.” Về co ban, quyết định trong tài cuối cùng sẽ được đưa ra sau cùng, sẽ giải quyết hết tất cả các mâu thuẫn, xung đột đang tồn tai, là kết quả của quá trình tố tụng trọng tài đồng thời chấm dứt thâm quyền của hội đồng trọng tài bởi khi quyết định cuối cùng được ban hành, hội đồng trọng tài sẽ hết trách nhiệm và đã hồn thành nhiệm vụ của mình. Theo luật mẫu UNICITRAL, quyết định của hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tung trọng tài được gọi là phán quyết trọng tài. Trong khi đó Cơng ước New York — Công ước điều chỉnh việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài đưa ra định nghĩa: “Thuật ngữ các phán quyết trọng tai bao gồm không chỉ những phán quyết dua ra bởi các trọng tài được chỉ định cho từng vụ mà con bao gom cac phan quyết dua ra bởi các tổ chức trọng tài thường trực được các bên dua vụ việc ra giải quyết ”.
Ở Việt Nam, về khái niệm phán quyết Trọng tài, trong q trình tiếp thu các ý kiến góp ý để chỉnh lý, hồn thiện Luật TTTM, có ý kiến đề nghị không sử dụng khái niệm “Phán quyết Trọng tài” mà dùng khái niệm “Quyết định Trọng tài”. Tuy nhiên, trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật TTTM số 320/BCUBTVQHI2 ngày 12/5/2010, Ủy ban thường vụ
Quốc hội nhận thấy, “trong quá trình t6 tung Trọng tài, Hội đồng Trọng tài có
thâm quyền ban hành các quyết định về tố tụng, quyết định áp dụng biện pháp khân cấp tạm thời, quyết định giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và cham dứt tố tung trọng tài. Các quyết định nêu trên được gọi chung là quyết định Trọng tài và được thi hành và điều này trái với quy định của các nước trên thế giới về các quyết định của Hội đồng trọng tài. Vì vậy, Uy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng việc sử dụng khái niệm “Phán quyết Trọng tài” trong dự thảo Luật là “để phân biệt giữa phản quyết cudi cùng của vụviệc với các quyết định khác của Hội đồng trọng tài ”.Vì thé, tại Khoản 10, Điều 3 Luật
<small>° Nguyễn Thị Phượng (2013), Hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc</small>
<small>sỹ luật học, tr. 7</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">TTTM năm 2010 quy định “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội dong TTTM giải quyết tồn bộ vụ tranh chấp và cham dứt tơ tung trọng tài buộc các bên tranh chấp phải thực hiện ”.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm: Phán quyết TTTM là quyết định của Hội đồng TTTM băng văn bản giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp thương mại giữa các bên tranh chấp và cham dứt tơ tụng trọng tai, có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
1.2.2. Đặc điểm phản quyết trọng tài thương mại.
Phán quyết TTTM (sau đây gọi tắt là phán quyết trọng tài) mang một
<small>sô đặc điêm cơ bản sau:</small>
Thứ nhất, phán quyết trong tài có giá trị chung thẩm buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
“Phan quyết của trọng tài có giá trị chung thâm” — đây là một trong những nguyên tắc hoạt động nền tảng của TTTM, mang ý nghĩa sống còn trong tô tụng trọng tài. Với ý nghĩa là sau khi TTTM đưa ra phán quyết thi các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hoặc tòa án nào (trừ quyền yêu cầu Tòa án có thâm quyền hủy phán quyết trọng tài nếu có đủ căn cứ) — một lợi thé đáng kể xuất phat từ bản chất của TTTM khi so sánh với phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường Tòa án bởi phán quyết TTTM là do một chủ thé (trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tai) được xác định theo sự lựa chọn của các bên, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng đưa ra, do đó, vì thế, các bên tranh chấp khơng bị kéo vào vòng kiện tụng liên miên nhiều cấp xét xử, tốn kém tiền bạc, thời gian, thậm chí ảnh hưởng đáng kể tới uy tín trên thương trường. Cu thé hon, tại Khoản 2, Điều 32 Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL năm 1976 quy định “Phán quyết sẽ được lập bằng văn bản và sẽ là chung thẩm và ràng buộc các bên, các bên cam kết thực thi phán quyết không chậm trễ”. Với cùng tinh thần như vậy, Điều 45 Luật Trọng tài Nhật Ban quy định “Phán quyết trọng tài có hiệu lực như bản án chung
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">thấm... ”” hay Điều 8 Luật Trọng tài Trung Quốc cũng có quy định “7rọng tai sẽ tiễn hành việc ra phán quyết một cấp và chung thẩm. Nếu một bên dua ra Trọng tài hoặc Tòa án nhân dân về cùng một vụ tranh chấp đã có phán quyết Trọng tài, Hội đồng trong tài hoặc Toa an nhân dân sẽ không thu lý vu kiện ”Š...
Không phải ngẫu nhiên mà các “đầu tầu” kinh tế thế giới đều quy định phán quyết Trọng tài có giá trị chung thâm, sở di các nước này quy định vậy là bởi Trung tâm trọng tài là một loại hình tổ chức xã hội — nghé nghiệp, với
đặc điểm thủ tục xét xử một cấp, các Trung tâm trọng tài độc lập với nhau,
khơng có sự phân cấp, phân vùng xét xử; bên cạnh đó, việc đưa tranh chấp ra giải quyết tại Trọng tài là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên, trọng tài viên do các bên lựa chọn cho nên, Hội đồng trọng tài hình thành trên cơ sở ý chí tối cao của các bên đương sự. Do vậy, các bên phải có nghĩa vụ tơn trọng kết quả giải quyết của Hội đồng đó. Các bên khơng có quyền kháng cáo mà chỉ có nghĩa vụ thực hiện phán quyết.
Thứ hai, phán quyết Trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp và cham ditt to tụng trọng tài của Hội đồng trọng tài.
Đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài thì q trình giải quyết tồn bộ vụ tranh chấp được tính từ thời điểm “Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn” còn đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc thì được tính từ thời điểm bị đơn nhận được đơn khởi kiện đến khi Trọng tài họp phiên cuối cùng đưa ra quyết định về giải quyết tranh chấp. Kết thúc quá trình này, một phán quyết được ban hành, tuân theo trình tự thủ tục luật định, phán quyết đó là chung thâm. Phán quyết này giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, giữa các
bên trong vụ kiện, là kết quả của một chuỗi những tranh luận cân thận, thấu
đáo, hợp tình hợp lý của Hội đồng trọng tài. Khi phán quyết Trọng tài được
<small>7 Luật Trọng tài Nhật bản, điều 45Š Luật Trọng tài Trung Quốc, điều 8</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">đưa ra đồng nghĩa với việc vụ tranh chấp đã được giải quyết toàn bộ, cho đù phán quyết đó chấp thuận tồn bộ, một phần hay không chấp thuận yêu cầu của bên khởi kiện, yêu cầu phản tố và thủ tục trọng tài chấm dứt. Như Vậy, có thé hiểu phán quyết của Trọng tài là sản phâm cuối cùng của quá trình tố tụng trọng tài. Với ý nghĩa là phán quyết của một cơ quan tài phán, phán quyết Trọng tài kết thúc quá trình tố tụng. Về hình thức, phán quyết Trọng tài tạo ra một sự kiện pháp lý mà theo đó tranh chấp chấm dứt. Về nội dung, phán quyết Trọng tài đưa ra các kết luận khách quan về tranh chấp, quy định quyền
<small>và nghĩa vụ mà các bên tranh châp phải thực hiện.</small>
Như vậy, phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng, mang tính chung thâm và buộc các bên phải thi hành, tạo điều kiện để tranh chấp được giải quyết một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên tranh chấp, đồng thời phán quyết trọng tài cũng phải đảm bảo là kết quả của một quá trình xét xử công minh, vô tư, phải tuân theo các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và phải được tuyên bố theo đúng thủ tục ra phán quyết Trọng tài mà pháp luật về TTTM quy định.
1.3. Khái niệm, các nguyên tắc, vai trò của thi hành phán quyết trọng
<small>tài thương mại1.3.1. Khải niệm</small>
Như đã phân tích ở trên, phán quyết Trọng tài là văn bản có giá trị pháp lý chung thâm, các bên trong tranh chấp có nghĩa vụ phải thi hành. Theo Từ điển Tiếng Việt thi hành có nghĩa là “Jam cho thành có hiệu lực điều đã được 10 Điều nay có nghĩa là khi một quyết định được ban chính thức quyết định
hành thì phải làm cho nó trở thành hiện thực, không chỉ là phán quyết “miệng”, tuyên xong để đây hoặc chỉ như những “giấy tờ” khơng có giá trị pháp lý. Nếu hoạt động tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã
<small>diễn ra đê trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyêt vụ việc theo quy trình hêt sức</small>
<small>10 Viện ngơn ngữ hoc, Tu điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Ttừ điển Bách Khoa, năm 2010,</small>
<small>tr. 1060</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tac như bình dang, cơng khai, dân chủ, tơn trọng quyên và lợi ích của người tham gia tố tụng thì hoạt động thi hành là quá trình tiến hành các hoạt động nhăm thực hiện các phán quyếtcủa TTTM đã có hiệu lực pháp luật. Q trình này có thể do các chủ thể bị thi hành tự giác thi hành hoặc do các cơ quan có thâm quyền buộc các chủ thé đó phải thi hành. Vì các qn quyết của trọng tài có tính chất chung thâm, các chủ thể tham gia tranh chấp không thé kháng cáo trước bat kỳ một t6 chức, Tòa án nao và cũng không thé bị co quan nao kháng nghị, do đó, khơng có lý do gi để nó khơng được thi hành trên thực tế. Tuy vậy, từ thực tiễn thi hành xảy ra ba
<small>trường hợp cơ bản như sau:</small>
Thứ nhất, cả hai bên đều tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài. Trường hợp này thì rất đơn giản vì điều quan trọng nhất là phán quyết TTTM
<small>đã được thi hành trên thực tê mà khơng cân có sự can thiệp của Nhà nước.</small>
Thứ hai, cả hai bên đều phản đối phán quyết Trọng tài. Trường hợp này hiếm khi xảy ra, tuy nhiên không phải là không thé xây ra. Trong trường hợp này, rõ ràng phán quyết sẽ không được thực hiện.
Thứ ba, chỉ một bên không đồng ý với phán quyết Trọng tài, bên không đồng ý là bên thua trong phán quyết TTTM và phải thi hành phán quyết đó. Trong trường hợp này nếu bên thua khơng có đủ căn cứ u cầu Tịa án hủy phán quyết Trọng tài và cũng khơng tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài thì sẽ bi co quan Nhà nước có thắm quyên theo quy định của pháp luật áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành. Trong trường hợp này, việc thi hành phán quyết TTTM đã có sự can thiệp của Nhà nước.
Có thé khang định rang, khơng có kết quả của hoạt động tổ tụng trọng tài thì khơng thể có hoạt động thi hành phán quyết Trọng tài. Song thi hành phán quyết Trọng tài là một dạng hoạt động hành chính - tư pháp, là hoạt động có tính chấp hành chứ không phải là hoạt động tổ tung. Từ những phan tích nêu trên, có thé định nghĩa rang thi hành phán quyết TTTM là “hành vi
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">tự nguyện thực hiện phan quyết TTTM cua các bên tranh chấp hoặc hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyên buộc các bên tranh chấp phải thực hiện phán quyết Trọng tài theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định ”.
