Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thạc sĩ khoa học ngũ văn, cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của uông triều 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 96 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ... 1

1. Lí do chọn đề tài ... 1

2. Lịch sử vấn đề ... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 7

4. Phương pháp nghiên cứu ... 7

5. Đóng góp của luận văn ... 8

6. Cấu trúc của luận văn ... 8

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ SỰ BIỂU HIỆN CỦA CẢM THỨC HIỆN SINH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ... 9

1.1. Bối cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện sinh ... 9

1.2. Tư tưởng chính của chủ nghĩa hiện sinh... 12

1.3. Sơ lược về sự biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học ... 14

1.4. Những tiền đề dẫn đến sự xuất hiện khá phổ biến của cảm thức hiện sinh trong văn học Việt Nam hiện nay nói chung và tiểu thuyết của ng Triều nói riêng ... 24

CHƯƠNG 2: CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC MANG MÀU SẮC HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA UÔNG TRIỀU ... 29

2.1. Hiện thực vô nghĩa, trống rỗng ... 29

2.2. Hiện thực mang đậm tính phi lí ... 36

2.3. Hiện thực chứa đầy yếu tố ngẫu nhiên ... 47

2.4. Hiện thực mang đậm tính bất định, hỗn loạn ... 51

CHƯƠNG 3: CẢM QUAN VỀ CON NGƯỜI MANG MÀU SẮC HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NG TRIỀU ... 57

3.1. Con người cơ đơn ... 57

3.1.1. Con người với nỗi cô đơn bản thể ... 57

3.1.2. Con người cô đơn trong gia đình, xã hội ... 61

3.2. Con người dấn thân ... 65

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

3.2.1. Khát vọng rời xa thực tại vô nghĩa ... 66

3.2.2. Hành trình tìm kiếm ý nghĩa của đời sống ... 69

3.3. Con người bản năng ... 73

3.3.1. Con người với bản năng tính dục... 74

3.3.2. Con người mang ám ảnh về cái chết ... 81

PHẦN KẾT LUẬN ... 88

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài

1.1. Chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học phát triển mạnh mẽ ở phương Tây vào đầu thế kỉ XX. Xuất hiện trong bối cảnh khủng hoảng và đổ vỡ, những quan điểm có ý nghĩa nhân văn của chủ nghĩa hiện sinh đã dẫn trào lưu triết học này đi thẳng vào văn học, hình thành nên trào lưu văn học hiện sinh ở Châu Âu (trước hết là ở Pháp) và nhanh chóng lan rộng đến nhiều nước trên thế giới với đội ngũ các triết gia đồng thời là các nhà văn hiện sinh. Franz Kafka, Jean-Paul Sartre, Albert Camus… là những gương mặt tác giả tiêu biểu gắn liền với văn chương hiện sinh. Trào lưu văn học này đã có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền văn học thế giới, trong đó có Việt Nam. Những tư tưởng về nhân vị, tự do, lo âu của chủ nghĩa hiện sinh đã được các nhà văn Việt Nam thể hiện khá sinh động trong các sáng tác của mình.

1.2. Quan sát sự vận động của văn học Việt Nam hiện nay, chúng tôi nhận thấy bên cạnh việc cách tân thơ và truyện ngắn, thể loại tiểu thuyết đang có sự chuyển mình và tìm tịi những hình thức nghệ thuật mới. Các tác giả khơng hồn tồn tập trung vào đổi mới nội dung tác phẩm, nghĩa là trả lời cho câu hỏi “viết về cái gì?”. Giờ đây, các nhà tiểu thuyết đã ưu tiên trả lời cho câu hỏi “có thể viết tiểu thuyết như thế nào?”. Bằng việc vận dụng những kĩ thuật tự sự, các nhà văn nỗ lực tìm hiểu, khai thác tiềm năng của thể loại để phá vỡ quan niệm thể loại quen thuộc, đề xuất một mơ hình tiểu thuyết mới, góp phần đưa tiểu thuyết Việt Nam bước đầu hòa nhập với tiểu thuyết hiện đại thế giới. Văn học Việt Nam hiện đại những năm gần đây xuất hiện nhiều gương mặt trẻ tài năng, trong số đó có nhà văn ng Triều. Anh là một cây bút có nhiều tìm tịi, đổi mới. Sáng tác của anh khá đa dạng về thể loại và đề tài, từ kí đến truyện ngắn, tiểu thuyết. Nhà văn Uông Triều đã vinh dự được ghi tên hai lần vào danh sách để cử giải thưởng Bùi Xuân Phái – lần thứ 12 và 13. Văn chương của Uông Triều như là “nút giao” để vừa gọi mời người đọc

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

hồi cổ, nhìn lại q khứ, trân trọng tôn vinh giá trị lịch sử (Tiểu thuyết lịch sử Sương mù tháng giêng, tản văn Hà Nội quán xá phố phường…) đồng thời thức tỉnh con người sống với đúng bản ngã của chính mình (Tiểu thuyết Tưởng tượng và dấu vết; Người mê; Cơ độc). Các tác phẩm của anh ln có sự nhất quán trong đổi mới về nội dung cũng như cách viết. Mỗi một tác phẩm đều có dấu ấn riêng, thể hiện từng bước tiến trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.

Với việc chọn đề tài: “Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Uông Triều”, luận văn của chúng tôi hy vọng chỉ ra những yếu tố hiện sinh thể hiện ở cảm quan về hiện thực và cảm quan về con người như một nét độc đáo trong sáng tác của nhà văn, từ đó góp phần nhận diện phong cách nghệ thuật của nhà văn, khẳng định vị trí và những đóng góp của anh cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những cơng trình nghiên cứu về sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học Việt Nam

Quan sát sự phát triển của văn học Việt Nam, chúng tôi nhận thấy, dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh được thể hiện từ trong những tác phẩm văn học 1930 – 1945, trong bộ phận văn học đô thị miền Nam Việt Nam 1954 – 1975 và đặc biệt rõ nét trong văn học đương đại Việt Nam nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Ở mục này chúng tơi chỉ trình bày khái qt một số cơng trình nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng lý thuyết hiện sinh vào việc nghiên cứu văn học phục vụ trực tiếp cho đề tài.

Huỳnh Như Phương trong bài viết Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954-1975 (trên bình diện lý thuyết) khẳng định sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh một cách tích cực đến các bình diện sáng tác văn học: “Chủ nghĩa hiện sinh đã đem đến cho văn học miền Nam những thay đổi đáng kể, với quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong một thế giới phi lý, với

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

ngôn ngữ và kỹ thuật mô tả hiện tượng luận”.

Tác giả Nguyễn Việt Nga trong Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô thị miền Nam 1954-1975 đã chỉ ra: “Giá trị mà tiểu thuyết đô thị miền Nam mang lại về mặt tác động khách quan là tiếng nói bất bình của con người trước xã hội hiện tại, bất bình với chiến tranh” bởi “ những cảm giác bất an, nỗi lo âu, sợ hãi của con người trước chết chóc do chiến tranh gây ra, những cảnh đời bất hạnh và nỗi khổ trong cuộc sống tù túng, những ngang trái giả dối trong xã hội qua các sáng tác trước 1975 có những đóng góp nhất định về mặt thi pháp: cảm nhận trực giác và ngơn ngữ theo dịng ý thức, chất triết lý và giọng điệu đa thanh… làm cho tiểu thuyết đơ thị miền Nam có một diện mạo riêng, góp phần vào việc phát triển thể loại tiểu thuyết trong nền văn học Việt Nam hiện đại”.

