Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.32 MB, 216 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
MÃ SỐ: LH-2018-12/DHL-HN
Chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Đặng Thanh Nga
Thư ký đề tài: ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền
HÀ NỘI - 2019
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>của giảng viên</small>
PGS.TS. Đặng Thanh Nga ' — Chủ nhiệm đề tài
I. PHAN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội Nghị Trung
ương 8 khoá XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo duc và đào tao” nhân
mạnh can tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học; gan két chat
<small>chẽ giữa đào tao và nghiên cứu khoa hoc, giữa các cơ sở dao tao với các cơ sở</small>
sản xuất kinh doanh [24]. Đây được xem là nhiệm vụ trọng tâm va đã được Bộ Giáo dục — Đào tao thé chế hoá bang các van ban tới các trường dai học năm
<small>Hoạt động nghiên cứu khoa học là một trong hai nhiệm vụ chính khơng</small>
thê thiếu được của giảng viên trường đại học trong việc gop phần nâng cao chat lượng đảo tạo. Nghiên cứu khoa học cũng là một trong hai tiêu chí chính để đánh giá chất lượng của nhà trường trong việc nâng cao, đảm bảo chất lượng của quá trình dao tạo, đặc biệt đối với những trường đại học di theo định hướng nghiên cứu. Vậy, làm thế nào dé hiện thực hố vai trị này và nâng cao được chất lượng nghiên cứu khoa học? Điều đó phụ thuộc phan lớn và trước hết vào
<small>tính tích cực của người giảng viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Vì khitích cực nghiên cứu khoa học, giảng viên sẽ luôn chủ động, sáng tạo, có khả</small>
năng làm việc độc lập, có điều kiện nâng cao và mở rộng những kiến thức chun mơn cần thiết mà mình đang trực tiếp giảng dạy, hình thành ở họ phẩm chất của nhà nghiên cứu khoa hoc, qua đó mà giảng viên tự khang định mình.
<small>: Giảng viên Khoa PLHS, Trường Đại học Luật Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>Bên cạnh đó, tinh tích cực nghiên cứu khoa hoc của giảng viên còn tạo ra su</small>
lây lan tâm lý tích cực khơng chỉ cho các đồng nghiệp mà còn cả cho các em
<small>sinh viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học, từ đó nâng cao hiệu quả và</small>
chất lượng đào tạo, góp phan quan trọng dé khang định uy tin của nhà trường
<small>trong xã hội.</small>
<small>Trong những năm qua, Trường Đại học Luật Hà Nội luôn chú trọng và</small>
quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học. Công tác này được xem như là
một nhiệm vụ then chốt để phát triển nhà trường là trường đại học có định hướng nghiên cứu, một đảm bảo cho sự thành công đổi mới, nâng cao chất
<small>lượng đào tạo và đưa “thương hiệu” trường có khả năng cạnh tranh trong nước</small>
và khu vực Đông Nam A. Điều này đã được nêu rõ trong Chiến lược phát triển
khoa học giai đoạn 2016 -2021 (Ban hành kèm theo Quyết định số
<small>2392/OD-DHLHN ngày 14 thang 8 năm 2017 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Ha</small>
Nội) và mới gần đây nhất là tại Định hướng phát triển nghiên cứu khoa học của Trường Dai học Luật Hà Nội giai đoạn 2018 — 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số 548/OD-PHLHN ngày 06 thang 02 năm 2018 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội). Từ sự quan tâm này, nhà trường đã đạt được một s6 thành tựu đáng kể. Hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường đã dan đi vào nề nếp, với nhiều đổi mới trong quy trình quản lý, mang lại hiệu quả thiết thực đối với sự nghiệp dao tạo và phục vu có hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thông qua các đề tài nghiên cứu được triển khai và hoạt động chuyên giao cơng nghệ, góp phan khơng ngừng củng cố và nâng cao vị thé của một trường đại học hàng đầu trong cả nước về đào tạo cán bộ pháp luật.
Bên cạnh đó, cũng cần thắng thắn thừa nhận, hoạt động nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật Hà Nội thời gian qua vẫn còn một số tồn tại. Một bộ phận giảng viên còn chưa nhận thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa của hoạt
<small>động nghiên cứu khoa học, thái độ nghiên cứu khoa học chưa tích cực, cịn cótư tưởng trung bình chủ nghĩa, chưa thực sự đam mê, chủ động, sáng tạo trongnghiên cứu khoa học, chat lượng dé tài chưa cao, việc xã hội hố các đê tài cịn</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">thấp, khả năng ứng dụng của một số đề tài nghiên cứu khoa học cịn hạn chế. Vì vậy, dé thu hút giảng viên tham gia tích cực nghiên cứu khoa học, cần tim hiểu các biểu hiện tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên, cũng như
những yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực đó. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tính tích nghiên cứu khoa học của giảng viên trường đại học trên bình diện tâm lý học. Do đó, nghiên cứu về tính
<small>tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên trường đại học nói chung, của</small>
Trường Đại học Luật Hà Nội nói riêng để có các biện pháp nâng cao tính tích
cực nghiên cứu khoa học của giảng viên là việc làm cần thiết và có ý nghĩa
<small>trong giai đoạn hiện nay.</small>
Xuất phát từ các lý do trên, chúng tơi chọn đề tài “Tính tích cực nghiên
<small>cứu khoa học của giảng viên Trường Dai học Luật Hà Nội ”.</small>
<small>2. Tình hình nghiên cứu tính tích cực và tính tích cực nghiên cứukhoa hoc của giảng viên</small>
<small>2.1. Tình hình nghiên cứu tính tích cực và tính tích cực nghiên cứukhoa học của giảng viên ở nước ngồi</small>
Vấn đề tính tích cực nói chung và tính tích cực nghiên cứu khoa học nói riêng được nhiều tác giả ở nước ngoài quan tâm nghiên cứu.
Các tác giả L.X. Vưgôtxki, X.L. Rubinstein, A.N. Leonchiep cho rằng:
<small>Chỉ trong hoạt động thì tính tích cực cũng như tâm lý, ý thức của con người</small>
mới bộc lộ, nảy sinh, hình thành và phát triển. Hoạt động học tập là hoạt động
<small>tích cực [28].</small>
Các tac giả G.I.Sukina, R.A. Nizamôv, đã nghiên cứu bản chất tính tích cực nhận thức, mỗi quan hệ giữa tính tích cực và tính độc lập nhận thức, phân
<small>loại tính tích cực nhận thức [3].</small>
Tác giả Carrol E.Jzard đã nghiên cứu về hệ thống thái độ của con người, đó là thành phần khơng thẻ thiếu của tính tích cực của con người, bởi “những
cảm xúc tạo nên hệ thống động cơ chính của con người”. Tác giả chỉ ra sự ảnh hưởng chi phối của xúc cảm với ý thức, mức độ phát triển tính tích cực. Tác
giả cịn phân tích khá sâu sắc thành phần tâm lý quan trọng của tính tích cực
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">của con người, được biéu hiện từ mức độ thấp là “tò mò” và mức độ cao là
<small>“khao khát nghiên cứu” [4].</small>
<small>Tác giả E.A. Klimov đưa ra khái niệm “tích cực lao động” liên quan chat</small>
chẽ với các q trình trí tuệ, tư duy. Tác giả cho rằng, con người có khả năng
hoạt động tích cực, tìm tịi và sáng tạo trong tự nhiên và xã hội sẽ theo đi các mục đích xã hội quan trọng. Tính tích cực và đặc trưng của nói thuộc các điều kiện tâm lý chủ quan. Những người có bề dày kinh nghiệm hoặc có những đột phá sáng tạo sẽ thiết lập nên những hiện thực chủ quan đặc biệt, hệ thống quan, nhân sinh quan và cả môi trường lao động sản xuất mang lại trạng thái bên
<small>trong thoải mái cho bản thân mình nói riêng. Đó chính là sự lạc quan, cảm xúcthăng hoa, hai lòng... [50].</small>
Tác giả L. E. Marler trên cơ sở tổng hợp các cơng trình nghiên cứu đi trước khăng định: “Tính tích cực của người lao động được thé hiện trên nhiều bình diện khác nhau như: Sáng ý kiến cá nhân, đóng góp ý kiến/quan điểm, có
Tác giả I.V. Korolơv cho rằng, tính tích cực lao động là hình thức tương tác của các chủ thé quan hệ lao động trong mơi trường làm việc, ở đó có những nỗ lực hợp lý của cá nhân là do sự tự do, sáng tạo, ý thức, tính chủ thể, sự tận tâm nhằm thoả mãn nhu cầu của họ. Tính tích cực lao động khơng chỉ đóng góp vào thay đổi thế giới xung quanh mà cịn góp phan thay đổi chính bản thân chủ thể [51].
Tác giả V.A. Gaivoroniuk trên cơ sở nghiên cứu hệ thống động cơ thúc đây tính tích cực làm việc đã chỉ ra, tính tích cực khơng chỉ hướng tới tăng
<small>năng xt lao động, mà cịn là xu hướng đơi mới, cải thiện điêu kiện làm việc,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><small>cải thiện các công cụ lao động, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ</small>
[dẫn theo 20, tr.33].
Tác giả S.E. Seibert và đồng nghiệp khang định tính tích cực của mỗi cá
nhân thê hiện ở sự chủ động nhiều hay ít trong việc giải quyết công việc của họ [dẫn theo 20, tr.33].
Tác giả E.F. Zeer coi tính tích cực nghề nghiệp điển hình là mức độ hiện thực hố hoạt động chủ đạo, biểu hiện ở lòng nhiệt huyết nghề nghiệp, sáng
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài chủ yếu là nghiên cứu các thành phần của tính tích cực và sự hình thành tính tích cực. Cịn tính tích
<small>cực nghiên cứu khoa học nói chung và tính tích cực nghiên cứu khoa học của</small>
giảng viên nói riêng cịn chưa được đề cập một cách sâu sắc.