1.3.2. Nguyên tắc thi hành phán quyết trọng tài thương mai
Thực tiễn chứng minh, để giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh thương mại đều phải dựa trên những nguyên tắc nhất định nhằm định hướng hoạt động vào khuôn khổ nhất định. Thi hành phán quyết trọng tài cũng vậy, các nguyên tắc thi hành phán quyết trọng tài là những quan điểm chi đạo, định hướng tư duy trong toàn bộ quá trình tổ chức thi hành phán quyết Trọng tài thương mại, thể hiện tính đặc thù của hoạt động này.
*Nguyên tắc về thẩm quyên thi hành của cơ quan thi hành án dan sự khi bên phải thi hành phán quyết TTTM không tự nguyện thi hành phan quyết.
Ngun tắc này khơng những thé hiện sâu sắc tính chuyên trách của hoạt động thi hành phán quyết trọng tài mà còn thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ đối với quá trình thi hành phán quyết trọng tài. Với vi thé là một tô chức xã hội — nghề nghiệp do các Trọng tai viên tự thành lập nên hoặc do các bên đương sự thỏa thuận thành lập nham giải quyết các tranh chap thương mại, lúc này, Trọng tài không nhân danh quyền lực Nhà nước mà nhân danh sự công bằng, lẽ phải, công lý để ra các phán quyết. Do vậy, các phán quyết này mang tính “guyén lực tw” nhiều hơn và khi bên có nghĩa vụ thi hành phán quyết trọng tài khơng thi hành thì Nhà nước cần phải có sự can thiệp, hỗ trợ dé đảm bảo giá trị pháp lý của phán quyết trong thực tế cũng như khăng định vai trò , vị thế của TTTM trong q trình hội nhập. Vì lẽ đó, tại Điều 66 Luật TTTM Việt Nam quy định: “Hét thoi hạn tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cau hủy phán quyết Trọng tài theo quy định tai Điễu 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết Trọng tài có quyên làm don yêu cau cơ quan THADS có thẩm quyên thi hành phan quyết Trọng tai”. Như
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">vậy, thâm quyền của cơ quan THADS chỉ phát sinh khi bên phải thi hành án: (i) không tự nguyện thi hành, (ii) cũng không yêu cầu hủy phán quyết tại Toa án; (iii) có đơn yêu cầu thi hành. Thiếu bat cứ điều kiện nào thì khơng làm phát sinh thâm quyền của cơ quan THADS. Ngoài ra, về thâm quyền thi hành phán quyết trọng tài thuộc về cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết và ngồi cơ quan này ra, khơng có bất kỳ cơ quan nào khác có thâm quyền thi hành, đảm bảo tối đa tính thống nhất khi thi hành các phán quyết của TTTM.
*Nguyên tắc vẻ hiệu lực thi hành phản quyết trọng tài
Tương tự như các quốc gia văn minh trên thế giới, việc tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh phán quyết Trọng tài là điều kiện tiên quyết nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Giá trị pháp lý của “phán quyết Trọng tài” ngang với bản án của Tòa án dù chi là cơ quan tài phan tư, đều có thé do cơ quan Nhà nước có thâm qun thi hành, điều này khơng những giảm thiểu tối đa thiệt hại của các bên trong tranh chấp mà cịn góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với vai trò là nguyên tắc hiến định, hiệu lực thi hành phán quyết TTTM phải được tuyệt đối thi hành mà khơng có bắt kỳ sự chống đối, cản trở nào.
*Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa giáo dục, thuyết phục và áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Thực tiễn công tác THADS đã khắng định rằng công tác vận động, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án là một trong những công tác rất quan trọng, cần phải được Cơ quan THADS, chấp hành viên, công chức THADS tôn trọng và bảo đảm thực hiện bởi khi làm tốt công tác vận động, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành phán quyết không những bảo đảm cho các mỗi quan hệ xã hội trở hiện trạng tốt đẹp. hài hòa ban đầu của nó mà cịn nhằm khơi phục lại quan hệ xã hội đã bị xâm phạm, vi phạm, bao đảm tính nhân văn, cao ca của nên pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều 65 Luật TTTM
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phan quyết của Trọng tài”, bởi biện pháp ưu tiên hàng đầu và xuyên suốt quá trình thi hành phán quyết trọng tài vẫn là biện pháp giáo dục và thuyết phục. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, khi biện pháp giáo dục thiếu tính khả thi, rõ ràng, lúc đó cơ quan THADS mới áp dụng biện pháp cưỡng chế, tức là việc cơ quan THADS có thâm quyền sử dụng quyền năng mà pháp luật trao cho dé buộc bên phải thi hành phán Trọng tài thực hiện nghĩa vụ của họ đối với bên được thi hành phán quyết Trọng tài mà nghĩa vụ đó đã được ấn định trong phán
quyết để đảm bảo phán quyết Trọng tài được thi hành trên thực tế, đảm bảo
quyên, lợi ích các bên cũng như uy quyền của Nhà nước. Hài hòa giữa giáo dục thuyết phục và áp dụng cưỡng chế khi cần thiết không những giúp cho quá trình thi hành phán quyết Trọng tài thuận lợi, đạt hiệu quả cao mà cịn góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các thương nhân, doanh nghiệp, hạn chế tối đa những thiệt hại về vật chất và những hệ lụy về mặt tinh thần đối với các bên tranh chấp và các cá nhân, tổ chức có liên quan.