Tác giả Nguyễn Phúc trong luận án “Khảo sát sự du nhập của phân tâm học và chủ nghĩa hiện sinh vào văn học đô thị miền Nam trước 1975” cho rằng việc ảnh hưởng của phân tâm học và chủ nghĩa hiện sinh vào văn học đô thị miền Nam là một bước phát triển cần ghi nhận, là một sự tìm tịi trong sáng tác ở các đô thị miền Nam Việt Nam.

Thái Phan Vàng Anh từ đặc trưng mỹ học của chủ nghĩa hậu hiện đại hướng tới trả lời cho câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết: “Bản ngã là gì? Làm sao thấu triệt được cái bản ngã đó?” (theo M. Kundera) đã xếp tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI theo bốn khuynh hướng: Tiểu thuyết tân lịch sử, tiểu thuyết hiện sinh, tiểu thuyết tính dục và tiểu thuyết nữ quyền. Trong đó, tiểu thuyết hiện sinh hiện lên như một sự phân rã những mảnh hồn hiện tồn. Nơi ấy “Tinh thần hiện sinh được thể hiện đậm đặc ở cảm thức hư vô, ở những thân xác hiện tồn bị quăng quật ngẫu nhiên vào đời sống và chỉ tồn tại nhờ vào những ý muốn tồn tại của chính nó. Tác giả phát hiện: “Với tiểu thuyết hiện sinh, các nhà văn gặp gỡ nhau ở ý thức mô tả một kiểu nhân vật lạc lõng, cô đơn giữa một thế giới phẳng. Con người khước từ, đánh mất sự hiện hữu

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

để dấn thân vào hành trình truy tìm bản thể”.

Nguyễn Tiến Dũng trong cuốn Chủ nghĩa hiện sinh: lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam đã đề cập đến Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài với tư cách những nhà văn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh.

Bên cạnh những nghiên cứu trên cịn có những đề tài khóa luận, luận văn, luận án đã vận dụng các lý thuyết hiện sinh cổ điển phương Tây để tìm hiểu các biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh trong sáng tác văn học và nghệ thuật. Năm 2009 luận văn Cảm quan hiện sinh trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng do Nguyễn Thị Minh Huệ, Trường Đại học Vinh thực hiện. Năm 2012 với Dấu ấn hiện sinh trong sáng tác của Duyên Anh, luận văn thạc sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội do Vũ Thị Hải thực hiện. Năm 2013, luận văn thạc sĩ của tác giả Vi Thị Nhâm với đề tài Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong tiểu thuyết của Chu Tử, (khảo sát qua Sống và Yêu), Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 2015, luận văn Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương của Phạm Thị Thắm, Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 2016, Vũ Xuân Trung Khuynh hướng chủ nghĩa hiện sinh mới qua tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng, Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 2016 luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thái Hoàng Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Luận án tiến sĩ Tâm thức hiện sinh trong thơ Mới (2018) của Trần Khánh Phong, Trường ĐHSP Hà Nội.

Như vậy đối với văn chương Việt Nam, việc nghiên cứu sự ảnh hưởng và tiếp nhận các yếu tố hiện sinh vào sáng tác văn chương cũng đã có một lịch sử, tuy chưa nhiều và trọn vẹn nhưng cũng đã góp phần khẳng định tầm quan trọng và cần thiết phải nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố hiện sinh trong văn học một cách nghiêm túc, mở rộng hơn và có hệ thống bài bản hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

2.2. Những nghiên cứu về sáng tác của Uông Triều

Số lượng tác phẩm của nhà văn Uông Triều còn khiêm tốn, nhưng mỗi tác phẩm khi ra đời đều thu hút sự quan tâm của giới phê bình và độc giả ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Khơng ít các bài báo, website đăng tải các bài viết của anh và về anh, nhiều bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn. Trong các nhà trường đã có một số khóa luận, luận văn và báo cáo khoa học nghiên cứu các sáng tác của Uông Triều: Khóa luận tốt nghiệp đại học: Diễn ngơn lịch sử trong tiểu thuyết Uông Triều của Vũ Thị Minh Thu, Đại học Sư phạm Hà Nội 2, (2017); Trường nghĩa không gian trong “Búp Sen xanh” của Sơn Tùng và “Sương mù tháng giêng” của ng Triều,(2019) khóa luận của sinh viên Giáp Thị Thu, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2; Luận văn cao học Tiểu thuyết ng Triều từ góc nhìn phân tâm học, (2020), Nguyễn Thị Hiền, Đại học sư phạm Hà Nội, 2020; Báo cáo khoa học Giải mã các lớp biểu tượng trong tiểu thuyết “Tưởng tượng và dấu vết của Uông Triều dưới góc nhìn phân tâm học của tác giả Đặng Thu Hòa, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015. Dưới đây người viết sơ lược một số bài viết có biểu hiện gợi mở cho cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Uông Triều.

Tác giả Nguyễn Văn Hùng trong bài Tiếng nói đa âm về thân phận con người (Đọc tiểu thuyết Người mê) có phát biểu: “Người mê hiện ra như một bản khảo trạng nội tâm phức tạp, một “tiểu tự sự” về hành trình truy tìm bản ngã cá nhân. Cái mênh mơng của thế giới bên ngồi được thay thế bằng cái vô tận của tâm hồn con người. Đấy là cách Uông Triều thể hiện chiều sâu suy tư triết học với cái nhìn nhân văn sâu sắc về một thế giới bí ẩn, ngẫu nhiên, hỗn mang, phi lí cùng bản thể con người phức tạp, đa chiều, vô cùng vô tận” [31].

Trong bài viết “Người mê”: tình yêu hay cuộc đấu tranh của cái tôi, tác giả Thụy Oanh nhận xét: “Phải khẳng định nhân vật người đàn ông đã sống một đời sống rất tẻ nhạt như một sự sắp xếp đã được định sẵn từ công việc đến hôn nhân. Việc mở quán cafe hay cuộc tình với H, chính là hành trình nhân vật đi tìm lại “cái tơi cá nhân” kháng cựa cuộc sống nhàm chán khiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

người ta sợ hãi….Với Người mê tình yêu chỉ là một cái cớ, một cái cớ hợp lí và trọn vẹn để tác giả cịn nói về những điều cịn đáng sợ hơn tình u tan vỡ. Đó là sự biến mất của “cái tôi cá nhân”. Xã hội được tạo ra từ nhiều cá thể độc lập, nhưng trong dòng chảy của xã hội, con người dường như bị “hòa tan” vào nhau. Nhiều người dần sống theo những khn khổ có sẵn để bảo tồn lợi ích cho mình và những người xung quanh. Bởi thế, đơi lúc họ qn mất mình là ai và mình thực sự muốn gì” [31].

