Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.5 KB, 20 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRI ̣
──────── * ───────
<b><small> Sinh viên thực hiện : Trương Văn Hiển MSSV : 20194276 </small></b>
<b><small> Lớp : 115308 Giảng viên hướng dẫn : ThS. Ngô Quế Lân </small></b>
<i><b><small>Hà Nội, tháng 5 năm 2020 </small></b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">MỤC LỤC………...2
PHẦN MỞ ĐẦU ... 4
1. Sự cần thiết của đề tài ... 4
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ... 5
PHẦN NỘI DUNG ... 7
Chương1. Lý luâ ̣n về giá tri ̣ thă ̣ng dư theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin ... 7
1.1. Khái niệm giá trị thặng dư ... 7
1.2. Các phương pháp tìm kiếm giá trị thặng dư ... 8
1.2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ... 8
1.2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối ... 9
1.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch ... 10
1.4. Vai trò của giá tri ̣ thă ̣ng dư... 11
Chương 2. Quan hệ lợi ích kinh tế trong kinh tế thi ̣ trường định hướng xã hội chủ nghĩa ... 12
2.1. Lợi ích kinh tế ... 12
2.2. Vai trò của lợi ích kinh tế trong sự phát triển kinh tế – xã hô ̣i ... 12
2.3. Các kiểu quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hô ̣i chủ nghĩa ... 13
Chương 3. Vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự điều chỉnh các quan hê ̣ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay ... 16
3.1. Mục tiêu ... 16
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">3.2. Mô ̣t số khuyến nghi ̣ đối với Nhà nước ... 16
3.3. Mô ̣t số khuyến nghi ̣ đối với doanh nghiê ̣p ... 17
3.4. Mô ̣t số khuyến nghi ̣ đối với người lao đô ̣ng... 17
PHẦN KẾT LUẬN... 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 20
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Theo V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là ‘‘hịn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác’’ và học thuyết kinh tế của C.Mác là “nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác’’.Để đạt được mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất ra sản phẩm, thu về giá trị thặng dư. Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần giá trị sức lao động cho người cơng nhân thơng qua hình thức tiền lương và bóc lột giá trị thặng dư do người công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất.
Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó.Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngoài sức lao động bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ sản xuất cơ bản nhất đó. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân làm thuê sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu của giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản.Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư thông qua hai phương pháp cơ bản là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
Do vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính của quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của xã hội tư bản. Nó quyết định sự phát sinh , phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn, là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có phát triển kinh tế thị trường mới làm cho nền kinh tế nước ta phát
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">triển năng động. Phát triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. Ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế thị trường và việc tăng tỷ lệ hàng hóa nơng sản đã làm cho hàng hóa bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nông dân nhiều việc làm. Với những lý do trên em chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp luận của học thuyết giá trị thặng dư trong quá trình điều chỉnh các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam, hướng đến “xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ q trình vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ lí luận giá trị thặng dư, phân tích q trình và vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng – chủ nghĩa duy vật
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">luận giá trị thặng dư vào sự phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay
5. Kết cấu đề tài
Kết cấ u đề tà i tiểu luâ ̣n gồm có phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tham khảo. Ngoài ra trong phần nô ̣i dung gồm có 2 chương: Chương 1: Lý luận về giá trị thặng dư.
Chương 2: Quan hệ lợi ích kinh tế trong kinh tế thi ̣ trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương 3: Vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự điều chỉnh các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">1.1. Khái niệm giá trị thặng dư
Giá tri ̣ thă ̣ng dư là phần giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao động trên toàn bộ giá tri do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Giá trị thặng dư cũng như tỉ suất giá trị thặng dư phản ánh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mức độ bóc lột cơng nhân làm thuê của nhà tư bản. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Một mặt, nó thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ngày càng mạnh mẽ; mặt khác, nó làm tăng những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản. Nhà tư bản mua hàng hoá sức lao động đúng giá trị của nó, nhưng sức lao động ấy lại tạo ra cho nhà tư bản một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó; do nhà tư bản đã mua sức lao động, tồn bộ kết quả của q trình lao động sản xuất thuộc về nhà tư bản, cho nên phần giá trị mới tăng thêm (ngoài phần giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã trả
công cho người lao động) bị nhà tư bản chiếm đoạt là giá trị thặng dư. C.Mac có cơng lao to lớn xây dựng học thuyết về giá trị thặng dư,
chứng minh rõ chính lao động của cơng nhân làm thuê, chứ không phải tư liệu sản xuất, là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư, và nhờ đó mà Mac đã bóc trần bản chất của bóc lột giá trị thặng dư bị che đậy. Trong đời sống kinh tế - xã hội hiện thực của chủ nghĩa tư bản, giá trị thặng dư biểu hiện với nhiều hình thức khác nhau: lợi nhuận, lợi tức, địa tô tư bản chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay, do điều kiện cách mạng khoa học - kĩ thuật phát triển rất cao, điều kiện lao động của người công nhân thay đổi với hệ thống máy móc hiện đại (tự động hoá, tin học hoá, người máy...), chủ nghĩa tư bản có những hình thức phát triển, những động lực và phương pháp quản lí hiện đại (tư bản độc quyền nhà nước những công ti siêu
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">quốc gia, đa quốc gia) thì sự bóc lột giá trị thặng dư được diễn ra dưới những hình thức khác nhau, theo những phương pháp khác nhau, tạo ra những năng suất lao động và tỉ suất giá trị thặng dư rất cao, nhưng bản chất của sự bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Vấn đề lý luận mang tính cốt lõi cần ưu tiên làm sáng rõ để việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam sớm nhận được sự đồng thuận là vấn đề nhận thức nội hàm khái niệm giá trị thặng dư.