*Ngun tắc về trình tự, thủ tục thi hành phán quyết Trọng tài
Khi một trong các bên tham gia tranh chấp không tự nguyện thi hành phán quyết TTTM thì Chấp hành viên co quan THADS - người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành án bản án có hiệu lực pháp luật phải tổ chức kịp thời, đầy đủ, theo đúng quy định của pháp luật và tuyệt đối không được tùy tiện thay, sửa đổi nội dung phán quyết cũng như trì hỗn hoặc kéo dài thời gian giải quyết mà khơng có căn cứ pháp luật, đồng thời phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự thủ tục tổ chức thi hành phán quyết Trọng tai và phải chịu trách nhiệm trước chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và duoc pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Nguyên tac này chống những tiêu cực có thé phát sinh trong q trình thi hành phán
<small>quyét Trọng tai cũng như bảo vệ được quyên và lợi ích của các đương sự.</small>
1.3.3. Vai trị của thi hành phan quyết trọng tai
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">* Bảo vệ quyên, lợi ích của người được thi hành án, góp phan giữ gìn trật tự, ki cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Với vai trò là cơ quan “tài phán tư”, các phán quyết của TTTM thường tôn trọng cơ chế thỏa thuận và trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận, định đoạt các van đề liên quan tới bản thân mình và chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế thông qua cơ quan THADS khi thực sự cần thiết, pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài đường như đảm bảo tối đa lợi ích, quyền của các bên trong tranh chấp. Bên cạnh đó, thi hành phán quyết Trọng tài cịn có ý nghĩa là công lý đã được đảm bảo trên thực tế. Nếu công tác thi hành phán quyết Trọng tài không được quan tâm đây đủ và không đạt hiệu quả như mong muốn thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ hoạt động tố tụng của Trọng tài, làm giảm uy tín của các Trung tâm trọng tài hay các Hội đồng trọng tài vụ việc được các bên tranh chấp lựa chọn giải quyết vụ việc, làm mất niềm tin vào công lý và hoạt động trọng tài của bên được thi hành phán quyết và các tơ chức, cá nhân có liên quan.
* Nâng cao vị thé của TTTM
Từ thực tiễn của các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, các tranh chấp phát sinh trong kinh doanh thương mại bởi các thương nhân thường được giải quyết bằng phương thức TTTM. Tuy vậy, ở Việt Nam, dù <small>đã có sự tác động tích cực từ các cơ quan ban ngành có liên quan cũng như sự</small> thay đơi các cơ chế chính sách, tư duy kinh doanh nhưng dường như phương thức giải quyết tranh chấp bằng TTTM vẫn chưa phô biến. Phan đông các chủ thé thường lựa chọn con đường Tịa án để giải quyết các tranh chap của mình vì cho rằng Tịa án là cơ quan Nhà nước, nhân danh Nhà nước để ra Bản án, quyết định, và do vậy khả năng thi hành phán quyết đó trên thực tế sẽ cao hơn nhiều. Vì thế, thi hành phán quyết trọng tài để đảm bảo tính hiệu quả của phán quyết, từ đó uy tín, vị thế của các Trung tâm TTTM, các Trọng tài viên sẽ
<small>được nâng cao khơng chỉ trong nước mà cịn trên phạm vi quôc tê, các thương</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">nhân sẽ “mặn mà” với TTTM trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, và như thế TTTM sẽ được lựa chọn nhiều hơn, thường xuyên hơn khi xảy ra tranh chấp.
* Tuyên truyền, pho biến giao duc pháp luật về TTTM
Phan quyết trọng tài là sản phẩm cuối cùng của quá trình tố tụng trọng tài, trong đó phản ánh rất nhiều các quy phạm pháp luật về TTTM cũng như những đặc thù tố tụng trọng tài. Thông qua hoạt động thi hành phán quyết
TTTM, các bên tranh chấp, các tơ chức, cá nhân có liên quan hoặc các chủ thê
khác có nguy cơ bị cuốn vào tranh chấp sẽ hiểu biết nhiều hơn về hoạt động TTTM và tố tụng trọng tài, cũng như ý thức được hậu quả pháp lý nếu không chấp hành phán quyết TTTM, dé từ đó góp phan nâng tam ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành phán quyết TTTM của thương
<small>nhân, của tô chức, cá nhân.</small>
1.4. Những yếu tổ ảnh hưởng tới hiệu quả thi hành phán quyết trọng
1.4.1 Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thé tranh chấp
Nhận thức và ý thức chấp hành của các chủ thê tranh chấp giữ vai trò quan trọng trong việc tự giác thi hành phán quyết Trọng tài. Thực tiễn hoạt động cho thấy nhiều trường hợp cé tình không thi hành phán quyết trong tai, nguyên nhân dẫn tới thực trạng này có nhiều, nhưng chủ yếu tới từ hai ngun nhân chính: (i) do đương sự có trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết hoặc (ii) đương sự tuy có nhận thức đầy đủ về pháp luật nhưng khơng có ý thức chấp hành pháp luật, vẫn có tình chống đối quyết liệt, chây ỳ nhăm tau tán tài sản. Đặc biệt, tình trạng khiếu nại, tố cáo phức tạp vượt cấp xảy ra nhiều nhằm mục đích kéo dài việc thi hành án xảy ra phô biến, khiến cơ quan THADS mất nhiều thời gian nghiên cứu hồ sơ, xác minh, giải quyết. Trong những vụ việc liên quan tới tín dụng ngân hàng, người phải thi hành án đã mất khả năng
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">thanh tốn và có nguy cơ bị xử ly tài sản nên họ cố tình chống đối việc thi hành án băng nhiều cách (như không nhận quyết định thi hành án, thay đổi hiện trạng tài sản, cản trở việc xác minh, kê biên, định giá, bán dau gia tai san dé thi hành án...). Việc các chủ thé trong tranh chap không thi hành phán quyết Trọng tài đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của phán quyết trên thực tế, làm mắt niềm tin của xã hội đối với công tác thi hành phán quyết của