Nhà văn Uông Triều chia sẻ với báo daidoanket.vn: “Càng gần đây tôi càng quan tâm tới nỗi buồn và sự cô đơn của con người. Chúng ta dù xung quanh đầy rẫy người vẫn khơng khỏi có lúc cơ đơn, cơ độc. Có những nỗi buồn, nỗi đau không thể chia sẻ với ai và tơi thể hiện nó qua những trang sách. Tơi thích viết về nỗi buồn đau, sự cơ đơn, bất lực và những người dám đứng một mình một cõi, thậm chí đối kháng, mâu thuẫn với cả thế giới” [42].

Sau khi tiểu thuyết Tưởng tượng và dấu vết xuất bản, nhà văn Uông Triều chia sẻ với baodatviet.net: Trong tác phẩm, các nhân vật phải trải qua các cung bậc của cuộc sống, họ phải đóng rất nhiều vai và sử dụng nhiều mặt nạ để tồn tại trong cuộc đời của họ. Ý nghĩa chủ đạo của tác phẩm là dù bạn là quỷ dữ hay thiên thần thì bạn hãy cứ sống bằng con người thực. Cuốn sách trả lời cho câu hỏi: Bạn là ai? [48].

Thụy Oanh trong Lối viết giải thiêng lịch sử độc đáo trong “Bò hoang phố cổ” đã khẳng định: Trong tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Uông Triều, sự hiện diện của bản ngã, mang nặng suy tư là một mạch nguồn xuyên suốt….Ngồi danh vọng, tiền tài thì việc được sống thật với suy nghĩ, cảm xúc của bản thân luôn là khát khao của nhiều người. Nhưng làm được điều đó quả thực khơng dễ dàng. Thế nên cuộc đời dần biến thành sân khấu và lắm kẻ sống trọn kiếp người chỉ để hoàn thành vai diễn tẻ nhạt của chính mình. Họ chán chường với đời sống tẻ nhạt, rập khuôn, nhưng khơng tìm được cách thốt khỏi “nhà tù” dành cho chính mình [30].

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Trong bài viết Tiểu thuyết “Cô độc” thách thức độc giả văn chương Bùi Công Thuấn cho rằng: Đôi khi tôi bị xô dạt bởi những ý nghĩ Cô độc là một tác phẩm văn chương hiện sinh mà Ba và B thể hiện khá rõ. Đó là sự cơ độc, sự tự do tuyệt đối trong ý thức “tha nhân ấy là địa ngục” (J.P. Sartre). Sống là đi về cái chết. Hiện sinh quy tử, con người trong cuộc sống bị dồn đuổi đến chết. B chuẩn bị và đi đến cái chết một cách bình thản như một Con Người, nhẹ nhàng mà lẫm liệt [41].

Từ những tìm hiểu và khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy rằng cảm thức hiện sinh là vấn đề có ý nghĩa với việc nghiên cứu sáng tác của nhà văn Uông Triều. Dấu hiệu của nó xuất hiện trở đi trở lại trong các tiểu thuyết của anh. Đến thời điểm hiện tại chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề này. Nếu có thì lại chưa được quan tâm khai thác một cách hệ thống, hầu hết mọi nghiên cứu đều dừng lại ở mức độ nào đó để minh chứng cho vấn đề nghiên cứu khác chứ chưa phát triển thành một luận điểm lớn. Những lí do trên đã gợi mở cho chúng tôi nghiên cứu về đề tài: “Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Uông Triều”.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Uông Triều từ cảm quan về hiện thực và cảm quan về con người mang màu sắc hiện sinh.

3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát

Tư liệu khảo sát chính của luận văn là một số tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn Uông Triều:

Tiểu thuyết Tưởng tượng và dấu vết Tiểu thuyết Người mê

Tiểu thuyết Cô độc

4. Phương pháp nghiên cứu

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Trên cơ sở tiếp cận, phân tích tác phẩm của Uông Triều để làm rõ cảm thức hiện sinh, chúng tôi thực hiện luận văn bằng các phương pháp sau: 5. Đóng góp của luận văn

Luận văn làm rõ Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Uông Triều từ cảm quan về hiện thực và cảm quan về con người mang màu sắc hiện sinh. Đây là hướng tiếp cận có khả năng nhận diện cá tính sáng tạo và những nét độc đáo trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.

6. Cấu trúc luận văn:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, tư liệu tham khảo, mục lục, luận văn cấu trúc gồm ba chương:

Chương 1: Khái quát về chủ nghĩa hiện sinh và sự biểu hiện của cảm thức hiện sinh trong văn học Việt Nam.

Chương 2: Cảm quan về hiện thực mang màu sắc hiện sinh trong tiểu thuyết của Uông Triều

Chương 3: Cảm quan về con người mang màu sắc hiện sinh trong tiểu thuyết của Uông Triều

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ SỰ BIỂU HIỆN CỦA CẢM THỨC HIỆN SINH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

1.1. Bối cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện sinh

Trong lịch sử triết học thế giới, triết học hiện sinh ra đời sau triết học cổ truyền. Triết học cổ truyền hay còn gọi là triết học thiên nhiên thường lấy vạn vật trong thế giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra căn nguyên của vũ trụ; trong thế giới tự nhiên, con người vô cùng nhỏ bé, bị vũ trụ lấn át và bỏ quên. Ngược lại triết học hiện sinh coi con người là trung tâm của thế giới và là đối tượng nghiên cứu chính yếu của mình. Vì vậy triết học hiện sinh cịn được gọi là triết học về con người.

Chủ nghĩa hiện sinh là trường phái triết học lớn trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lí thế kỉ XX. Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” xuất phát từ tiếng La Tinh “existentia” (nghĩa thông thường là “tồn tại”) được hiểu như sự tồn tại của cá nhân cụ thể với một ý nghĩa nhất định.

Chủ nghĩa hiện sinh ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất tại Đức, phản ánh tâm trạng bi quan của xã hội Đức trong bối cảnh một nước thất trận và bị tàn phá nặng nề. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trung tâm của triết thuyết này chuyển sang Pháp, từ đó truyền bá tới nhiều nước ở Châu Âu, Châu Á, Châu Phi.

Chủ nghĩa hiện sinh hình thành chủ yếu trên ba tiền đề, đó là tiền đề xã hội; nhận thức và tư tưởng.

Thứ nhất, về mặt lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh ra đời là hệ quả tất yếu của hai cuộc chiến tranh thế giới. Hai cuộc thế chiến trở thành câu chuyện lớn nhất thế kỉ XX, nó phơ bày một phương Tây hoang tàn, hỗn loạn trong thời kì hậu chiến. Nền kinh tế sụp đổ, hạ tầng công nghiệp và các thành phố bị tàn phá….Người dân phương Tây cảm thấy bất an, bi quan, tuyệt vọng, thấy mình như những “con số vô danh”, “những tấm thẻ vô hồn trong bộ máy

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

chiến tranh khổng lồ”[10;34]. Sự hỗn loạn của hoàn cảnh xã hội như chất xúc tác tới tâm hồn nhạy cảm của một lớp người trong xã hội, tạo tâm thế để họ sẵn sàng đón nhận một luồng tư tưởng mới, điền khuyết những khoảng trống trong tâm hồn. Đó chính là “luống cày mới” của chủ nghĩa hiện sinh.