<small>2.2. Tình hình nghiên cứu tính tích cực và tính tích cực nghiên cứukhoa học của giảng viên 6 trong nước</small>
Ở Việt Nam, van dé tính tích cực nói chung và tính tích cực nghiên cứu khoa học nói riêng cũng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Các tác giả Phạm Minh Hạc, Nguyễn Quang Uan, Trần Trọng Thuy,
<small>Trên cơ sở nghiên cứu thái độ học tap cua học sinh, hai tac gia Hoang</small>
Đức Nhuận và Lê Đức Phúc cho rằng một thành phần không thé thiếu của tính tích cực học tập của học sinh, bởi khi học sinh có thái độ học tập đúng đắn thì
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">các em mới tích cực tìm ra các cách thức tối ưu đề lĩnh hội tri thức từ đó mới chuyên thành tâm lý, ý thức của bản thân một cách có hiệu quả [25].
Tác giả Đặng Vũ Hoạt cho rằng tính tích cực nhận thức biểu hiện ở chỗ
<small>huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý, đặc biệt chức năng tư duy.</small>
Trong đó sự kết hợp thống nhất giữa các yếu tố tâm lý nhận thức với các yếu tơ
<small>tình cảm, ý chí càng linh hoạt bao nhiêu thì ở người học tính tích cực càng cao</small>
bấy nhiêu [29].
Tác giả Lê Hương trên cơ sở nghiên cứu tính tích cực nghề nghiệp của
cơng chức đã khăng định rằng, tính tích cực trong hoạt động nghề nghiệp là nói đến bản thân hoạt động đó, ở đây khơng cịn là quan niệm, là sự nhìn nhận hay
những mong muốn mà là mức chi phí thời gian và sức lực của con người trên thực tế cho hoạt động nghề nghiệp. Theo tác giả, tính tích cực nghề nghiệp có thé thé hiện chủ yếu ở hai biểu hiện: Thứ nhất là mức độ dau tư thời gian, sức lực của cán bộ, công chức cho việc kiếm sống và thành đạt trong nghề nghiệp; thứ hai là mức nỗ lực ý chí của họ [17, tr.62].
Các tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị trên cơ sở phân tích đặc điểm tâm lý hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng dạy đại học và đặc điểm nhân cách đã khăng định: Thái độ cảm xúc của con người đối với nghề nghiệp có một sức mạnh quan trọng. Đặc biệt trong hoạt động sư phạm, con người càng tìm thấy sự hấp dẫn thì càng giải quyết các nhiệm vụ sư phạm có kết quả và thái độ của họ đơi với hoạt động càng thích thú, bền vững và sâu sắc và ngược lại. Tính có mục đích rõ rệt là tham số được vạch ra trên
cơ sở thái độ tìm tịi của người giảng viên đối với những khả năng hoàn thiện
tay nghề sư phạm. lịng u nghề, u người, hứng thú với bộ mơn mình giảng
<small>day [33, tr.136].</small>
Tac gia Tran Huong Thanh cho rang tính tích cực lao động của can bộ,
cơng chức hành chính là sự nỗ lực, cố gang và sự chủ động mang tinh tự giác
của bản thân nhằm hoàn thành các nhiệm vụ được giao với hiệu quả cao [34,
<small>tr.31].</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Tác giả Nguyễn Thi Tình cho rang tính tích cực giảng day của giảng
viên biểu hiện ở ba mặt: Nhận thức, thái độ và hành động, đồng thời chỉ ra một số yêu tô ảnh hưởng đến tính tích cực này [37].
Ban về tính tích cực làm việc của người lao động, tác giả Lê Minh Loan cho rằng tính tích cực làm việc là ý thức tự giác của người lao động thé hiện sự chủ động, hứng thú, sáng tạo và nỗ lực vượt khó khăn trở ngại nhăm thực hiện
<small>một cách có hiệu quả cơng việc [20, tr.35].</small>
Có thê thấy răng, cũng như các cơng nghiên cứu ở nước ngoải, các cơng trình nghiên cứu ở trong nước chủ yếu là nghiên cứu các thành phan của tính
<small>tích cực và sự hình thành tính tích cực. Cịn tính tích cực nghiên cứu khoa họcnói chung và tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên nói riêng cịn</small>
chưa được dé cập và quan tâm.
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi và trong nước chủ yếu
<small>nghiên cứu tính tích cực và sự hình thành tính tích cực, nhưng chưa có tác giảnào nghiên cứu tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên nói chung và</small>
giảng viên Đại học Luật Hà Nội nói riêng một cách đầy đủ và tồn diện các biểu hiện của nó. Đặc biệt, việc đi sâu tìm hiểu thực trạng tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Luật Ha Nội và những yếu tô anh hưởng đến thực trạng này có ý nghĩa thiết thực trong việc đề xuất một số biện pháp nhằm khuyến khích và nâng cao tính tích cực nghiên cứu khoa học của
<small>giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội.3. Mục đích nghiên cứu</small>
<small>Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, làm rõ thực trạng tính tích cực nghiên</small>
cứu khoa học của giảng viên Trường Đại Học Luật Hà Nội hiện nay và các yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực này, đưa ra các biện pháp nâng cao tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả nghiên
<small>cứu khoa học của Trường.</small>
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối trợng nghiên cứu
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Mức độ biểu hiện tinh tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên
<small>Trường đại học Luật Hà Nội.</small>
4.2. Khách thể nghiên cứu
Tổng số khách thể tham gia nghiên cứu là 248 giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong đó có: 70 giảng viên tham gia điều tra thử; 160 giảng viên tham gia điều tra chính thức và 18 giảng viên tham gia phỏng van.
<small>5. Nhiệm vụ nghiên cứu</small>
- Hệ thống hoá các vẫn đề lý luận cơ bản về tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên trường đại học, từ đó làm cơ sở lý luận của đề tài như: Các
<small>khái niệm tính tích cực, hoạt động nghiên cứu khoa học, tính tích cực nghiêncứu khoa học, giảng viên, hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên, tính</small>
tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên; các biéu hiện tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên và các yếu ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên
<small>cứu khoa học của giảng viên.</small>
<small>- Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đạihọc Luật Hà Nội giai đoạn 2012 — 2017.</small>
<small>- Khảo sát thực trạng tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên</small>
Trường Đại học Luật Hà Nội và các yếu tơ đến tích cực nghiên cứu khoa học
<small>của họ.</small>
- Đề xuất các biện pháp dé nâng cao tính tích cực nghiên cứu khoa học
<small>của giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội.6. Phạm vỉ nghiên cứu:</small>
Đề tài tập trung nghiên cứu tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội ở bốn khía cạnh biéu hiện: sự chủ động, sự hứng thú, sự sáng tạo và sự nỗ lực vượt khó khăn trong nghiên cứu khoa học
<small>của giảng viên.</small>
7. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 7.1. Cách tiếp cận
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">- Tiếp cận đa ngành: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của tâm lý
<small>học đại cương, tâm lý học nhân cách, tâm lý học xã hội, tâm lý học sư phạmđại học, xã hội học.</small>
- Tiếp cận phát triển: Tính tích cực là một trong những thuộc tính tâm lý nhân cách khơng phải bat biến mà nó có thể hình thành, phát triển và thay đồi.
- Tiếp cận thống nhất ý thức và hoạt động: Xuất phát từ quan điểm chung của tâm lý học đã khăng định rằng: Tâm lý, ý thức của con người được
hình thành và phát triển trong hoạt động và bằng hoạt động — đó là những hoạt động có ý thức. Tính tích cực hoạt động là sự tự ý thức dé làm chủ các hoạt động với tính chủ động, sự hứng thú, sáng tạo và nỗ lực vượt khó khăn nhằm
<small>đạt được mục đích của hoạt động. Do đó, chúng tơi nghiên cứu tính tích cực</small>
nghiên cứu khoa học của giảng viên trên bốn khía cạnh: sự chủ động, sự hứng thú, sự sáng tạo và sự nỗ lực vượt khó khăn trong nghiên cứu khoa học của
<small>giảng viên.</small>
<small>7.2. Các phương pháp nghiên cứu</small>
<small>-Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu;</small>
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; - Phương pháp phỏng vấn sâu;
<small>- Phương pháp chuyên gia;</small>
- Phương pháp thông kê toán học (số liệu điều tra được xử lý theo chương trình SPSS 25.0 phần mén chuyên dung, xử ly phân tích số liệu thống
<small>kê dành cho khoa học xã hội).</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">II PHAN NỘI DUNG
<small>Chương 1</small>
CƠ SỞ LÝ LUẬN VE TÍNH TÍCH CỰC NGHIÊN CUU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN
<small>1.1. Tính tích cực</small>
<small>1.I.I. Khái niệm tính tích cực</small>
Tính tích cực được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, hiểu một cách chung nhất theo Từ điển Tiếng Việt thì tính tích cực được hiểu theo hai nghĩa:
<small>việc (tích cực học tập, tích cực làm việc) [31, tr. 947].</small>
Quan điểm của các nhà sinh học có cách giải thích khác nhau về bản chất sinh lý của tính tích cực cho rằng cơ sở sinh lý thần kinh của tính tích cực chính là hoạt động của vỏ bán cầu đại não và hệ thống tín hiệu thứ hai. Đây là sự khác biệt giữa con người với con vật. Con vật chỉ bắt chước, chứ khơng có
<small>tính tích cực. Chỉ con người mới có tính tích cực hoạt động, hành động [5],[47]. [20].</small>
Quan điểm của các nhà triết học cho răng mỗi sự vật bao giờ cũng thê hiện tính tích cực của nó bởi vật chất ln vận động và phát triển khơng ngừng. Tính tích cực thể hiện ở sức mạnh của con người trong chinh phục cải tạo thế giới và chính bản thân mình. Tính tích cực như là một phẩm chất xã hội căn bản của mỗi người. Tính tích cực của từng cá nhân có thé được thực hiện thông
<small>qua hoạt động sáng tạo. Đây là một loại hoạt đặc biệt: Tự giác, có hứng thú,</small>
những hành động và hành vi được thôi thúc không phải do tính tất yếu bên ngồi mà do tinh tat u bên trong, do nhu cau va lợi ích của chủ thé [37, tr.26].