<small>Trọng tài thương mại.</small>
1.4.2. Truyền thong văn hóa:
Xuất phát từ lối sống, tập tính sinh hoạt, sản xuất có từ lâu đời đã tạo
nên truyền thống trọng tình, duy tình của người Việt Nam, nó tạo sự đồn kết, tạo nên sức mạnh cộng đồng dé xây dựng va bảo vệ xóm làng. Tuy vậy, xét theo phương diện này, người dân dễ dị ứng với pháp luật, trong tư duy của mình, người dân chỉ coi pháp luật là giải pháp “cuối cùng”, rằng pháp luật gần với “hình phạt” hơn là gần với công lý, không coi pháp luật như phương tiện để bảo vệ chính mình, chưa coi pháp luật là công cụ đề điều tiết xã hội và bảo vệ con người. Quan niệm này von đã “ăn sâu” vào tâm thức người dân, không dé gì thay đổi, cần kiên trì tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức người dân để họ tiếp nhận và thi hành pháp luật một cách tự
<small>nguyện và tích cực.</small>
1.4.3. Mức độ hồn thiện của hệ thống pháp luật
Nhìn chung, hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay đã đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội, tuy nhiên, vẫn cịn có thiếu sót nhất định và chưa đồng bộ. Các quy định về thi hành phán quyết của
<small>cơ quan tài phan cơng (Tịa án) cũng như cơ quan tài phán tư (TTTM) còn</small>
nhiều hạn chế, vướng mắc nên trên thực tế, không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động thi hành các phán quyết mà còn khiến cho số lượng vụ việc khơng thi hành được cịn tồn đọng ngày càng tăng. Ngồi ra, việc Việt Nam là
<small>thành viên của nhiêu tơ chức quôc tê, tham gia ký kêt nhiêu Điêu ước quôc tê,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">nhất là trong lĩnh vực thương mại đã làm cho pháp luật của chúng ta có độ “vênh” nhất định với pháp luật quốc tế và trong thời gian ngắn khó có thể
<small>thích ứng theo được.</small>
1.4.4. Cam kết quốc tế
Tính tới tháng 1/2017'', Việt Nam đã có cam kết mở cửa thị trường dịch vụ cho các nhà đầu tư nước ngồi trong khn khổ WTO và nhiều Hiệp định song phương hoặc đa phương, trong đó đáng ké là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nay là CPTPP ” và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam — Liên minh châu Âu (EVFTA). Trên thực tẾ, pháp luật Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt phức tạp về cả số lượng văn bản lẫn cách thức, điều kiện mở cửa trong từng lĩnh vực dịch vụ, cần rà soát các quy định pháp luật Việt Nam với các cam kết WTO, EVFTA và CPTPP trong các lĩnh vực thể chế quan trọng như minh bach, đầu tư, mua sam cơng, sở hữu trí tuệ, mở cửa thị trường dich vụ, hải quan và tạo thuận lợi thương mại nhằm minh bạch hóa hiện trạng mở cửa. Tuy vậy, việc gia nhập các tô chức quốc tế, tham gia các điều ước, cam kết quốc tế đồng nghĩa với chấp nhận những thách thức, rủi ro về xung đột pháp luật và vì vậy, cần đảm bảo pháp luật được tôn trọng, pháp luật gan liền với đời sống mỗi người dân, các chủ thể áp dụng pháp luật cần đặc biệt chú ý tới các lĩnh vực thiết yếu của nền kinh tế, doanh nghiệp tự giác chấp hành pháp luật là yếu t6 quan trọng dé thu hút các nhà đầu tư nước ngồi góp phan tao lên một hành lang pháp lý vững chắc, linh hoạt để nhà đầu tư nước ngoài tin
1.4.5. Điều kiện kinh tế xã hội
<small>''http:/www.trunetamwto.vn/tpp/bao-cao-ra-soat-phap-luat-viet-nam-voi-cac-cam-ket-wto-evfta-va-tpp-ve-mo-cua-dich-vu-cho-dau-tu, truy cập ngày 20/5/2018</small>
<small>! Hiện nay hiệp định TPP đã được đổi tên thành CPTPP (Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun TháiBình Dương) vi sự “rút lui” của Mỹ dẫn tới những khác biệt về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhữngnguyên tắc</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Tình hình kinh tế, sản xuất kinh doanh chuyển biến chậm, thị trường bất động sản trầm lắng nên nhiều tài sản đã kê biên đưa ra bán đấu giá nhiều lần vẫn không bán được. Theo thống kê của Tổng cục, toàn quốc hiện có tới 4.674 việc thuộc diện này, tương ứng với số tiền là 25.095 tỷ 145 triệu 699 ngàn đồng (chiếm 33,65% về việc, 47% về tiền trên tông số việc, tiền phải thi hành cho các tơ chức tín dụng ngân hàng)”. Day là nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng tới thi hiệu lực thi hành phán quyết của Trọng tài, dẫn tới nhiều tài sản kê biên để thi hành án “đã giảm giá nhiều lần” nhưng không bán được, đặc
biệt là các tài sản có giá tri lớn, tài sản là bat động san.
<small>1.4.6. Năng lực cua đội ngũ can bộ THADS</small>
Trường hợp việc thi hành phán quyết TTTM thuộc thấm quyền của cơ quan THADS, việc thi hành hiệu quả hay không phụ thuộc nhiều vào năng lực đội ngũ cán bộ THADS từ lãnh đạo tới các chấp hành viên. Do tính chất phức tạp và khó khăn của THADS, lãnh đạo cơ quan THADS cần thực sự quan tâm sát sao, có biện pháp chỉ đạo quyết liệt, tồn diện đối với cơng tác thi hành án. Các chấp hành viên cần có tinh thần trách nhiệm trong việc xác minh điều kiện thi hành án, đôn đốc va áp dụng các biện pháp cần thiết dé thi hành dứt điểm các phán quyết có điều kiện giải quyết. Bên cạnh đó, chấp hành viên cần có năng lực chun mơn đảm bảo áp dụng pháp luật chính xác, tránh dẫn đến trường hợp dù người phải thi hành án có điều kiện thi hành án (có tài sản thé chấp) nhưng việc thi hành án vẫn bị chậm chễ hoặc không được tổ chức thi hành.