Thứ hai, về mặt nhận thức, chủ nghĩa hiện sinh ra đời gắn liền với sự phản ứng lại của chủ nghĩa duy lí đề cao nền khoa học và triết học khách quan. Thế kỉ XX, cuộc cách mạng khoa học và kĩ thuật đem đến những thành tựu khiến cả thế giới choáng váng, đưa nhân loại bước vào thời kì phát triển kì diệu chưa từng thấy về sản xuất và sinh hoạt xã hội, làm thay đổi toàn diện, mạnh mẽ đời sống vật chất và tinh thần của con người. Tiến bộ của nền sản xuất xã hội được coi là thành quả của chủ nghĩa duy lí. Xã hội thể hiện ý thức lấy công nghệ làm nền tảng, khoa học kĩ thuật là chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề nhân sinh. Với cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, phương Tây đạt đến giai đoạn phát triển cao nhất chưa từng có, nhưng cũng ở đỉnh cao đó, phương Tây lâm vào khủng hoảng. K.Marx chỉ ra: “Trong thời đại chúng ta, mọi vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Những thắng lợi kĩ thuật dường như đã mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần”[11;10]. Con người bị coi như “những lực lượng vật chất đơn thuần” tương tự như máy móc, một yếu tố của khoa học kĩ thuật. Bị đặt vào những tình thế bị đe dọa dữ dội về tồn tại. Người châu Âu trở nên bi quan, không biết đặt niềm tin vào đâu, mọi sự đều vơ nghĩa, phi lí. Yếu tố này đặt cơ sở cho tư tưởng hiện sinh nảy nở. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời là vấn đề tất yếu mang tính nhận thức, là sự phản ứng lại chủ nghĩa duy lí, góp phần địi lại nhân vị độc đáo, giải phóng tự do cá nhân, hướng con người về thế giới tinh thần, đời sống nội tâm sâu sắc, sống động.

Thứ ba, cơ sở của chủ nghĩa hiện sinh đã manh nha trong một số tư tưởng về vấn đề con người và nhận thức của các nhà triết học ngay từ thời cổ đại. Chúng tôi tạm chia ra hai nhóm nguồn ảnh hưởng: nhóm thứ nhất là

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

nguồn ảnh hưởng của triết học S. Kierkegaard, triết học đời sống của Schopenhauer, F. Nietzsche, hiện tượng luận E. Husserl. Nhóm thứ hai là nguồn ảnh hưởng từ A. Augustin, B. Pascal, đạo tin lành, đạo Do Thái, I. Kant, chủ nghĩa lãng mạn Đức thế kỉ XIX….Đáng chú ý hơn cả là nguồn ảnh hưởng của nhóm thứ nhất, bởi nó tác động chủ yếu và trực tiếp tới tư tưởng chủ nghĩa hiện sinh sau này.

S. Kierkegaard và F. Nietzsche được tôn xưng là hai triết nhân tiên khởi cho phong trào hiện sinh. Là những người mở đường cho hai nhánh triết học hiện sinh khác nhau là Hữu thần (S. Kierkegaard) và Vô thần (F. Nietzsche).

S. Kierkegaard xây dựng triết học lấy con người cá nhân phi lí tính làm xuất phát điểm. Ông quan niệm thế giới là thế giới mà cá nhân thể nghiệm được, nhận thức được. Con người giữ vị thế chủ thể riêng biệt, có cá tính, khác với các sự vật khác, bởi vậy, chân lí là chân lí chủ quan, chân lí mang tính cá nhân tuyệt đối. Theo S. Kierkegaard, thân phận bị bủa vây, bơ vơ là hậu quả của việc xa rời thượng đế, vì vậy con đường nhân sinh là con đường đi tới Thượng đế.

F. Nietzsche lại cho rằng, khơng thể có chân lí trừu tượng cũng khơng thể có nhận thức tuyệt đối mà chỉ có tri thức cụ thể, tri thức cụ thể gắn liền với thực tế sinh động, linh hoạt muôn màu. Phê bình ln lí cổ truyền, F. Nietzsche kêu gọi phủ nhận Thượng đế, giết chết Thượng đế. Khi Thượng đế chết con người phải tự chủ, truy tìm chân lí ngay trong bản thân mình, “ln ln trở nên chính mình”, “phải là nhà điêu khắc để tạc nên chính mình [5;33]. Ơng đưa ra quan điểm về con người siêu nhân – con người luôn luôn vươn lên, vượt qua thượng đế, vượt qua chính mình để đổ dồn vào cuộc hiện sinh. Siêu nhân là kẻ lữ hành cô độc, ý chí tự quyết, tự định đoạt giá trị, không bị quy ước bởi bất kì quan niệm có sẵn nào.

Bàn về tiền đề tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh không thể không nhắc tới Hiện tượng học của E.Husserl. Tư tưởng cơ bản của Hiện tượng học về

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

tính chủ thể và vị thế trung tâm, tích cực của con người chính là nền tảng quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh. Hiện tượng học đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong việc chuyển đổi hệ hình tư duy triết học, từ triết học tự nhiên sang triết học nhân sinh.

Tóm lại, nhìn một cách sâu xa, chủ nghĩa hiện sinh cũng như các khuynh hướng khác của chủ nghĩa phi duy lí là hệ quả của tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm trọng do chủ nghĩa duy lí gây ra trong xã hội phương Tây hiện đại. Từ sự khủng hoảng đó, con người nhận ra rằng các vấn đề xã hội và đời sống lâu nay tưởng chừng đã thấu tỏ nay bỗng trở nên mù mờ, khó thể lí giải. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh thể hiện thái độ phản kháng quyết liệt của giới trí thức phương Tây để giành lại vị thế của con người, là sự trở về với con người.

1.2. Tư tưởng chính của chủ nghĩa hiện sinh

Nhìn một cách tổng quát, chủ nghĩa hiện sinh đặc trưng bởi những tư tưởng sau:

Con người ý thức về bản thân như một nhân vị độc đáo. Cái mà chủ nghĩa hiện sinh hướng về là con người nhưng đó khơng phải là con người phổ qt, con người viết hoa, mà là con người như một nhân vị, là tôi, là anh chứ không phải con người vô danh, vô vị. Con người hiện sinh luôn nhìn thẳng vào sự vật với nhãn quan của mình chứ khơng phải Thượng đế, thần linh. Và để hiện sinh, con người luôn tham vọng đạt tới cái mà người ta muốn trở thành. Theo các nhà hiện sinh, nhân vị bao giờ cũng gắn liền với “tự do”. Tất cả các nhà hiện sinh đều cho rằng tự do là yếu tính của con người. Con người tự do là con người tự đảm nhiệm hành động, tự lựa chọn, sáng tạo để tạo nên nhân vị. Tự do hiện sinh mang tính bản thể, xuất phát từ ý thức và tinh thần trách nhiệm. Vì vậy, mỗi quyết định là một giá trị hiện sinh.