Quan điểm của các nhà tâm lý học. Trong Từ điển Tâm lý học, tính tích
cực là đặc điểm chung của các cơ thé sống.Trong mối tương quan với hoạt động,
tính tích cực đóng vai trị là điều kiện, động lực của các quá trình hình thành, thực
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">hiện và thay đổi về loại hình của hoạt động, no là thuộc tính quan trọng của sự van
<small>động nội sinh của hoạt động [6, tr.355].</small>
<small>tâm học, tâm lý học nhân văn, tâm lý học hành vi, tâm lý học hoạt động.</small>
Lý thuyết phân tâm học (S.Freud ) cho răng tính tích cực của con người coi
như một sức mạnh tự nhiên sinh vật giống như bản năng động vật, mà đặc biệt là
<small>bản năng tình dục [14].</small>
Lý thuyết tâm lý học nhân văn (A.Maslow, C.Rogers) cho răng mơ hình tích cực được thê hiện trong quan hệ “nhu cầu — tính tích cực” [14].
Ly thuyét tam ly hoc hanh vi (J.watson, Skinner, A.Bandura) cho rang ban
chat của hành vi là phan ứng của co thê đáp ứng lại tác động của môi trường [20]. Lý thuyết tâm lý học hoạt động cho rằng tính tích cực gắn liền với hoạt động và hồn cảnh bên ngồi, nó biểu hiện như động lực dé hình thành và hiện thực hố hoạt động. Các nhà tâm lý học hoạt động đã nghiên cứu van đề tính tích cực hoạt động của cá nhân tập trung chủ yếu ở bốn hướng sau:
Hướng thứ nhất, tính tích cực được xem xét từ góc độ chức năng, vai trò của chủ thé với thế giới bên ngồi (S.Đ.Smirnơp, V.P. Dintrencơ). Các tác giả đã chỉ ra ba điểm biểu hiện của tính tích cực: Tính tích cực thê hiện tinh chủ định của ý thức, tính chủ động của chủ thê với thế giới bên ngoài; tính tích cực là thơng số đo sự chuyển động, sự biến đổi hoạt động tâm lý của chủ thé gan liền với việc tiêu hao năng lượng tâm lý và sinh lý; tính tích cực biểu hiện chức năng thích nghi mà cao hơn là sự thích ứng, sự cải tạo và sáng tạo của chủ thê với thé giới bên ngồi [37, tr.29].
Hướng thứ hai, xem xét tính tích cực gan với hành động va được thê hiện trong các mức độ lĩnh hội khác nhau đó là chỉ số đo tính tích cực của chủ thê (P. la.
<small>Ganpérin, G. Anahiep) [37, tr.29].</small>
Hướng thứ ba, nhìn nhận tính tích cực qua các dau hiệu của chúng (A. N.
Lêonchiep, A.V. Dapôrôzet). Các tác giả đều thống nhất cho răng những thành tố
tâm lý cơ bản, đặc trưng cho tính tích cực là: Tính tích cực gan liền với hoạt động, hay nói cách khác tính tích cực phải thể hiện trong trạng thái hoạt động và được biểu hiện trong những hoạt động, hành vi cụ thé của con người; tính tích cực dé chỉ tinh
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">sẵn sàng hoạt động của chủ thé, là nhu cầu đối với hoạt động của chủ thé; tính tích cực để chỉ tính chủ động, hành động một cách có ý thức, theo chủ ý của chủ thê đối
<small>lập với sự bị động, thụ động [12].</small>
Hướng thứ tư, các tác giả cho rằng tính tích cực bao hàm và thể hiện 4 chỉ số, đó là: Tính giả trị và tính tự nguyện của hoạt động; tính sáng tạo; tính hiệu quả
của hoạt động mà tính tích cực đang hướng tới; tính phát triển (L.M. Atkhangeski,
<small>R. Minle, I. Lich) [37, tr.29].</small>
Trên quan điểm tiếp cận hoạt động — nhân cách — giao tiếp các nhà tâm ly học Việt Nam như Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Quang Uan, Trần hữu Luyén, Trần Quốc Thành... đều thống nhất cho rang tính tích cực là một thuộc tính của nhân cách, được biểu hiện trước hết ở việc xác định tính tự giác thực hiện hoạt động, giao tiếp nhăm thực hiện hố mục đích [48]; [11]. Khi ban vé tính tích cực, tác giả Nguyễn Thị Tinh cho rang, tính tích cực là ý thức tự giác của con người về mục đích của hoạt động, thể hiện ở lịng say mê đơi với hoạt động; sự chủ động, sáng tạo và nỗ lực vượt mọi khó khăn trong hoạt động nhằm tô chức và thực hiện hoạt động có hiệu quả. Tính tích cực được nảy sinh, hình thành, phát triển và biéu hiện trong hoạt động [37, tr.33]. Tác giả Lê Thị Minh Loan cũng cho rằng tính tích cực gắn liền với ý thức tự giác của con nguoi, thé hién su chu động, hứng thú, sáng tao và nỗ lực vượt khó khăn của con người trong các dạng hoạt động cụ thé dé đạt được mục đích [20, tr.25].
Trên cơ sở tổng hợp các cơng trình nghiên cứu đi trước về tính tích cực, chúng tơi cho rằng trong nội hàm khái niệm của tính tích cực cần phải chứa
<small>đựng những nội dung sau: Sự chủ động, sự hứng thú, sự sáng tạo và vượt khó</small>
khăn. Trong nghiên cứu nay, tinh tích cực được hiểu là ý thức tự giác của con người thể hiện sự chủ động, hứng thú, sáng tạo và nỗ lực vượt khó khăn nhằm
<small>thực hiện một cách có hiệu quả hoạt động.1.1.2. Vai trị của tính tích cực</small>
Tính tích cực là một trong những phẩm chat cơ bản của nhân cách. Một cá
<small>nhân chỉ được thừa nhận là một nhân cách khi cá nhân đó tích cực hoạt động,nhờ vào việc nhận thức, cải tạo, sáng tạo ra thê giới và đơng thời cải tạo chính</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">bản thân mình. Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thé hiện rd nét ở tính tích cực của nhân cách [47,
<small>tr.169]. Tinh tích cực có những vai trị sau đây:</small>
- Tính tích cực như một động lực thúc đây hoạt động của con người. - Tính tích cực góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của hoạt động hay nói cách khác, tính tích cực là yếu tố quyết định trực tiếp chất
<small>lượng và hiệu quả mọi hoạt động của cá nhân.</small>
- Tính tích cực là nguồn gốc của sự sáng tạo.
- Tính tích cực là yếu tơ giúp con người hướng tới sự thành đạt.
<small>1.2. Nghiên cứu khoa học</small>
<small>1.2.1. Khai niệm nghiên cứu khoa học</small>
Từ trước đến nay, khái niệm “nghiên cứu khoa học” vẫn được quen dùng
<small>Nghiên cứu khoa học là một khâu cơ bản trong hoạt động khoa học.</small>
Theo tác giả Dương Thiệu Tống nghiên cứu khoa học là hoạt động tìm hiểu có tính hệ thống đạt đến sự hiểu biết được kiểm chứng. Nó là một dạng hoạt động nỗ lực có chủ đích, có tổ chức nhăm thu thập những thông tin, xem xét kỹ, phân tích xếp đặt các đữ kiện lại với nhau rồi đánh giá các thông tin ấy bằng con đường qui nạp và diễn dịch [39, tr.22]. Cũng theo quan điểm này, tác giả Vũ Cao Đàm cho rằng nghiên cứu khoa học là sự phát hiện bản chất sự vật, phát trién nhận thức khoa học về thé giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới va phương tiện kỹ thuật mới dé làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người. Về mặt thao tác, có thé định nghĩa, nghiên cứu khoa học là quá trình hình thành và chứng minh luận điểm khoa học về một sự vật hoặc hiện tượng cần khám phá [8, tr.35].
Theo tiép cận hoạt động nghiên cứu khoa học là một hoạt động tim kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu thu thập được,
các tài liệu, kiến thức...đạt được từ các thí nghiệm khoa học dé phat hiện ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, dé sang tao
<small>phương pháp va phương tiện kỹ thuật mới cao hon, gia tri hon.</small>
Theo tiếp cận nhận thức, nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức
hướng vào việc khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng
trong thé giới khách quan nhằm phát triển nhận thức khoa học và thé giới, đó là
hoạt động trí tuệ nhằm cải tạo hiện thực. Trong nghiên cứu này chúng tôi đồng
tình với khái niệm nghiên cứu khoa học được quy định tại Tại Khoản 4 Điều 3
<small>Luật Khoa học và Công nghệ: “Nghiên cứu khoa học là hoạt động kham pha,</small>
phat hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn "[21].
1.2.2. Các đặc điểm đặc trưng và những công việc chit yếu của nghiên
<small>cứu khoa học</small>
1.2.2.1.Các đặc điểm đặc trưng của nghiên cứu khoa học
Đặc điểm chung nhất của nghiên cứu khoa học là sự tìm tịi những sự vật, hiện tượng mà khoa học chưa hề biết đến. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt đặc điểm khác nhau của nghiên cứu khoa học, mà người nghiên cứu cần quan tâm khi xử lý những vẫn đề cụ thê về mặt phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu. Cụ thể: Tính mới; tính tin cậy; tính thơng tin; tính khách quan; tính rủi ro; tính thừa kế và tính cá nhân.