Kết luận Chương 1
Theo các quy định pháp luật về TTTM hiện nay thì TTTM là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, theo đó các bên tranh chấp thơng qua một Hội đồng Trọng tài vụ việc hoặc Trung tâm trọng tài để
<small>quan đến các tơ chức tin dụng, ngân hàng, khó khăn vướng mắc và một số giải pháp — Hà Nội, 2015, tr. 257</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">giải quyết và được tiến hành theo trình tự thủ tục theo pháp luật về TTTM. Quá trình này được gọi là tố tụng trọng tài, kết thúc quá trình sẽ là phán quyết trọng tài — văn bản pháp lý có giá trị cao nhất nhăm giải quyết, toàn bộ tranh chấp thương mại giữa các bên. Phán quyết đó là chung thâm và buộc các bên tranh chấp phải thực hiện và phán quyết này được tơ chức thi hành theo trình tự, thủ tục luật định, phải tuân theo những nguyên tắc tố tụng nhất định. Phán quyết Trọng tài được thi hành trên thực tế có ý nghĩa, vai trị rất quan trọng đối với các bên tham gia tranh chấp, với xã hội, phù hợp với công cuộc cải cách tư pháp theo đúng đường lỗi của Dang và Nhà nước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>CHƯƠNG 2</small>
THUC TRẠNG PHAP LUẬT VÀ THUC TIEN THI HANH CÁC QUY ĐỊNH PHAP LUAT VE THI HANH PHAN QUYET TRONG TÀI
<small>THUONG MAI VIET NAM</small>
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về thi hành phan quyết
<small>trọng tài thương mại</small>
Pháp luật về thi hành phán quyết TTTM hiểu đơn giản là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nha nước ban hành va bao đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong q trình tơ chức thi hành phán quyết Trọng tài thương mại. Các quan hệ xã hội phát sinh gồm quan hệ giữa cơ quan Nhà nước có thâm quyền thi hành phán quyết Trọng tài với các đương sự; giữa bên được thi hành phán quyết Trọng tài với bên phải thi hành phán quyết Trọng tài; giữa những người có quyền và nghĩa vụ liên quan (bao gồm các cá nhân, cơ quan, tô chức xã hội)... trong quá trình tổ chức thi hành phán quyết Trọng tài.
Pháp lệnh TTTM năm 2003 lần đầu tiên quy định về sự hỗ trợ của cơ quan THADS đối với hoạt động Trọng tài, theo đó Điều 57 Pháp lệnh quy định: “1. Sau thời hạn ba mươi ngày, ké từ ngày hết thời hạn thi hànhquyết định Trọng tài, nếu một bên không tự nguyện thi hành, cũng không yêu cầu huỷ theo quy định tại Điều 50 của Pháp lệnh này, bên được thi hành quyết định Trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có
trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tai sản của bên phải thi hành, thi hành quyết
định Trọng tài. Trong trường hợp một trong các bên có u cầu Tồ án huỷ quyết định Trọng tài thì quyết định Trọng tài được thi hành ké từ ngày quyết định của Toà án khơng huỷ quyết định Trọng tài có hiệu lực”. Với quy định đó, Cơ quan THADS là cơ quan hỗ trợ hoạt động thi hành quyết định Trọng tài, để phán quyết mang tính cưỡng chế thi hành. Lần đầu tiên, Pháp lệnh TTTM quy định về van đề cưỡng chế thi hành quyết định Trọng tài (quy định
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">gián tiếp “Trình tự, thủ tục và thời hạn thi hành quyết định Trọng tài theo quy định của pháp luật về THADS”). Những quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã tạo ra khả năng vô cùng to lớn cho sự phát triển của Trọng tài thương mại ở nước ta, giúp giải quyết nhanh chóng các tranh chấp thương mại, giảm bớt gánh nặng của cơ quan Toà án.... Đồng thời, cùng với các quy định pháp luật khác, pháp luật về trọng tài đã góp phần tạo nên một hệ thống pháp luật trong sạch, vững mạnh, phục vụ yêu cầu quản lý xã hội băng pháp <small>luật của Nhà nước. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, Pháp lệnh đã bộc lộ</small> những bắt cập, vướng mắc trong cơ chế thực thi, vì thế, ngày 17/6/2010, Quốc hội đã thơng qua Luật TTTM, có hiệu lực thi hành ké từ ngày 01/01/2011 thay thế Pháp lệnh TTTM 2003. Với 13 chương, 82 điều, Luật TTTM đã thể chế hoá một cách đồng bộ cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tàiở nước ta. Bên cạnh đó, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM có nhiều quy định mới nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại, trong đó có các quy định về thi hành phán quyết TTTM. Luật đã dành hắn chương X với 3 Điều, từ Điều 65 đến Điều 67, so với Pháp lệnh TTTM năm 2003 chỉ có một điều (Điều 57) quy định về thi hành phán quyết Trọng tải.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định thêm về việc đăng ký phán quyết của
Trọng tai vụ việc, theo đó “Theo yêu cầu của một hoặc các bên tranh chấp,
phán quyết của Trọng tài vụ việc được đăng ký tại Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết trước khi yêu cầu cơ quan THADS có thấm quyền tổ chức thi hành phán quyết Trọng tài đó. Việc đăng ký hoặc khơng đăng ký phán quyết Trọng tài không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của phán quyết Trọng tài” (Điều 62 Luật TTTM năm 2010). Quy định này nhằm ràng buộc về trách nhiệm pháp lý giữa các bên và trách nhiệm của Trọng tài
viên đối với phán quyết của mình, tạo cơ sở để cơ quan nhà nước, tô chức, cá
nhân có trách nhiệm thi hành phán quyết này. Cùng với sự ra đời của Luật THADS năm 2008 với nhiều bước đột phá về cơ cấu tổ chức, trình tự thủ tục
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">THADS và các văn bản pháp luật khác tạo thành hệ thống văn bản pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài ở Việt Nam.