Chủ nghĩa hiện sinh lưu tâm tới phạm trù cô đơn. Con người cơ đơn vì tự mình làm nên mình, làm nên thế giới, sống với tư duy của mình và khơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

dựa vào ánh sáng lí luận nào. Cơ đơn như một thứ quà tặng vĩnh cửu của con người, là định mệnh của mỗi người. Khi con người không ngừng cố gắng vươn lên để khẳng định bản ngã độc đáo của mình cũng là lúc con người vươn tới sự cô đơn tuyệt đối.

Nếu cô đơn là quà tặng vĩnh cửu thì cái chết là người bạn đồng hành chung thủy nhất của con người. Các nhà hiện sinh nói nhiều về cái chết- một sự thật hiện hữu mà con người muốn quên đi. Cái chết phá hủy mọi nỗ lực của con người nhưng đồng thời cũng có một ý nghĩa nhất định đối với sự sống ở việc thức tỉnh con người sống cho ra sống. Đời người không phải hơn nhau ở sự dài ngắn mà ở việc ta đã làm trong quãng thời gian ta sống. Cái chết là cánh cửa bước vào hiện sinh đích thực.

Các nhà hiện sinh đều gặp nhau ở phạm trù lo âu/ưu tư. Con người là một ngẫu nhiên tuyệt đối, một sinh vật bị ruồng bỏ trong thế giới mênh mơng. Trong thế giới tự do kinh hồng đó con người phải tự đảm nhiệm lấy mình mà khơng có điểm tựa nên khơng thể tránh khỏi suy tư và âu lo. Âu lo làm con người đau khổ nhưng cũng nhờ nó mà con người tìm thấy hiện sinh. Các triết gia hiện sinh cho rằng sự lo âu sinh ra để phản ứng lại tính cách thường nhật, bởi con người tỉnh thức thì khơng thể khơng lo âu. Lo âu chính là bước đầu của sự đi lên, của sự phản tỉnh.

Tha hóa được đề cập đến như một biểu hiện tự đánh mất mình của con người, khơng có cái gọi là bản ngã, biến mình thành một kẻ khác, chưa tự ý thức mình là một nhân vị độc đáo. Vì sao con người lại tha hóa, nguyên nhân thường là do con người thụ động tôn thờ một lý tưởng đã được xác lập. Để thốt khỏi sự tha hóa, con người cần phải tự mình phát minh ra mình, biết “tìm thấy cái tơi của mình” và sống theo nó.

Chủ nghĩa hiện sinh cịn hướng tới các phạm trù vươn lên, nhập cuộc – một thái độ sống trách nhiệm của con người hiện đại. Con người cần phải hành động, chính nhờ hành động mà tự tạo lấy mình, nếu con người dừng lại, bỏ cuộc ở một trạng thái nào đó là có nguy cơ trở thành sự vật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Ngoài những phạm trù kể trên, chủ nghĩa hiện sinh còn thể hiện trong nhiều đề tài khác mang tính tư tưởng sâu sắc.

Như vậy, những vấn đề mà chủ nghĩa hiện sinh đề cập đến về cơ bản đều nằm trong tư tưởng, các thuyết lý, quan điểm của các nhà triết học lớn. Mặc dù mỗi nhà triết học thể hiện các nội dung ở những dạng thức khác nhau nhưng cuối cùng đều đem lại cho trào lưu triết học này một hệ thống khái niệm tương đối thống nhất.

1.3. Sơ lược về sự biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học Triết học hiện sinh là triết học của đời sống. Văn học lại là tấm gương phản ánh diễn biến đời sống. Văn học hiện sinh chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những tư tưởng của triết học hiện sinh. Văn học là phương tiện quan trọng để triết hiện sinh truyền đạt tư tưởng và cũng nhờ sự khai mở của tư tưởng hiện sinh mà văn học trở nên sâu sắc hơn. Bản thân các tác phẩm văn học hiện sinh có một đời sống độc lập với triết học hiện sinh khi nó đạt đến những giá trị thẩm mĩ đích thực.

1.3.1. Trong văn học thế giới

Dòng văn học hiện sinh xuất hiện đầu tiên ở Pháp, sau đó tiếp tục lan rộng ra nhiều nền văn học khác trên thế giới như Tây Ban Nha, Anh, Tây Đức….Tinh thần của chủ nghĩa hiện sinh được hấp thu khá đa dạng ở nhiều quốc gia, song về cơ bản vẫn xoay quanh những trụ chung như miêu tả đời sống giống như một tấn bi kịch, phi lí và bất ổn; ở đó bức tranh tâm lí con người hiện lên là nỗi cô đơn, lo âu, sự tha hóa, nổi loạn, khao khát tìm kiếm tự do.

Phi lí trong văn học hiện sinh vừa là đối tượng vừa là phương tiện khám phá. “Cái phi lí” đi liền với những thảm họa do chủ nghĩa phát xít gây ra. Con người khơng thể giải thích cuộc sống khi tồn tại trước mặt họ là những cảnh đổ nát hoang tàn. Con người ln trăn trở: mình đi về đâu? mình tồn tại như thế nào? và tương lai ra sao? Quan niệm về tính phi lí của đời sống và thân

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

phận con người được mở đường ấn tượng từ F. Kafka, phát triển bởi A. Camus, P. Sartre và rất nhiều nhà văn thời bấy giờ.

F. Kafka (1883-1924) được coi là con chim đầu đàn của văn học hiện sinh Đức, ở tác phẩm của Kafka “sự phi lí về thân phận con người được thể hiện một cách kinh điển”[47;9]. Ba tác phẩm Hóa thân (1912), Vụ án (1925), Lâu đài (1926) đã phản ánh một đời sống hiện thực nhiều phi lí bao quanh đời sống con người, ở đó cá nhân bị đè bẹp trước bộ máy xã hội quan liêu nghiệt ngã. Trong Hóa thân, Gregor Samsa, một buổi sáng thức dậy bỗng biến thành con côn trùng nhưng anh không một chút sợ hãi hay kinh ngạc. Anh ta chỉ lo lắng về những cái bên ngồi mình, nào là sợ muộn giờ làm, sợ mất việc, không thể nuôi gia đình và giúp đỡ em gái. Mang một hình dạng biến dị, Samsa khơng cịn là trụ cột gia đình, anh trở thành kẻ vơ tích sự, kẻ rác rưởi trong mắt người thân. Nhân viên ngân hàng Josep. K trong Vụ án, một buổi sáng thức dậy đột ngột bị kết án. Anh nhờ người bào chữa nhưng không hiểu bào chữa cho tội gì. Tác giả dựng nên một tình thế phi lí, hài hước, bi thảm, kẻ bị kết tội đi tìm tội lỗi. Cuối cùng Josep. K chán nản, anh buông tay và chết dưới tay hai tên đao phủ. Người đạc điền K. trong Lâu đài được mời đến làm việc ở một nơi không cần đo đạc. Tịa lâu đài trong tác phẩm là hình ảnh của thiết chế quyền lực uy hiếp và trói buộc con người. Josep. K và K. là hình ảnh tượng trưng cho thân phận con người trong thế giới phi lí ấy. Kafka đã gióng lên hồi chuông báo động về một thời đại bất an, hoài nghi, khủng hoảng. Một thời đại mà con người bị buộc tội bất kì thời điểm nào, con người không tên hoặc chỉ là những chữ cái viết tắt, luôn sống trong bất lực, cô đơn, lo âu khôn cùng bởi vơ vàn điều phi lí.