1.2.2.2. Những cơng việc chủ yếu của nghiên cứu khoa học
Thu thập đữ liệu. Sau khi xác định cho mình một đề tài nghiên cứu thì việc trước tiên là phải tìm thấy những sự kiện có liên quan đến đề tài. Bằng các phương pháp: điều tra, quan sát, đo đạc, làm thí nghiệm dé có những tài liệu, số lượng cần thiết cho cơng việc phục vụ cho một mục đích nào đó tiếp theo.
Sắp xếp dữ liệu. Qua những hoạt động nghiên cứu ban đầu, ta thu được
<small>thêm dữ liệu mới đê công việc cuôi cùng được đơn giản hon.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Xử lý dữ liệu. Đây là công việc quan trọng nhất, giá trị nhất của nghiên cứu khoa học. Một lần nữa, nhà nghiên cứu phải phân tích các dit liệu dé có thể
đốn nhận, khái qt hố thành kết luận.
Khái qt tồn bộ cơng trình, rút ra kết luận chung cho đề tài nghiên
<small>cứu [41, tr. 13].</small>
<small>1.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên1.3.1. Khai niệm giảng viên</small>
Theo Điều 54 Luật giáo dục đại học qui định: “Giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ”
Điều 55 Luật giáo dục đại học qui định nhiệm vụ và quyền hạn của
<small>giảng viên như sau:</small>
- Giảng day theo mục tiêu, chương trình dao tao và thực hiện đầy đủ, có chất lượng chương trình đào tạo.
- Nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ, bảo đảm chất lượng đào tạo.
- Định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao tình độ lý luận chính tri, chun
<small>mơn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy.</small>
- Giữ gìn pham chất, uy tín, danh dự của giảng viên.
- Tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người học,
<small>- Tham gia quản lý và giám sát cơ sở giáo dục đại học, tham gia cơng tác</small>
Đảng, đồn thể và các cơng tác khác.
- Được đăng ký hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học với các cơ
<small>sở giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật.</small>
- Được bố nhiệm chức danh của giảng viên, được phong tặng danh hiệu
<small>Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tư và được khen thưởng theo quy định của phápluật.</small>
- Các nhiệm vụ và quyền lợi khác theo quy của pháp luật [22].
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>1.3.2. Khai niệm hoạt động nghiên cứu khoa học cua giảng viên</small>
Từ sự phân tích trên, chúng tơi có thé đưa ra định nghĩa về hoạt động
<small>nghiên cứu khoa học của giảng viên như sau:</small>
<small>Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên là hoạt động động kham</small>
pha, phat hiện, tìm hiếu bản chất, quy luật của các sự vat, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; dé sáng tạo giải pháp mới nhằm ứng dụng vào hoạt động
<small>giảng dạy, làm cho qua trình đào tạo đạt hiệu qua cao.1.4. Tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng</small>
<small>1.4.1. Khái niệm tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên</small>
Trên cơ sở phân tích các khái niệm về tính tích cực trong tâm lý học, giảng
viên, nghiên cứu khoa học của giảng viên, bước đầu chúng tôi đưa ra khái niệm về
<small>tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên như sau:</small>
<small>Tinh tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên là y thức tự giác cua</small>
giảng viên thể hiện sự chủ động, hứng thú, sảng tạo và nỗ lực vượt khó khăn nhằm thực hiện một cách có hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học.
1.4.2. Các khía cạnh biểu hiện tính tích cực nghiên cứu khoa học của
<small>giảng viên</small>
Tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên được biêu hiện cu thé
<small>ở từng khía cạnh như sau:</small>
<small>1.4.2.1. Sự chủ động trong nghiên cứu khoa học của giảng viên</small>
Sự chủ động trong nghiên cứu khoa học của giảng viên là một biểu hiện quan trọng của tính tích cực nghiên cứu khoa học. Sự chủ động biểu hiện ý thức thực hiện hành động theo một chương trình định trước nhằm đạt kết quả mong
[6, tr.37]. Sự chủ động trong nghiên cứu khoa học được biéu hiện ở chỗ, giảng
viên tự lựa chọn đề tài nghiên cứu xuất phát từ nhiệm vụ do chính mình tự đặt ra; chủ động xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học, độc lập xây dựng đề
Cương, kế hoạch nghiên cứu khoa học; độc lập, tự chủ trong nghiên cứu khoa học; biết cách sử dụng tối đa khả năng của mình trong nghiên cứu khoa học và
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">ln hồn thành tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học mà không cần sự đôn đốc,
<small>giám sát của nhà trường.</small>
<small>1.4.2.2. Sự hứng thu với nghiên cứu khoa học của giảng viên</small>
<small>Sự hứng thú với nghiên cứu khoa học của giảng viên là thái độ đặc biệt</small>
của giảng viên đối với hoạt động nghiên cứu khoa học. Hứng thú luôn gắn liền
với những cảm xúc, tình cảm tích cực khiến cho giảng viên có sự say mê hơn
với khoa học. Nó là động lực thúc day giảng viên đầu tư thời gian, sức lực va
luôn khắc phục khó khăn, trở ngại để hồn thành mục tiêu nghiên cứu khoa
<small>1.4.2.3.Sự sang tạo trong nghiên cứu khoa hoc của giảng viên</small>
<small>Sự sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của giảng viên là một trong nhữngđặc trưng cơ bản của tính tích cực nghiên cứu khoa học. Quá trình nghiên cứukhoa học ln là q trình hướng tới sự phát hiện mới hoặc sáng tạo mới, do đó</small>
địi hỏi giảng viên phải phát huy năng lực, kỹ năng mới có thê tạo nên sản phẩm mới, độc đáo và sâu sắc trong nghiên cứu. Trong nghiên cứu sự sáng tạo của giảng viên mới chỉ dừng lại ở tự đánh giá của giảng viên về mức độ luôn tìm tịi, phát hiện dé thay đổi, cải tiến phương pháp giảng day; thích hình thành và thử nghiệm ý tưởng mới; đưa ra sáng kiến, ý tưởng mới để nâng cao chất lượng đào
<small>1.4.2.4.Sự vượt khó trong nghiên cứu khoa học của giảng viên</small>
Sự vượt khó trong nghiên cứu khoa học của giảng viên là khả năng nỗ lực khắc phục mọi khó khăn dé đạt kết quả cao. Sự thể hiện kha năng vượt khó
ở chỗ, giảng viên ln cố gắng hết sức dé hồn thành tốt mọi nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học được giao; khi nhiệm vụ khoa học cần hồn thành gấp họ ln sắp xếp lại những cơng việc của cá nhân và thậm chí từ bỏ những công việc này; khi gặp những thất bại trong nghiên cứu khoa học thì họ kiên trì tìm
<small>những phương cách khác nhau cũng như học hỏi thêm kinh nghiệm, kỹ năngvà quyết tâm thực hiện băng được mục tiêu mà mình đã đê ra.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên cứu khoa học
<small>của giảng viên</small>
1.5.1. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên cứu
<small>khoa học của giảng viên</small>
1.5.1.1. ¥ thức, động cơ nghiên cứu khoa học của giảng viên
Ý thức trách nhiệm của giảng viên trước cơng việc nói chung và hoạt động
nghiên cứu khoa học nói riêng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính tích cực nghiên cứu khoa học. Giảng viên có tinh thần trách nhiệm cao đối với nghiên cứu khoa học thì
họ hết lịng vì cơng việc, say mê, nhiệt tình, tận tuy nghiên cứu; luôn thực hiện tốt các yêu cầu, quy chế về nghiên cứu khoa học; hoàn thành tốt các nhiệm vụ nghiên
<small>cứu khoa học được giao.... và ngược lại.</small>
Động cơ nghiên cứu khoa học của giảng viên được hiểu là một dạng động lực hay sức mạnh thúc đây họ tích cực nghiên cứu dé đạt được các mục đích của nhà trường hay mục đích tự đề ra. Thực tế, cho thấy có các dạng động cơ khác nhau thúc day giảng viên nghiên cứu khoa học: động cơ vật chất hay tinh than.
<small>15.12. Năng lực chun mơn, kỹ năng nghiên cứu khoa học, trình độ tinhọc, ngoại ngữ của giảng viên</small>
Năng lực chuyên môn được hiểu là tổ hợp những thuộc tính tâm lý phù hợp với yêu cầu nghé nghiệp đặt ra và đảm bảo cho hoạt động nghề nghiệp diễn ra có kết quả. Các nhà tâm ly học cho rang năng lực chuyên môn không phải là cái ôn định lâu bền, khơng thé thay đổi mà nó được bồi dưỡng, củng cố va nâng cao bang chính bản thân cá nhân. Cá nhân có năng lực chun mơn tốt, vững vàng sẽ là điều kiện tiên quyết để đạt được kết quả hoạt động nghề nghiệp. Nó giúp cá nhân tự tin trong công việc và cũng là động lực thúc đây cá nhân có nhiều mơ ước hơn trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Nếu như con đường nghề nghiệp của cá nhân được hình thành một cách ngẫu nhiên, khơng phù hợp với năng lực và tính thuận lợi nghề nghiệp của họ thì sẽ nảy sinh những thất vọng nặng nề và có ảnh hưởng lớn tới sự thăng tiễn trong cơng việc [36, tr.66].