Như vậy, hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài gồm:
- _ Luật TTTM năm 2010 (Chương X, từ Điều 65 đến điều 67)
<small>- - Luật Thương mại năm 2005</small>
<small>- Luat Thi hành án dân sự năm 2008</small>
- _ Luật Thi hành án dân sự sửa đôi, b6 sung năm 2014
- Nghi định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 07 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về
<small>thủ tục thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 24 tháng 8 nam2009.</small>
- Nghi định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 07 năm 2015 quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bố sung năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 09 năm
- Thong tư liên tịch của Bộ Tư pháp, Toa án nhân dân tôi cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục THADS và phối
<small>hợp liên ngành trong THADS.</small>
Phán quyết của TTTM có tính chất chung thấm, do đó, các bên buộc
phải thi hành, nếu khơng tự nguyện thi hành sẽ có sự can thiệp của nhà nước
nhằm đảm bảo trật tự xã hội, quyên, lợi ích của các chủ thé có liên quan theo
quy định tại Điều 66 Luật TTTM 2010: “Hết thời hạn tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết Trọng tài có quyền làm đơn yêu câu cơ quan THADS có thâm quyên thi hành phán quyết Trọng tài”. Bên
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">cạnh đó, tại Điều 32 Luật TTTM 2010 Việt Nam cũng quy định về trường hợp tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài: “Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết TTTM”, các bên trong quan hệ dựa trên sự <small>thỏa thuận mà tự nguyện thi hành, tránh được sự can thiệp từ phía nhà nước</small> bởi các biện pháp cưỡng chế. Từ những phân tích nêu trên, có thé chia việc thi hành phán quyết trọng tài thương mại làm 02 trường hợp:
Truong hợp bên phải thi hành phán quyết Trọng tài không tự nguyện
<small>thi hành hoặc tự nguyện thi hành phan quyêt Trọng tài thương mai.</small>
Khi bên phải thi hành phán quyết trọng tài nhưng không tự nguyện thi hành thì có 2 khả năng xảy ra: bên đó khơng u cầu hủy phán quyết trọng tài hoặc có yêu câu hủy phán quyết trọng tài
Trường hợp 1: Không yêu cau hủy phán quyết trọng tai
Dù trên thực tế, Nhà nước khuyến khích các chủ thé tham gia tranh chấp trong quan hệ kinh doanh thương mại tự nguyện thi hành phán quyết nhưng vẫn có một bộ phận không nhỏ các chủ thé không tự nguyện thi hành phán quyết, và do vậy, Nhà nước phải dùng công cụ pháp luật dé buộc phải thi hành phán quyết của Trọng tài, để đảm bảo nguyên tắc bản án, quyết định đã tuyên phải được thi hành trên thực tế.Trường hợp bên phải thi hành không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài thì áp dụng Điều 67 Luật TTTM, theo đó,“phán quyết Trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về
* Tham quyển thi hành phán quyết trọng tài
Với vai trò là một trong những nội dung cơ bản của pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài thương mại, thầm quyền thi hành phán quyết trong tài thuộc về cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết (Khoản 1, Điều 8 Luật TTTM). Cơ quan THADS có nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 14 Luật THADS
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">năm 2008 và một trong những nhiệm vị hết sức đặc biệt, quan trọng, thể hiện tính đặc thù ngành THADS là “trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định
theo quy định tại Điều 35” của Luật THADS. Cụ thể đó là các bản án, quyết
<small>- Bản án, quyét định sơ thâm của Toà án cap tỉnh trên cùng dia bàn;</small>
- Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao chuyển giao cho cơ quan THADS cấp tỉnh;
<small>- Bản án, quyết định của Tịa án nước ngồi, qut định của Trọng tài</small>
<small>nước ngồi được Tồ án cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam;</small>
- Quyét dinh cua Trong tai thuong mai;
<small>- Quyét định xử lý vu việc cạnh tranh của Hội đông xử lý vụ việc cạnh</small>
- Bản án, quyết định do cơ quan THADS nơi khác hoặc cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác;
- Bản án, quyết định thuộc thâm quyên thi hành của co quan THADS cấp huyện mà cơ quan THADS cấp tỉnh thấy cần thiết lấy lên dé thi hành;
- Ban án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà có đương sự
<small>hoặc tài sản ở nước ngồi hoặc cân phải uỷ thác tư pháp về thi hành an.</small>
Như vậy, thi hành phán quyết TTTM là một trong những nhiệm vụ của cơ quan THADS.Với nhiệm vụ, quyền hạn như đã nêu trên, có thé thay hoat
động thi hành án là dạng hoạt động chấp hành, quản lí và thê hiện rõ tính chất
hành chính, vì vậy, nó phải thuộc chức năng của quyên hành pháp. Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án chỉ được tiễn hành trên cơ sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khô luật định; tồn bộ q trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">của toà án và theo các quy định cụ thé của pháp luật. Day cũng là dạng hoạt động quản lí vì thi hành án là sự tác động tới đối tượng phải thi hành án dé họ
<small>tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ</small>
đã được xác định trong các bản án, quyết định của toà án; phải tuân theo các <small>quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tơn trọng pháp luật, tơn trọng</small>
<small>lợi ích của cá nhân, tơn trọng kỉ luật nhà nước và trở thành người lương thiện</small>
(đối với những người bị kết án phạt tù).