A. Camus và J.P. Sartre là hai gương mặt tiêu biểu của triết học hiện sinh Pháp. Sáng tác của hai nhà văn tiếp tục quan điểm về xã hội phi lí đã được khơi nguồn từ trước. Từ cái phi lí, A. Camus tìm đến chủ đề “nổi loạn” và Sartre tìm đến phạm trù “tự do”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Với tiểu thuyết Người xa lạ (1942) và tiểu thuyết Dịch hạch (1947), Camus gây bàng hồng về tính phi lí của thế giới và con người. Meursault giết người vì lóa mắt, anh ra tịa và bị kết tội khơng phải tội trạng khởi tố ban đầu. Meursault coi tình mẫu tử, tình u đơi lứa, cái chết… chẳng có gì quan trọng cả. Anh khước từ các chuẩn mực xã hội áp đặt lên mình và muốn sống đích thực với chính con người mình. Meursault trở thành kẻ lạc lồi, xa lạ với xã hội, vì thế anh bị xã hội kết án. Cơng sở, tịa án, các thiết chế quyền lực xã hội bị quan liêu hóa chính là bản chất của xã hội. Bernard Rieux và Jean Tarou (Dịch hạch) cùng sống trong thành phố Oran đang bị dịch chuột lan rộng, mất kiểm sốt. Khơng giống phần đơng mọi người là sợ hãi, hoặc tìm những thú vui để quên âu lo, họ chọn sống can đảm, khơng tuyệt vọng, tìm mọi cách chống lại dịch bệnh. Khi bệnh dịch âm thầm rút lui thì bác sĩ Rieux – người hùng trong cuộc đấu tranh chống bệnh tật cay đắng nhận ra rằng đó chỉ là chiến thắng tạm thời, những tai ương giam cầm con người một ngày nào sẽ quay trở lại. Các nhà văn hiện sinh coi phi lí là định mệnh, con người hoặc cam chịu hoặc chống trả yếu ớt hoặc, trở nên thờ ơ. Camus một mặt tiếp tục Kafka đẩy quan niệm về cái phi lí lên đỉnh điểm, mặt khác ông đề cập tới sự nổi loạn như một phạm trù tất yếu để khẳng định giá trị hiện sinh ở con người.

Nhắc đến J. P. Sartre, nhiều nhận xét cho rằng chủ nghĩa hiện sinh đã được Sartre “bình dân hóa” trong sáng tác của mình khiến nó dễ dàng được người đọc chấp nhận. Tiểu thuyết triết học Buồn nôn (1938) của Sartre được xem như tác phẩm đầu tiên của văn học hiện sinh, tiểu thuyết mà ở đó trạng thái thừa thãi, vô thường, vô nghĩa đến khó chịu của đời sống được đẩy lên cực hạn. Nhân vật Antoine Roquentin sống dửng dưng với tất cả, khơng gắn bó với bất kì ai, bất kì điều gì, ngay cả khn mặt của chính mình, vầng trán, đơi mắt, cái miệng…đều được nhìn trong sự trống rỗng “khơng có ý nghĩa gì”, “khơng mang một biểu lộ gì” [17;123]. Văn học hiện sinh quan niệm về đời sống bi đát phi lí, song con người là chủ thể tự do, độc đáo vì vậy con

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

người khơng ngừng dấn thân, nổi loạn. Antoine Roquentin nổi loạn trước đời sống bằng cảm giác “buồn nôn”. Buồn nôn để phủ định cái cũ, hướng đến cái mới, anh đã dũng cảm vén bức màn nhận thức giả dối bấy lâu nay che lấp con người với thế giới. Antoine Roquentin quyết định từ bỏ việc nghiên cứu lịch sử hầu tước De Rollebon, rời bỏ thành phố, tạm biệt người thân quen như cách buông bỏ quá khứ. Anh dấn thân vào cuộc sống mới bằng cách viết một cuốn sách với sự thức tỉnh rằng: hiện sinh không phải là sự tất yếu, đó chẳng qua là những trùng hợp ngẫu nhiên, hay bản chất của thế giới là vô thường, vô đích, hồn tồn phi lí, nó có đấy nhưng khơng ngun nhân, khơng lí do, khơng thể giải thích. Hiện thực và con người chẳng có gì ràng buộc nhau cả, con người có tự do, nó thuộc về tương lai, nó tự tạo nên bản chất của mình qua “dự phóng”. Tiểu thuyết “Buồn nơn” cùng vở kịch “Ruồi” là hai tác phẩm tiêu biểu để J. P. Sartre chuyển tải tư tưởng triết học của mình. Hồng tử Oreste trong vở kịch “Ruồi” tiêu biểu cho triết lí tự do của thuyết hiện sinh : “tơi là tự do của chính tơi”. Hồng tử khơng chịu khuất phục trước quyền lực, khơng sợ báo thù hay đuổi bắt, tự mình đảm nhiệm chiến đấu chống lại cái ác: “ta là một con người, và mỗi con người phải tìm ra con đường của mình”.

Ngồi những tác giả, tác phẩm văn học hiện sinh tiêu biểu kể trên, còn phải kể đến một số các tác giả khác như nhà văn Pháp André Malraux, nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis, nhà văn Đức Herman Hese, nhà văn Nhật Kobo Abe, Haruki Murakami và nhiều nhà văn thế hệ sau.

Như vậy, rất nhiều các triết gia hiện sinh họ đồng thời cũng là nhà văn lớn của thời đại. Tư tưởng trong triết học của họ đi thẳng vào văn chương một cách tự nhiên, độc đáo, mang hơi thở tinh thần thời đại. Sự sáng tạo là không giới hạn, tư duy hiện sinh ở một nhà tư tưởng có thể tác động tới nhiều nhà văn khác, nhưng cách mỗi nhà văn lựa chọn, lĩnh hội tư tưởng đó lại khơng giống nhau. Vì vậy văn chương hiện sinh phương Tây đã nối dài cánh tay đến nhiều nền văn chương ở các quốc gia khác nhau trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

1.3.2. Trong văn học Việt Nam

Đối với văn học nước ta, dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh đã được thể hiện trong một số tác phẩm văn học giai đoạn 1930 – 1945. Tiểu thuyết “Bướm trắng” của Nhất Linh đặt ra vấn đề về tính chất phi lí của cuộc đời, về sự ngộ nhận, về sự sa đọa của con người. Đọc những sáng tác thơ của các nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới như Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Huy Cận, Bích Khê, ta có thể nhận thấy tâm thức hiện sinh thể hiện khá đậm nét qua cảm xúc về nỗi buồn, sự cô đơn, về cái chết…

Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh cũng được tìm thấy trong văn học miền Nam giai đoạn 1954 – 1975. Tác giả Huỳnh Như Phương ghi nhận: “Chủ nghĩa hiện sinh đã đem lại cho văn học miền Nam những thay đổi đáng kể, với quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong một thế giới phi lí, với ngơn ngữ và kĩ thuật mơ tả hiện tượng luận. Đây có thể là ảnh hưởng tự phát, nhưng cũng có thể là ảnh hưởng tự giác, ở những nhà văn trực tiếp đọc lí thuyết và sáng tác văn học hiện sinh Tây Âu…”[36;11]. Trong sáng tác của Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nhã Ca, Thế Uyên…thân phận con người trong những biến động khốc liệt của chiến tranh trở thành vấn đề trung tâm. Tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng (Cuộc tình trong ngục thất, Ngày qua bóng tối, Vịng tay học trị…) là những câu chuyện đời buồn thảm, bi thương về những con người cơ độc, liều mình tìm kiếm, níu giữ tình u, song chưa kịp chạm tay vào hạnh phúc thì nó đã tan biến bởi chiến tranh, bởi lòng người cạn hẹp, bởi xã hội rối ren. Câu chuyện về những con người khơng có q hương, bơ vơ trong “Tơi nhìn tơi trên vách” (Túy Hồng); những đứa trẻ mồ côi trong “Chuyện bé Phượng” của Trần Nhật Tiến. Những con người sống trong lo âu, hồi nghi, ln ám ảnh về cái chết, con người bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Họ luôn mong chờ một sự thay đổi, họ bất mãn, nổi loạn, muốn tuyên chiến với cuộc đời bức bối, phi lí nhưng hồn tồn bất lực. Nguyễn Thị Hoàng đã ví cuộc sống như một “thành lũy hư vơ” ở đó “khơng có ánh sáng

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

rực rỡ của sửng sốt ngạc nhiên và nồng nàn của xơn xao rung cảm”, ở đó chỉ cịn lại con người kéo lê thân xác trong kiếp sống mòn mỏi. Thanh Tâm Tuyền lại nhìn đời như “một bãi cát lầy” con người với kiếp sống nhầy nhụa lầm lỗi trong tuyệt vọng. Duyên Anh trong “Sa mạc tuổi trẻ” lên tiếng: “Tơi muốn nổi loạn tức thì, đi chơi, phá phách, khiêu vũ, ăn uống, nói cười thật điên cuồng mê mải, để trong một lúc có thể nhấn chìm con người tơi xuống đáy biển q khứ tối tăm, cho tôi quên đi, quên tôi đang sống, nghĩa là đang gần đến cái chết”.

Văn học mang âm hưởng hiện sinh ở miền Nam giai đoạn này được đông đảo độc giả đón nhận, tạo nên bầu khơng khí sinh hoạt văn chương khá sôi động. Bên cạnh ý nghĩa nhân văn khi cất tiếng nói đồng cảm với thân phận con người, văn xi hiện sinh Sài Gịn là tiếng nói bi quan, sa đọa, bế tắc của tầng lớp trí thức thanh niên trong bóng đêm chiến tranh. Nói về nỗi cơ đơn, song hầu như là nỗi cô đơn vu vơ của một lối sống khơng mục đích, nhắc đến tự do nhưng bản chất nó là hành động phó mặc, bng thả thiếu trách nhiệm của những người trẻ khơng có lí tưởng.

Như vậy, sự tác động của xã hội, cùng với việc tiếp nhận ảnh hưởng của yếu tố hiện sinh đã đưa lại cho văn chương đô thị miền Nam một màu sắc mới. Các sáng tác gặp nhau trong việc miêu tả đời sống như một thảm kịch, một hư vơ, phi lí. Tuy nhiên những sáng tác này cũng có những hạn chế nhất định, đôi khi tô đậm sự bi quan, bế tắc của con người.

Sau năm 1975, non sông độc lập thống nhất. Đặc biệt là nửa sau những năm 1980, đất nước mở cửa, tạo cơ hội thuận lợi cho các trào lưu tư tưởng phương Tây du nhập vào nước ta. Trong đó có sự quay trở lại của chủ nghĩa hiên sinh. Ám ảnh hiện sinh về thân phận người trong những nghịch cảnh éo le của đất nước thời hậu chiến đã day dứt người cầm bút. Nhiều tác giả nổi lên với những trang viết đậm hơi thở hiện sinh như Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp. Đoàn Minh Phượng, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Hà….Tác giả Đỗ Ngọc Thạch trong bài viết “Vài đặc điểm của văn xuôi hiện đại Việt Nam” đã chỉ ra sự xuất hiện của những luận đề triết học hiện sinh trong sáng tác của một số tác giả văn xuôi Việt Nam như Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hồi….Ơng đi đến nhận xét: “Nhà văn hậu hiện đại Việt Nam phải chăng đang làm lại một thứ chủ nghĩa hư vơ, phi lí như văn học hiện sinh, văn học phi lí của J. P. Sartre, A. Camus”.

Nguyễn Huy Thiệp được xem là “một hiện tượng lạ” trên văn đàn Việt Nam thời kì đổi mới. Âm hưởng hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thể hiện ở niềm day dứt khôn nguôi về tình trạng cơ đơn bé nhỏ cùng sự bơ vơ thiếu vắng điểm tựa của con người. Chương – người kể chuyện xưng “tôi” trong Con gái thủy thần, sau khi đấu vật thắng, bị trả thù suýt nữa thân tàn ma dại. Câu hỏi đặt ra cho anh là: những lúc gặp vận hạn trong đời như thế thì ai cứu mình? Chương đem câu hỏi này hỏi mẹ. Mẹ Chương đáp “Mẹ Cả cứu”. Nhưng mẹ Cả ở đâu? Ở chỗ nào? Vì cái gì? Bởi lẽ gì?. Chương đi tìm lời đáp, mất nửa đời người vẫn vô vọng. “Sự kết án tự do” chẳng phải dành riêng cho Chương mà dành chung cho con người, cho các nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp: Ông tướng Thuấn, dặn dày trong chiến tranh, huân chương lấp lánh trên ngực nay về hưu ở với gia đình con trai (Tướng về hưu); anh chàng Hiếu hòa nhập vào dân quê, vỡ lòng những bài học vào đời (Những bài học nông thôn); thằng bé sáu tuổi bị phó mặc một mình trong căn nhà hoang với những ám ảnh kinh hoàng (Đời thế mà vui)….Một thế giới nhân vật, dù khác nhau về cảnh ngộ, tình huống đều nhất quán một nguyên tắc chung: phải tự lựa chọn, tự hành động để tự cứu lấy mình đồng thời phải sống dấn thân để tự đúc kết bài học cho riêng mình. Khơng ai sống giúp mình, làm việc và lựa chọn thay cho mình được. Tất cả là biểu hiện đa dạng của các phạm trù hiện sinh: lựa chọn, hành động, dấn thân, chân lí, niềm tin và ngụy tín. Dấu ấn hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp cũng được tìm thấy trong một số truyện ngắn về đề tài lịch sử. Với cảm hứng “hạ bệ thần

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

tượng” hay “nhìn nhận lại lịch sử đã hoàn kết”, Nguyễn Huy Thiệp khơng nhằm mục đích hạ thấp các thần tượng lịch sử vốn được tôn sùng (Nguyễn Trãi, Quang Trung, vua Gia Long) mà mong muốn khẳng định ngay cả bản thân những thần tượng cũng là những “nhân vị độc đáo”.