Ngồi kiến thức chun mơn, dé nghiên cứu khoa hoc một cách có hiệu qua địi hỏi giảng viên cần có kỹ năng nghiên khoa học như: Khả năng và phương pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">tư duy; khả năng phát hiện van dé và nhìn nhận van đề bắt đầu nghiên cứu; khả
năng thu thập và xử ly số liệu (thu thập số liệu bằng phương tiện gi, cách thu thập
số liệu, cách phân tích, chọn lọc SỐ liệu...); khả năng vạch kế hoạch làm việc thật
khoa học, tiết kiệm thời gian và kinh tế; khả năng trình bay van đề khoa học phải có
kỹ thuật, rõ ràng, dé hiểu. Giảng viên có kỹ năng nghiên cứu khoa học tốt thì họ thường có niềm đam mê, tích cực, chủ động, độc lập và có khả năng hợp tác với
<small>người khác trong nghiên cứu khoa học... và ngược lại.</small>
Bên cạnh đó, trình độ tin học, ngoại ngữ của giảng viên cũng ảnh hưởng nhất định đến hoạt động nghiên cứu khoa học của họ. Đặc biệt, nếu trình độ ngoại ngữ của giảng viên thấp sẽ ảnh hưởng nhất định tới sự tiếp cận các thành tựu khoa học mới trên thé giới cũng như giao lưu, quảng bá học thuật.
1.5.2. Các yếu tơ khách quan ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên cứu
<small>khoa học của giảng viên</small>
1.5.2.1. Bau không khi tâm lý, tuyên thong nghiên cứu khoa học của khoa
<small>và frường</small>
Bau không khí tâm lý là hệ thống các trạng thái tâm lý tương đôi 6n định đặc trưng cho một tập thé nào đó [7, tr.111]. Bầu khơng khí tâm ly có ảnh hưởng một cách gián tiếp đến hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên. Bầu khơng khí tâm lý xã hội lành mạnh ảnh hưởng rất nhiều tới tốc độ lây lan trong tô chức [35, tr.234]. Một tổ chức khoa và trường có bầu khơng khí tâm lý tốt như các thành viên có sự đồng cảm, dé dàng chia sẻ quan điểm của mình, những van đề riêng tư của cuộc sông, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong các hồn cảnh khó khăn cùng đạt mục tiêu cá nhân và mục tiêu của chung của khoa, trường thì việc sẵn sàng và tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học là điều dé hiểu.
Cùng với bầu khơng khí tâm lý, yếu tố truyền thống của khoa, trường và tập
thể giảng viên cũng có ảnh hưởng khơng nhỏ đến tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên. Truyền thống là nhưng di sản tinh thần luôn luôn liên tục và ln
ln được kế tục. Đó là những đức tính, tập quán, tư tưởng và lỗi sống được hình
<small>hệ khác và có tác dụng to lớn đơi với mơi cá nhân và tồn xã hội, là tài san, tinh hoa</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">văn hoá tinh thần của thế hệ trước chuyên giao cho thé hệ sau [7, tr.118-119]. Truyền thống là một thứ “keo kết dính” các thành viên của khoa, trường trở thành chỉnh thé hoàn chỉnh thống nhất và đoàn kết. Các khoa, trường có truyền thống tốt
đẹp như dạy tốt, ln đổi mới phương pháp dạy học và tích cực nghiên cứu khoa học...sẽ điều chỉnh các giảng viên hoạt động tích cực đề giữ vững truyền thống.
1.5.2.2. Kinh phí, cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học
Mọi hoạt động suy cho đến cùng là nhằm thảo mãn nhu cầu nào đó. Nếu xét theo thang bậc nhu cầu của tác giả A.Maslow, nhu cầu vật chất là nhu cầu thấp nhất
cần được thoả mãn dé từ đó nảy sinh những nhu cầu cao hơn [14. tr.587,
tr.630-632]. Thực tế cho thay, ai cũng cần có việc làm dé sống. Đời sông vat chat cần phải đủ đảm bảo cho cá nhân và gia đình họ. Mọi hoạt động nói chung trước tiên đều đi đến giải quyết và đáp ứng nhu câu, lợi ích của người lao động. Do đó, kinh phí nghiên cứu khoa học là một yếu tố quan trọng góp phần tạo động lực thúc đây giảng viên tích cực nghiên cứu khoa học, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống
<small>của giảng viên.</small>
Theo học thuyết tăng cường tích cực của tác giả B.F. Skinner chế độ thưởng phạt sẽ có ảnh hưởng tính tích cực hoặc tiêu cực đến hành vi của người lao động.
<small>Theo ông những hành vi được thưởng sẽ có tác dụng tích cực, kích thích hành vi lặplai; ngược lại, những hành vi không được thưởng hoặc bi phạt thì có xu hướng khơng</small>
lặp lại. Nhu vậy, thơng thường, khi được thưởng, những hành vi tốt sẽ được lặp lại; phạt có tác dụng loại trừ hoặc làm giảm mức độ xuất hiện hành vi ngoài ý muốn của
<small>nhà quản lý. Tuy vậy, nhưng đôi khi phạt lại gây ra phản ứng tiêu cực và mang lại ít</small>
hiệu quả hơn [20, tr.41]. Thưởng là một yếu tố quan trọng tao động lực thúc day
<small>giảng viên tích cực nghiên cứu khoa học hơn, bởi vì nó là sự ghi nhận cơng sức của</small>
giảng viên từ phía người quản lý, nhà trường. Do đó, Cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học phải được xây dung một cách hợp lý mới có thé làm cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học với tinh thần chủ động, hứng thú, sáng tạo
<small>và nỗ lực vượt khó.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">1.5.2.3. Sự quản lý, diéu hành hoạt động nghiên cứu khoa học
Tác giả M.P.Follet đã quan tâm đến yếu tơ con người và cho rằng dé quản ly có hiệu quả, tránh dùng hình thức ra mệnh lệnh, áp đặt hay chỉ thị từ trên xuống đối với người lao động. Bà cũng cho rằng trong quản lý cần quan tâm tới người lao động về toàn bộ đời sống kinh tế, tinh thần và tình cảm của họ. Trong quan hệ quản lý, cần đề cao tinh thần sự hợp tác, thống nhất giữa những người lao động và người quản ly nhằm phát triển các quan hệ con người tốt đẹp, coi đó là nguồn lực dé tăng
năng xuất và hiệu quả lao động. Theo bà người lãnh đạo cần có những phẩm chat
vậy, sự quản lý, điều hành hoạt động nghiên cứu khoa học của lãnh đạo nhà
trường cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới tính tích cực nghiên cứu khoa
<small>học của giảng viên.</small>
<small>1.5.2.4. Tài liệu phục vụ cho nghiên cứu khoa học</small>
Hiện nay với lượng thông tin bùng nỗ và ngày càng phát triển mạnh mẽ, các tài liệu phục vụ nghiên cứu khoa học rất nhanh bị lạc hậu. Do đó, nhà trường cần liên tục hiện đại hố trung tâm thơng tin tư liệu thì mới có thé tạo điều kiện tối đa
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">cho giảng viên cập nhật kiến thức, nâng cao hiệu quả tìm kiếm tham khảo tai liệu,
thử nghiệm, ứng dụng kiến thức vào hoạt động đào tạo.
1.5.2.5. Khối lượng công việc giảng dạy
Khối lượng công việc giảng dạy được giao phù hợp, khơng bị áp lực, giảng
<small>viên có thời gian tham gia nghiên cứu khoa học, có thời gian nghỉ ngơi giải trí sau</small>
giờ làm việc. Trong quá trình làm việc giảng viên được thê hiện tối đa khả năng của
ban thân và có nhiều cơ hội dé phát triển và ngược lại nếu khối lượng công việc
<small>giảng dạy họ đang đảm nhận không phù hợp sẽ làm cho giảng viên khơng có thời</small>
gian nghiên cứu khoa học, thậm chí thiếu thời tối thiêu dé nghi ngơi, dẫn đến chất lượng giảng day không cao, hoạt động nghiên cứu khoa chỉ cầm chừng, đối phó.
Ngồi các yếu tơ trên, tuổi, giới tính, thâm niên giảng day của giảng viên cũng có ảnh hưởng nhất định đến tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của dé tài, chúng tôi không tập trung nghiên cứu sâu những yếu tố này.