Ở cơ quan THADS, người thực hiện cơng tác THADS chính là các chấp hành viên. Luật THADS 2008 khang định nguyên tắc chỉ có Chấp hành viên cơ quan THADS là có thâm quyền THADS; Điều 17 Luật này nêu rõ: “Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật”; “phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”. Bên cạnh đó, pháp luật cũng xác định rõ trách nhiệm của Chấp hành viên bằng quy định “những việc Chấp hành viên không được làm” như: Tư van cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật; Thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và những người thân; Cô ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định; trì hỗn hoặc kéo dai thời gian giải quyết việc thi hành án được giao khơng có căn cứ pháp luật.... (Điều 21 Luật
* Quyển yêu cau thi hành phán quyết Trọng tai
Điều 66 Luật TTTM quy định bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thâm quyền thi hành phán quyết Trọng tài nếu “hết thời hạn tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài theo quy định tại Điều 69 Luật này”. Như vậy, Luật quy định về hai “điều kiện” để bên được thi hành phán quyết Trọng
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">tài yêu cầu co quan THADS có thâm quyên thi hành phán quyết Trọng tai, đó là bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và không yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài theo quy định của pháp luật.
* Thủ tục thi hành phán quyết Trọng Tai
Pháp luật TTTM Việt Nam quy định tại Điều 67 Luật TTTM 2010 rằng “phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”. Pháp luật THADS quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Trình tự, thủ tục thi hành án dân sự được hiểu là các bước THADS do cơ quan THADS có thâm qun thực hiện tính từ thời điểm co quan THADS có thâm quyên thụ lý đơn yêu cầu thi hành án và ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cau của người được thi hành án đến khi thi hành xong toàn bộ nội dung án dân sự và đưa hồ sơ thi hành án vào lưu trữ. Quá trình này được Chấp hành viên cơ quan THADS cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết — người được Nha nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật - t6 chức thi hành. Trinh tự này gồm các bước
Bước 1: Yêu cầu THADS
<small>Trọng tài thương mại có trách nhiệm giải thích cho đương sự (Người</small>
được thi hành phán quyết, người phải thi hành phán quyết, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) về các nội dung trong phán quyết như quyền yêu cầu thi hành phán quyết, nghĩa vụ thi hành phán quyết, thời hiệu yêu cầu thi hành phán quyết va cấp cho đương sự quyết định có ghi “Dé thi hành”. Hết thời hạn tự nguyện thi hành phán quyết mà người phải thi hành phán quyết chưa thi hành thì người được thi hành phán quyết có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thâm quyên thi hành phán quyết của Trọng tài. Theo quy định tại Khoản 13 Điều 1 Luật THADS sửa đổi b6 sung 2014 thì u cầu thi
<small>hành án gơm các nội dung chính sau:</small>
<small>- Họ, tên, dia chi cua người yêu câu;</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>- Tén co quan thi hanh an dan sy noi yéu cau;</small>
<small>- Họ, tên, dia chỉ cua người được thi hành án; người phải thi hành</small>
<small>- Nội dung yêu câu thi hành án;</small>
<small>- Thông tin vê tài sản, điêu kiện thi hành án cua người phải thihành án, nêu có;</small>
<small>- Ngay, thang, nam lam don;</small>
- Chữ ky hoặc điểm chi của người làm đơn; trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại diện hợp pháp và đóng dấu của pháp
<small>nhân, nêu có.</small>
Luật sửa đổi đã thay đổi quy định “đơn yêu cầu thi hành án” bang thuật ngữ có nghĩa chung hơn là “yêu cầu thi hành án” dé thé hiện việc yêu cau thi hành án không chỉ băng đơn mà cịn bằng hình thức khác và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế không bắt buộc chỉ bằng đơn yêu cầu thi hành án. Đáng chú ý hơn cả là điểm không bắt buộc yêu cầu thi hành án phải có thơng tin về điều kiện thi hành án; khi người yêu cầu trực tiếp trình bày bằng lời nói thì cơ quan thi hành án dân sự phải lập biên bản có các nội dung cụ thể; biên bản này có giá trị như đơn yêu cau; khi tiếp nhận u cầu thi hành án thì phải thơng báo băng văn bản chi người yêu cầu thay cho việc cấp giấy xác nhận đã nhận don như trước đây. Các quy định về ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu được chuyên lên trước quy định về chủ động ra quyết định thi hành án thể hiện rõ sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp 2013.
Bước 2: Thụ lý hoặc từ chối yêu cầu THADS
Khi tiếp nhận yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải
<small>kiêm tra nội dung yêu câu và các tài liệu kèm theo, vào sô nhận yêu câu thi</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">hành án và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án và phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cau trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án trong các trường hợp: Người yêu cầu không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội dung yêu cầu không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; bản án, quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các
<small>đương sự theo quy định của Luật này; Cơ quan thi hành án dân sự được u</small>
cầu khơng có thẩm quyền thi hành án; Hết thời hiệu yêu cau thi hành án. Bước 3: Ra quyết định THADS
Việc ra quyết định thi hành án theo yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 36 Luật THADS và Điều 7 Nghị định số 62/2015/ND-CP với nội dung quy định trường hợp nhiều người được nhận chung một
khoản tiền, tài sản theo bản án quyết định, nhưng chỉ có một hoặc một s6
người có yêu cầu thi hành án. Trường hop này cũng được xử lý giỗng như trường hợp “nhiều người được nhận chung một tài sản cụ thể”. Theo đó, thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định THA đối với những người đã có u cầu, đồng thời thơng báo cho người được thi hành án khác theo bản án, quyết định đó biết để yêu cầu THA trong thời hạn 30 ngày, ké từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn trên, nếu người được thông báo khơng u cầu THA thì Chấp hành viên tổ chức giao tài sản, tài khoản đó cho người đã có yêu cầu hoặc đại điện của những người đã có u cầu để quản lý. Quyền và lợi ích hợp pháp của những người được THA đối với tài sản đó được giải quyết theo
<small>thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.</small>
<small>Trường hợp phạm nhân là người phải THA, thân nhân của họ hoặc</small>
người được họ ủy quyền yêu cầu THA tự nguyện nộp tiền, tài sản thi hành án khi đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì tại Khoản 6 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP nhằm tạo điều kiện cho người phải thi hành án là phạm nhân có thể được xem xét giảm chấp hành hình phạt xem xét đặc xá theo quy định
</div>