Nội hàm khái niệm giá trị thặng dư được tiếp nhận từ lý luận kinh tế của Mác có thể gói gọn trong định nghĩa rằng: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ. Việc sản sinh và
chiếm đoạt giá trị thặng dư là sự phản ánh quan hệ sản xuất căn bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
1.2. Các phương pháp tìm kiếm giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
1.2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">1.2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối. tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã hội. Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu.
Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ cơng và đại cơng nghiệp cơ khí, đó cũng là q trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột cơng nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc khơng phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">1.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tứơng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao dộng xã hội). Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được.
Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của tồn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với tồn bộ giai cấp cơng nhân làm th. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó khơng chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản. Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">1.4. Vai trò của giá tri ̣ thă ̣ng dư
Việc ứng dụng những thành tựu khoa học- kĩ thuật hiện đại đã thúc đẩy lực lượng sản xuất ở nước tư bản chủ nghĩa phát triển tăng lên trình dộ cao hơn. Nhờ đó khơng những các tập đồn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu cao mà đời sống của những người lao động tại xí nghiệp cũng được cải thiện, khác xa đời sống của những công nhân dưới chủ nghĩa tư bản đầu thế kỉ XVIII. Trước thực tế,cộng với sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội tập trung quan liêu ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người cho rằng học thuyết giá trị thặng dư không còn đúng nữa. Bởi vậy,việc luận giải vai trò của gía trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường là vô cùng cấp bách.
Giá trị thặng dư có những vai trị đối với nền kinh tế thị trường như sau:
- Thứ nhất: Học thuyết giá trị thặng dư không chỉ là cơ sở đề hiểu rõ bản chất và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản mà còn chỉ chúng ta con đường tạo ra lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư xã hội hay nói cách khác là hàng nghìn cơng nhân có việc làm.
- Thứ hai: Mở rộng địa bàn và quy mơ sản xuất,tích lũy thêm giá trị thặng dư.
- Thứ ba: Thúc đẩy sự phát triển khoa học-công nghệ hiện đại để tăng năng suất và giá trị thặng dư.
- Thứ tư: Làm giàu cho giai cấp tư sản.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">2.1. Lợi ích kinh tế
Lợi ích: Trong các tác phẩm của C.Mác thì những từ: lợi ích, ích lợi, có lợi được sử dụng như là cùng nghĩa và có thể thay thế nhau. Lợi ích khơng phải là một cái gì trừu tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu của con người. Con người có nhiều loại nhu cầu do đó có nhiều loại lợi ích. Ví dụ: nhu cầu vật chất dẫn đến lợi ích vật chất, nhu cầu chính trị dẫn đến lợi ích chính trị, nhu cầu văn hố dẫn đến lợi ích văn hoá tinh thần…
Lợi ích kinh tế: Lợi ích kinh tế nảy sinh trong điều kiện tồn tại xã hội của con người, những nhu cầu vật chất của con người khi được xác định về mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được qui định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Như vậy, lợi ích kinh tế khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các chủ thể lợi ích kinh tế. V.I. Lênin trong tác phẩm: Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và Sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơ-ru-vê về nội dung đó, đã viết: “Lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác xác định một cách khách quan theo vai trị mà họ có trong hệ thống quan hệ sản xuất, theo những hoàn cảnh và điều kiện sống của họ”. Là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, lợi ích kinh tế thể hiện trong tất cả 4 khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Phải khẳng định rằng: ở đâu có hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở đó có lợi ích kinh tế và chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là chủ thể các lợi ích kinh tế.
2.2. Vai trò của lợi ích kinh tế trong sự phát triển kinh tế – xã hơ ̣i
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống. Lịch sử đã từng chứng minh, động lực thúc đẩy con người hành động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không phải là cái gì khác ngồi lợi ích của họ. Chính những lợi ích đó đã gắn bó con người với
</div>