Tóm lại, băng việc nghiên cứu các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước về tính tích cực nói chung và tính tích cực làm việc nói riêng, chúng tơi đã hệ thống hoá được các van dé lý luận nêu trên và dự kiến xây dựng khung phân tích thực trạng của tính tích cực nghiên cứu khoa học giảng viên theo mơ hình lý thuyết
<small>sau đây:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Sơ đỗ 1.1: Mơ hình nghiên cứu về tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên
<small>Tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên</small>
<small>Các khía cạnh biêu hiện</small>
<small>Sự chủ Sự hứng Sự sing tạ6 Sự nỗ lực</small>
<small>động thú , ‘ vượt khó</small>
Các yếu tố chủ quan: Các yếu tố khách quan:
<small>-Ý thức, động cơ tham gia nghiên cứu khoa | - Kinh phí, cơ chê, chính sách khuyên khích</small>
<small>học nghiên cứu khoa học</small>
<small>-Năng lực chun mơn, kỹ năng nghiên - Sự quản lý, điêu hành hoạt động nghiên cứu</small>
<small>cứu khoa học khoa học</small>
<small>- Trình độ tin học, ngoại ngữ - Tai ligu phuc vu cho nghién cttu khoa hoc- Khôi lượng công việc giảng day</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><small>Chương 2</small>
KET QUA NGHIÊN CỨU THUC TIEN VE TÍNH TÍCH CUC NGHIEN CUU KHOA CUA GIANG VIEN
TRUONG DAI HOC LUAT HA NOI
2.1. Tổ chức nghiên cứu thực tiễn
<small>2.1.1. Phương pháp nghiên cứu</small>
Đề có thể thu thập được những thơng tin cần thiết liên quan đến đánh giá
<small>tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội,chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau đây:</small>
<small>2.1.1.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu</small>
Phương pháp này bao gồm các cơng việc như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hoá và khát quát hoá các những vấn đề về phương pháp luận, về lý luận, về thực tiễn có liên quan đến tính tích cực, tính tích cực nghiên cứu khoa học, các yếu tố ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên cứu khoa học của các
<small>tác giả trong và ngoài nước đã được đăng tải trên các sách, báo, tạp chí, luận ánchuyên ngành.</small>
2.1.1.2. Phương pháp diéu tra bằng bảng hỏi
Phương pháp điều tra bằng bang hỏi là phương pháp chính dùng dé thu thập thơng tin để đánh giá tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội. Bảng hỏi gồm những câu hỏi nhăm thu thập dữ liệu liên quan đến 4 nội dung chính: 1) Những thơng tin nhân khâu của giảng viên; 2) Những thông tin nhận thức của giảng viên về vai trị của tính tích cực nghiên cứu khoa học đối với hoạt động đào tạo; 3) Những thông tin về các khía cạnh biểu hiện của tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên; 4) Những thông tin về các yếu tổ ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên cứu khoa học của
<small>giảng viên.</small>
- Các câu hỏi nham thu thập thơng tin về các khía cạnh biểu hiện của
<small>tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên có 4 thang đo với độ tin cậyalpha của Cronbach như sau: Sự chủ động (8 item, œ =0,84); sự hứng thú (7</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">item, œ = 0,83 ); sự sáng tao (6 item, a = 0,84); su nỗ lực vượt khó (7 item, a =0,76). Mỗi item trong các thang đánh giá có 5 phương án trả lời với các
điểm tương ứng như sau: Không đúng: 1 điểm; sai nhiều hơn đúng: 2 điểm; đúng nhiều hơn sai: 3 điểm; đúng: 4 điểm; rất đúng: 5 điểm. Điểm càng cao,
<small>giảng viên càng tích cực nghiên cứu khoa học, càng chủ động, càng hứng thú,</small>
càng sáng tạo, càng nỗ lực vượt khó trong nghiên cứu khoa học.
Dé phân nhóm mức độ của từng thang do theo điểm trung bình, chúng
tơi sử dụng phương pháp phân tổ trong thống kê: Đầu tiên, lẫy điểm cao nhất là 5 trừ đi điểm thấp nhất là 1 và chia cho 5 (số nhóm dự định chia) được điểm chênh lệch của mỗi mức độ tương đương 0,8. Từ đó, điểm trung bình của mỗi thang đo được chia thành 5 mức với khoảng điểm như sau: mức rất thấp từ 1 đến 1,8; mức thấp từ 1,8 đến 2,6; mức trung bình từ 2,6 đến 3,4; mức khá từ 3,4 đến 4,2 và mức cao từ 4,2 đến 5,0.
- Các câu hỏi nhăm thu thập thông tin về các yếu tơ ảnh hưởng đến tính
<small>tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên có 4 thang đo với độ tin cậy alpha</small>
của Cronbach là: (9 item, a =0,87). Mỗi item trong các thang đánh giá có 4 phương án trả lời với các điểm tương ứng như sau: Không ảnh hưởng: 1 điểm;
It ảnh hưởng: 2 điểm; Ảnh hưởng: 3 điểm; Rất ảnh hưởng: 4 điểm. Điểm càng
cao, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến tính tích cực nghiên cứu khoa học
<small>của giảng viên càng mạnh.</small>
Dé phân nhóm mức độ của từng thang do theo điểm trung bình, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tổ trong thống kê: Đầu tiên, lay điểm cao nhất là 4 trừ đi điểm thấp nhất là 1 và chia cho 4 (số nhóm dự định chia) được điểm chênh lệch của mỗi mức độ tương đương 0,75. Từ đó, điểm trung bình của mỗi thang đo được chia thành 4 mức với khoảng điểm như sau:
- Điểm trung bình từ 1 đến 1,75: Mức thấp, tương ứng với yếu tố này ít ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên.
- Điểm trung bình từ 1,75 đến 2,5: Mức trung bình, tương ứng với yêu tố này tương đối ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng
<small>viên.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">- Điểm trung bình từ 2,5 đến 3,25: Mức khá cao, tương ứng với yếu tố này ảnh hưởng mạnh đến tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên.
- Điểm trung bình từ 3,2 đến 4,0: Mức cao, tương ứng với yếu tơ này anh
hưởng rất mạnh đến tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên.
2.1.1.3. Phương pháp phỏng van sâu
Sử dụng phương pháp phỏng van sâu nhằm bồ sung, kiểm tra và làm rõ
hơn những thông tin đã thu thu thập được thông qua phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Qua đó phát hiện thêm những biểu hiện của tính tích cực nghiên cứu
<small>khoa học của giảng viên. Những thơng tin này có giá trỊ là căn cứ nhận xét,</small>
khẳng định tính chính xác hơn thực trạng tính tích cực nghiên cứu khoa học của giảng viên. Ngồi ra, có thé tìm hiểu thêm các nhân tơ ảnh hưởng đến tính tích cực nghiên cứu khoa học học của giảng viên và những kiến nghị của họ. Đồng thời những thông tin này cũng giúp cho chúng tơi có thêm căn cứ dé khẳng định tính trung thực, độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
<small>2.11.4. Phương pháp chuyên gia</small>
Tham khảo ý kiến của các giáo sư, phó giáo sư, các nhà khoa học ... để có thêm thơng tin tin cậy đảm bảo tính khách quan cho các kết quả nghiên cứu. Đặc biệt xin ý kiến đóng góp cho những đề xuất nâng cao tính tích cực nghiên
<small>cứu khoa học của giảng viên.</small>
2.1.1.5. Phương pháp thống kê tốn học
Tồn bộ số liệu điều tra được xử lí theo chương trình SPSS 25.0. với các phép phân tích dữ liệu được sử dụng gồm: Phân tích độ tin cậy, phân tích yếu tố, phân tích tỷ lệ %, điểm trung bình, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính.
2.1.2. Mẫu nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong số 185 khách thé trả lời bảng hỏi có 25 khách thé không điền đầy đủ thông tin
vào phiếu nên đã bị loại, còn lại 160 khách thể được lựa chọn vào q trình
phân tích số liệu với các đặc điểm khác nhau: Theo giới tính: Nữ chiếm 57,5%, nam chiếm 42,5%; Theo độ tuổi: Tuổi dưới 30 chiếm 18,8%, từ 30 tuổi đến 35
tuôi chiếm 39,3%, từ 36 tuổi đến 45 tuổi chiếm 13,8% va từ 46 tuôi trở lên
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">chiếm 28,1%; Theo thâm niên giảng dạy: dưới 5 năm chiếm 25%, từ 6 năm đến 10 năm chiếm 26,3%, từ 11 năm đến 20 năm chiếm 17,5% và từ 21 năm trở lên chiếm 31,2%; Theo trình độ học vấn: thạc sĩ chiếm 62,5% và tiến sĩ chiếm 37,5%.
<small>2.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại họcLuật Hà Nội giai đoạn 2012 — 2017</small>
<small>2.2.1. Mơi trường chính sách của Nhà nước, quy định của Trường Dai</small>
học Luật Hà Nội về nghiên cứu khoa học của giảng viên
Cụ thể hóa chính sách của Đảng về phát triển khoa học công nghệ trong giáo dục dai học, Luật giáo duc đại học 2012 đã ghi nhận chính sách đâu tư của nhà nước cho hoạt động nghiên cứu khoa học, đây mạnh tự chủ trong
<small>nghiên cứu khoa học và trách nhiệm giải trình.</small>
Giảng viên có quyền và nghĩa vụ thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học. Theo Điều 7, Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 31 tháng 12 năm 2014 quy định chế độ làm việc đỗi với giảng viên, giảng viên phải đành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm hoc dé làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Mỗi năm, giảng viên phải hoàn thành
<small>nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được giao ứng với chức danh hoặc vi trí cơng</small>
việc đang đảm nhận. Kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên được đánh giá thông qua các sản phẩm nghiên cứu khoa học cu thé, tối thiểu một đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở hoặc tương đương được nghiệm thu từ đạt yêu cầu trở lên hoặc một bài báo được cơng bố trên tạp chí khoa học có phản biện
<small>hoặc một báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học chuyên ngành. Việc giao và</small>
triển khai thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cho giảng viên phải phù hợp với điều kiện, tiềm lực khoa học, định hướng phát triển hoạt động khoa
<small>học và công nghệ của cơ sở giáo dục đại học và phù hợp với năng lực chuyên</small>
môn của giảng viên. Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học giao cụ thê nhiệm vụ
<small>nghiên cứu khoa học cho giảng viên của đơn vi [38].</small>
<small>Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Luật Hà</small>
Nội được quy định rõ tại Điều 5 của Quy định chế độ làm việc đối với giảng
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">viên Trường Đại học Luật Hà Nội ban hành kèm theo Quyết định số 1949/QD-ĐHLHN ngày 30 tháng 6 năm 2016 gồm:
- Chủ trì hoặc tham gia thực hiện các chương trình, đề án, dự án, đề tài
<small>nghiên cứu khoa học.</small>
- Nghiên cứu khoa học dé phục vụ xây dựng chương trình dao tạo, bồi
<small>dưỡng, biên soạn giáo trình cho Trường, sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo,</small>
đối mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá môn học.
- Công bô kết quả nghiên cứu khoa học trên tạp chí kho học trong và ngồi nước, tạp chí điện tử, diễn đàn khoa học trên trang thông tin điện tử của Trường.
- Tổ chức, tham gia viết chuyên đề, tham luận tại các hội nghị, hội thảo,
<small>toạ đàm khoa học ở trong và ngồi nước theo sự phân cơng của Trường.</small>
- Hướng dẫn người học nghiên cứu khoa học.
- Tham gia nghiệm thu đề tài khoa học theo phân công của Trường (trừ các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên); thầm định các bài viết cho Tạp
<small>chí Luật học.</small>
- Tham gia công tác xây dựng pháp luật, phản biện xã hội theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước, tơ chức chính trị, xã hội; thực hiện gop y các văn bản pháp luật, chính sách, đề án của Bộ Tư pháp, ngành Tư pháp, của đất nước; xây dựng các báo cáo chuyên dé theo phân công của Trường [42].
Giảng viên không chỉ cần đáp ứng năng luc nghiên cứu khoa hoc ma còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn đạo đức. Theo quy định tại Điều 3 Quy định tiêu chuẩn năng lực và đạo đức trong hoạt động khoa học của Trường Đại học Luật ngày 02 tháng 6 năm 2017, giảng viên trước hết phải (i) có phâm chat chính trị, đạo đức tốt; có tâm huyết với nghề, giữ gìn danh dự, lương tâm của nghề nghiệp; đồn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; có lịng nhân ái, vị tha; đánh giá cơng bang và đúng năng lực của đồng nghiệp; tôn trọng nhân cách, bảo vệ các quyên, lợi ích chính đáng của đồng nghiệp; tận tuy với công việc; thực hiện
đúng điều lệ , quy chế, nội quy của cơ quan và của ngành; trung thực, khách
quan; có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ giảng
<small>dạy, nghiên cứu khoa học và các hoạt động giáo dục khác [43 |.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">2.2.2. Nguồn lực phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa hoc của giảng
<small>viên Trường Dai học Luật Hà Nội</small>
2.2.2.1. Nguôn nhân lực
Trường Đại học Luật Hà Nội là cơ sở đào tạo luật có quy mơ lớn nhất cả
nước, là một trường trọng điểm được Nhà nước quan tâm và đầu tư với một đội
<small>ngũ giảng viên, các nhà khoa học hùng hậu so với các cơ sở đào tạo khác. Theo</small>
số liệu mới nhất, tính đến 01/9/2018, Trường Dai học Luật Hà Nội có số lượng giảng viên là 295 giảng viên trên tổng số 431 cán bộ, viên chức va lao động hợp đồng (chiếm 68%). Trong đó có 4 giáo sư; 37 phó giáo sư, 77 tiến sĩ, 164 thạc sĩ
<small>và 13 cử nhân. Ngồi ra có 04 giảng viên nước ngồi làm việc dai hạn tai Trường.</small>
Về mặt cơ cau, hiện nay, sé lượng giảng viên có thâm niên dưới 10 năm khoảng 40%. Đây là nguồn nhân lực kế cận và thể hiện Trường trong tương lai. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng,“nhiều giảng viên trẻ mới được tuyên dụng
<small>cũng đặt ra những thách thức lớn cho cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu</small>
khoa học vốn địi hỏi trình độ chun mơn sâu”[10]. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên thực hiện cơng tác quản lý hành chính khơng bé trí được nhiều thời gian cho hoạt động nghiên cứu khoa hoc do khối lượng công việc quản lý ngày càng nhiều trong bối cảnh không được tăng cường nhân sự.
2.2.2.2. Nguồn vát lực
Trường có cơ sở chính tại 87 Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội với diện tích 14.000 m2, diện tích đất xây dung là 5809,35m2. Trong các tịa nhà được bồ trí hỗn hợp, gồm: khu làm việc cho của Ban Giám hiệu, khu làm việc
<small>cho các khoa, phòng, ban, trung tâm và khu giảng đường, phịng học. Trong</small>
<small>đó, diện tích sử dụng cho các khu giảng đường, phịng học là 7.962m2, diện</small>
<small>tích khu văn phịng là 3.819m2, diện tích cho Thư viện là 1.700m2, khu ký túcxá sinh viên là 5.522m2 sản.</small>
2.2.2.3. Nguồn tài lực
<small>Theo Nghị định 99/2014/NĐ-CP ngày 25/10/2014 của Chính phủ quy</small>
định việc đầu tư phát triển tiềm lực và khuyên khích hoạt động khoa học và
công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học thì hàng năm Trường phải dành tối
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">thiểu 5% kinh phí từ nguồn thu hợp pháp dé đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến
khích hoạt động khoa học, cơng nghệ; và dành tối thiêu 3% kinh phí từ nguồn thu
học phí của Trường để sinh viên và người học hoạt động nghiên cứu khoa học. Đồng thời theo Quyết định số 549/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tông thé “ Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và
Trường Đại học Luật Thành phó Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm đào tạo cán
bộ về pháp luật” thì kinh phí nghiên cứu khoa học chiếm tỷ trọng tương đối lớn
<small>(khoảng 28 tỷ). Tuy nhiên, thời gian qua kinh phí dành cho hoạt động nghiên cứu</small>
khoa học của Trường còn tương đối thấp. Kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước cấp
trong Đề án 549 mặc dù đã dành một phân lớn cho nghiên cứu khoa học nhưng do nguồn kinh phí được cấp thấp hơn rất nhiều so với dự toán nên hàng năm kinh phí nghiên cứu khoa học được chi trong khoảng 1,4 ty và đều dành cho đề tai nghiên cứu
<small>Theo Báo cáo tự đánh giá, Trường Đại học Luật Hà Nội đã thu/chi, hoạt</small>
động nghiên cứu khoa học còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của pháp luật
<small>hiện nay, theo đó, 5% doanh thu của doanh nghiệp phải dành cho nghiên cứukhoa học.</small>
2.2.2.4. Nguồn tin lực
Các phòng học, phòng làm việc của Trường đều được bồ trí đầy đủ các trang thiết bị dạy và học, hệ thống máy tính, mạng được đầu tư, nâng cấp hiện đại phục vụ tốt nhu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học của giảng viên, sinh
<small>viên và học viên.</small>
Thư viện Trường có đầy đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học theo yêu cầu sử dụng của cán bộ, giảng viên và người học. Đến nay tổng số vốn tài liệu của thư viện là 18.078 đầu tài liệu (188.616 cuốn). Ngồi sách, giáo trình, sách tham khảo, thư viện
còn thu thập, b6 sung đầy đủ tạp chí chuyên ngành luật và các ngành khoa học
<small>xã hội có liên quan dén lĩnh vực luật học xuât bản trong nước và quôc tê.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">luật để trao đôi, chia sẻ nguồn tài liệu và các dịch vụ thông tin thư viện.
<small>Thư viện Trường được xây dựng theo mô hình thư viện tự phục vụ, được</small>
tự động hóa ở mức tối đa. Toàn bộ hoạt động quản lý chuyên môn nghiệp vụ,
<small>lưu thông tài liệu, quản lý bạn đọc, tra cứu thông tin, dịch vụ photocopy được</small>
quản lý bằng phần mềm quản lý thư viện Thư viện điện tử, thư viện số KIPOS, hệ thống P-Counter.
<small>2.2.3. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viênTrường Đại học Luật Hà Nội</small>
2.2.3.1. Những kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng
<small>viên Truong Đại học Luật Hà Nội</small>
<small>Trong giai đoạn 2012 - 2017, hoạt động nghiên cứu khoa học của</small>
Trường Đại học Luật Hà nội đã được chú trọng đây mạnh và đạt được những kết quả đáng ghi nhận cả về sé lượng, chất lượng, hiệu quả. Các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học đã bám sát đời sống chính trị, pháp lý của đất nước và
- Về đề tài nghiên cứu khoa học
Trong giai đoạn từ năm 2012 - 2017 Trường đã tham gia đấu thầu và chủ trì thực hiện 03 đề tài cấp Nhà nước; quản lý và triển khai thực hiện 21 đề tài cấp Bộ, cụ thé: 4 dé tài (năm 2012); 3 dé tài (năm 2013); 4 đề tài (năm 2014); 3 dé tài (năm 2015); 3 dé tài (năm 2016) và 4 dé tài (năm 2017).
Số lượng đề tài cấp Trường được thực hiện giai đoạn từ năm 2012 - 2017
là 109 cụ thể: 12 đề tài (2012); 10 đề tài (2013); 15 đề tài (2014); 18 đề tài (2015); 14 đề tài (2016) và 40 đề tài (2017).
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Biểu đồ 2.1: Số lượng dé tài khoa học các cấp của giảng viên Trường Đại học
<small>mnăm 2012 mNam 2013 Năm 2014. sNăm 2015 mNăm 2016 mNam 2017</small>
Kết quả biểu đồ 2.1, cho thấy số lượng đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2017 tăng lên so với những năm trước, đặc biệt gấp hơn 3 lần so với năm 2016. Ngoài ra, các giảng viên của Trường cũng đã tích cực phối hợp, tham gia thực hiện rất nhiều đề tài các cấp do các Bộ, Ngành, các viện hoặc cơ sở đào tạo khác chủ trì. Điều này cho thấy đội ngũ giảng viên của trường đã có xu thé tích cực tham ra nghiên cứu khoa học dé tài cấp trường.
- Về hội thảo khoa học
Từ năm 2012 - 2016, Trường đã tổ chức thành công 115 hội thảo, trong
đó có 09 hội thảo quốc tế, 42 tọa đàm, hội thảo cấp Trường, 64 hội thảo cấp
Khoa. Riêng trong năm 2017, Trường đã tổ chức thành công 07 hội thảo quốc tế, 13 hội thảo cấp Trường và 36 hội thảo cấp Khoa về các lĩnh vực chuyên
<small>môn, quản lý thuộc chức năng, nhiệm vụ của Trường, trong đó có 05 hội thảo</small>
quốc tế, 03 tọa đàm, hội thảo cấp Trường được phê duyệt ngoài Kế hoạch
<small>nghiên cứu khoa học của năm 2017. Nội dung các hội thảo đa dạng, liên quan</small>
đến nhiều lĩnh vực pháp lý quan trọng của đất nước, của Ngành. Các hội thảo đã thu hút được sự tham gia của nhiều chuyên gia đầu ngành đến từ các trường
<small>đại học, viện nghiên cứu, các chun gia làm cơng tác thực tiên..., trong đó có</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">nhiều chuyên gia đến từ các nước Cộng hoà Liên Bang Đức, Cộng hoà Pháp, Trung Quốc... Các hội thảo cũng chú trọng và tạo điều kiện tham gia đối với
<small>sinh viên, học viên và giảng viên trẻ.</small>
Như vậy, trung bình hăng năm, Trường tơ chức từ 2 đến 5 hội thảo quốc
tế, khoảng 20 hội thảo cấp trường và cấp khoa với những chủ đề thời sự, thiết
<small>thực, thu hút được sự tham gia đông đảo của cán bộ, giảng viên và học viên của</small>
Trường và của các cơ sở đào tạo pháp luật khác trong toàn quốc.
- Về Số lượng bài báo đăng trên các tạp chi chuyên ngành trong nước và quốc té
Bang 2.1: Số lượng bài viết được công bố trên các tạp chi khoa hoc của giảng
<small>viên Trường Đại học Luật Hà Nội</small>
: Số Tổng
<small>STT Phân loại tạp chí Hệ sơ 3lượng (đã quy đơi)</small>
<small>1 Tap chí khoa học quốc tế 1,5 10 152 Tạp chí khoa học cấp ngành trong nước 1 981 981</small>
<small>3 Tap chi khoa hoc khac 0.5 0 0</small>
<small>Tổng 991 996</small>
Theo báo cáo năm 2017, có khoảng 150 bài báo cơng bố trên các tạp chí nhưng khơng có số liệu phân tách nên khơng thơng kê chung trong bảng này.
Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây (2012 - 2016), số lượng bài báo của
<small>giảng viên cơ hữu của Trường đăng các tạp chí như sau: 10 bài báo đăng trên</small>
Tạp chí khoa học quốc tế và 981 bài báo đăng trên Tạp chí khoa học cấp ngành
<small>trong nước. Các bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước và</small>
quốc tế đều có nội dung phù hợp với định hướng nghiên cứu và phát triển của
Trường. Tuy nhiên, có thể nhận thấy số lượng bài báo đăng trên các tạp chí
chuyên ngành quốc tế, ... (viết bằng tiếng nước ngồi) cịn ít. Ngun nhân
<small>khuyên khích giảng viên thê hiện năng lực nghiên cứu của mình ở tâm qc tê.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">2.2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng
<small>viên Trường Đại học Luật Hà Nội</small>
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu kê trên, cũng cần nhận thấy rằng
hoạt động nghiên cứu khoa học của trường còn khá khiêm tốn so với năng lực của đội ngũ giảng viên Nhà trường, thể hiện ở một số nội dung cụ thé như sau:
Thứ nhất, số lượng các cơng trình nghiên cứu khoa học của giảng viên nhà trường còn khiêm tốn trong sự so sánh với bề dày gần 40 năm phát triển
của Trường. Bên cạnh đó, số lượng các cơng trình nghiên cứu lớn, tầm cỡ quốc gia cịn hạn chế; cơng trình nghiên cứu mang tầm cỡ quốc tế cịn q ít.
Thit hai, các cơng trình nghiên cứu đa phần đều mang tính lý thuyết, han lâm, do đó chưa có tính ứng dụng cao trong thực tiễn pháp lý và công tác đào
<small>tạo cán bộ pháp luật. Mặt khác, các cơng trình nghiên cứu đã thực hiện trong</small>
giai đoạn gần đây chưa thê hiện và hình thành nên trường phái khoa học pháp
<small>lý đặc thù của trường, bởi lẽ nhà trường chưa xây dựng được những nhóm</small>
nghiên cứu mạnh để định hướng và tạo dựng nên những cơng trình nghiên cứu điển hình và có tam ảnh hưởng sâu rộng.
Thư ba, nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học chiếm ti trọng nhỏ so với tong thu, trung bình chỉ chiếm 3,29% tổng nguồn thu của trường [40]. Nguồn thu này chưa xứng với tiềm năng nghiên cứu khoa học của trường. Có thé thấy nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học cịn rất hạn chế, chiếm tỷ trọng khơng đáng kề so với tổng thu của trường. Trong một số năm nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học chưa bằng kinh phí của trường dành cho hoạt động này. Điều này dẫn đến việc chưa khuyên khích được các giảng viên tham gia tích cực vào hoạt động nghiên cứu, đồng thời cũng hạn chế việc thu hút và giữ chân các nhà khoa học hàng đầu về cơng tác tại trường.
Thr tr, chưa có cơ chế thỏa đáng thúc đây phát huy tự do học thuật, khuyến khích những ý tưởng nghiên cứu đột phá, có giá trị khoa học và kinh tế cao. Trước năm 2016, cơ chế quản lý khoa học theo quy định cũ là nguyên nhân dẫn đến “việc quản lý hoạt động khoa học cịn nặng về thủ tục hành chính và cơ chế tài chính kèm theo cịn gị bó. Điều này tác động không nhỏ đến động
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>lực nghiên cứu khoa hoc tự thân cua can bộ, giảng vién’[17]. Từ năm 2016,</small>
Trường đã ban hành Quy định tạm thời về quản lý đề tài khoa học cấp Trường
<small>với định hướng tiệm cận quy định mới của Luật khoa học và công nghệ.</small>
<small>Thứ năm, phong trào nghiên cứu khoa học chưa được hình thành và phát</small>
triển sâu rộng, qua đó chưa hình thành văn hóa nghiên cứu đặc trưng của giảng
<small>viên toàn Trường.</small>
2.3. Thực trạng nhận thức của giảng viên về vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học và tính tích cực nghiên cứu khoa học đối với hoạt
<small>động đào tạo ở trường đại học</small>
2.3.1. Nhận thức của giảng viên về vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với hoạt động đào tạo ở trường đại học
Đề tìm hiểu nhận thức của giảng viên về vai trò của hoạt động khoa học nghiên cứu khoa học đối với hoạt động đào tạo tại trường đại học, chúng tôi sử dụng câu hỏi: “Xin thay/Cé cho biết đổi với hoạt động nghề nghiệp của giảng viên, nghiên cứu khoa học có tam quan trọng như thé nào?”. Kết quả cho thay, đa số giảng viên được khảo sát đánh giá cao tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học. Đặc biệt, số giảng viên cho rằng hoạt động này rất quan trọng chiếm tỉ lệ rất lớn so với số giảng viên cho rằng quan trọng: Gấp gần 3 lần (72,5% so với 26,2%). Số giảng viên cho rang hoạt động nay it quan trọng là khơng đáng kể (1,3%). Khơng có giảng viên nào cho là không quan trọng. Điều này chứng tỏ, đa số giảng viên đều có nhận thức đúng đắn về vai trò của hoạt
<small>động nghiên cứu khoa học trong nhà trường đại học.</small>
Đề tìm hiểu ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu khoa học trong hoạt động
dao tao, chúng tôi sử dụng câu hỏi: “Xin thay/Cé cho biết hoạt động nghiên cứu
khoa học có vai trị như thé nào trong hoạt động đào tạo ở trường đại học?” Kết quả thu được nhiều ý kiến phong phú và tập trung chủ yếu ở các nội dung
<small>sau:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Bang 2.2: Nhận thức của giảng viên về vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với hoại động đào tạo
<small>TT Nội dung Số %</small>
<small>1L | Giúp giảng viên có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn và phát | 138 | 86,3triên nghê nghiệp của giảng viên</small>
<small>2 | Giúp giảng viên phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, khả năng làm | 114 | 71,3</small>
<small>việc độc lập</small>
<small>3 | Là cơ hội tốt dé giảng viên có mơi trường, cơ hội bồi dưỡng năng | 105 | 65,6</small>
<small>lực nghiên cứu khoa học</small>
<small>4 | Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo 106 | 66,35 | Góp phan nâng cao vị thé và uy tín của chính bản thân giảng viên 105 | 65,66 | Góp phần quan trọng dé khang định vi thế và uy tin của nhà trường 95 59,4</small>
<small>với xã hội</small>
<small>7 | Khơng có vai trị rõ rệt 2 1,3</small>
Qua kết quả của bảng 2.2 cho thấy phần lớn giảng viên đã nhận thức được một cách đầy đủ lợi ích cơ bản của việc nghiên cứu khoa học đối với hoạt động dao tạo như: (i)Nghién cứu khoa học giúp cho giảng viên có điều kiện nâng cao trình độ chun môn và phát triển nghề nghiệp của giảng viên; (ii) quá trình tham gia nghiên cứu khoa học sẽ giúp giảng viên phát triển tư duy,
<small>năng lực sáng tạo, khả năng làm việc độc lập; (11) quá trình thực hiện các hoạt</small>
động nghiên cứu khoa học là cơ hội tốt để giảng viên có mơi trường, cơ hội bồi
<small>dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học; (111) nghiên cứu khoa học giúp giảng</small>
viên có cơ sở dé tiễn hành đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy. Điều này
sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo; (v) trong quá trình nghiên cứu khoa học, nếu đạt kết quả, sẽ là yếu tố quan trong góp phan nâng cao vị thế và uy tín của giảng viên, đồng thời khăng định vị thế và uy tín của trường đối với xã hội. Chỉ có 02 ý kiến chiếm 1,3% cho là nghiên cứu khoa học “khơng có vai trị rõ
rệt” đối với hoạt động đào tạo trong trường đại học, tuy con sỐ này là rất nhỏ
không đáng kể, nhưng theo chúng tôi đây cũng là van dé cần quan tâm. Bởi
<small>trong bôi cảnh giao lưu và hội nhập của nước ta hiện nay, đê khoa học, công</small>
</div>