Tác phẩm của Phạm Thị Hồi mang cảm quan về tính phi lí của cuộc sống hiện tại nhiều biến động. Ở đấy con người luôn tồn tại cảm giác bất an, lệch pha giữa cá nhân và cộng đồng. Tiểu thuyết “Thiên sứ” là bức tranh thu nhỏ của một xã hội khơng n bình. Trong xã hội ấy, nụ cười thánh thiện của một hài nhi trở nên lạc lõng “con bé lọt lịng khơng chịu cất tiếng khóc mà mỉm cười làm thân với đủ mười ba nữ hộ sinh đứng quanh bàn đẻ”. Câu nói đầu tiên và cũng là duy nhất của nhân vật là “thơm nào” thể hiện khát khao được trao gửi yêu thương. Bé Hon ln muốn được hịa hợp tâm hồn với những người xung quanh, đánh thức tình yêu và hàn gắn nỗi đau trong mỗi linh hồn. Nếu như Thánh Gióng năm xưa có nhiệm vụ giúp nhân dân đánh giặc Ân cứu nước thì bé Hon trong thời hiện đại làm nhiệm vụ của một thiên sứ mang nụ cười và nụ hôn đến với cuộc sống này. Nhưng bé nhanh chóng bị chối từ. Hon ra đi kì lạ như khi xuất hiện. Sự ra đi diễn ra trong cô đơn và lặng lẽ ở một thế giới bị bủa vây bởi ghẻ lạnh. Trong sáng tác của Phạm Thị Hồi, có những nhân vật có cái tơi nhân vị độc đáo lựa chọn khước từ cuộc sống “bầy đàn”, khước từ “cái người ta” vô nghĩa tẻ nhạt để sống là mình. Hai mẹ con Liễu trong “Tổ khúc bốn mùa” là kiểu nhân vật phản tư, từ chối khoác lên mình “tấm áo đồng phục”. Họ sống kín đáo, ngầm kiêu hãnh vì sống khác biệt với các cư dân trong xóm. Những cơng chức giống nhau từ cách ngậm cái tăm, xỏ đôi dép đến ước mơ quẩn quanh tội nghiệp và căn bệnh mất khả năng ý thức về tất cả mọi sự vật, trước hết là về mình.

Thế giới nhân sinh trong tiểu thuyết của Đồn Minh Phượng được nhìn nhận trong một tình huống đặc biệt: Đó là cuộc sống của những con người bị buộc phải rời xa quê hương đi đến một vùng đất mới. Những thay đổi trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

môi trường sống mới, những xung đột về văn hóa khiến con người phải tự nhìn lại sự tồn tại của mình, nhìn nhận lại thế giới. An Mi trong “Và khi tro bụi”- một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ, nay lại di cư đến Đức, lưu lạc bên ngồi q hương, ln trăn trở với câu hỏi “Quê hương là gì?”. Cảm giác thiếu vắng quê hương, thiếu vắng nguồn cội khiến cho An Mi cảm thấy cô đơn, lạc lõng, mất đi kết nối với cuộc đời. Cô không định nghĩa được về bản thân mình. Cơ tồn tại như một bóng ma đợi cái chết. Khơng cịn nơi để về, khi dấu vết về quê hương nguồn cội bị lãng quên, An Mi trở nên vô định, mất đi động lực sống. Trong “Mưa kiếp sau” quê hương luôn được hoài nghi trong tâm tưởng của Mai. Quê hương là ngôi nhà gỗ ở Huế, quê hương là ngôi nhà nhỏ ở Hà Nội, quê hương là căn nhà nơi dì Thư và mẹ Lan chuẩn bị cho sự chào đời của Mai… Quê hương là gì? Khi con người bị buộc phải rời xa quê hương quá lâu. Họ nghi ngờ về nơi được gọi là q hương, thậm chí cịn chối bỏ. “Thứ tình nối tơi với cái q hương đó đã mất rồi, cuốn theo sơng trơi ra biển cịn đâu. Tôi chưa bao giờ thực sự là người Hà Nội, nhưng tôi cũng không phải là người Huế. Tơi khơng có q hương và tôi cũng chẳng cần”[35;52]. Cảm giác bơ vơ của một con người bị bỏ rơi, không được thừa nhận. Con người bị buộc rời xa quê hương, rời xa hệ thống định hướng giá trị trở nên hoài nghi bản thân, nghi ngờ mục đích tồn tại của mình.

Đọc những tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, ta bắt gặp một cái nhìn về đời sống mang màu sắc hiện sinh. Đó là một hiện thực vơ nghĩa tẻ nhạt, hiện thực mang đậm tính phi lí, hiện thực chứa nhiều bất trắc, một hiện thực mang tính phân rã, hỗn loạn. “Thoạt Kỳ Thủy” đưa người đọc đến một vùng thôn quê mà ở đằng sau cái vẻ yên bình là một thế giới tập hợp của những tạp âm kì lạ của những người điên. Nhân vật Tính ghét cái đẹp nhưng lại nhạy cảm với bạo lực, thích thú với cơng việc chọc tiết và máu. Cụm từ “mắt chó vàng như trăng” trở đi trở lại nhiều lần trong văn bản thể hiện sự hoảng loạn, điên cuồng của Tính trước đời sống nhịe nhoẹt, vơ hướng. Khơng riêng gì

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Tính, đàn ông trong làng đều sống bằng bản năng nhiều hơn lí trí, đàn bà quanh năm nhốt mình sau lũy tre, sống lầm lũi như những con rùa bên những gã đàn ông nghiện rượu điên loạn. Kì lạ ở chỗ, khơng ai có phản ứng chống lại cuộc sống ù lì, lặp lại nhàm chán đó. Những người điên cứ điên, những người say cứ say, chẳng ai “buồn nôn” hay phản ứng gì.

Khuynh hướng hiện sinh trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà xuất phát từ bối cảnh khủng hoảng do những thay đổi trong quan hệ kinh tế cho đến quan hệ xã hội. Tiểu thuyết “Cơ hội của Chúa” và “Khải huyền muộn” đã mở ra hiện thực những năm 1990, khi mà cơ chế thị trường làm đảo lộn cuộc sống cũng như nếp sống của con người, những giá trị mới đang dần len lỏi phá vỡ cấu trúc xã hội. Trong “Cơ hội của Chúa”, ta dễ dàng bắt gặp: “Đàn ông biết bật nắp Heniken và đàn bà cũng quen dần với vị coca”, “xe thì ngập đầy Auto và Moto đời mới; Rượu đa phần là Whisky và Cognac, bia cũng nhiều, Heniken lẫn 333; phụ nữ q nửa mặc đầm cịn ngơn ngữ đối thoại chủ yếu tiếng Anh, Nga, Pháp. Rất hiếm tiếng Việt” [10;11]. Hoàng trong Cơ hội của Chúa là kiểu nhân vật cô đơn, lạc lõng trong thế giới nhân sinh. Sự cô đơn, lạc lõng đến từ việc khơng được thấu hiểu. Hồng thất bại trong cả sự nghiệp và tình yêu. Hai mối tình với Mai Linh và Thủy đều không thành. Anh không thể thích nghi trước những biến cố của xã hội đang biến chuyển theo định hướng kinh tế thị trường. Hoàng lựa chọn “vong thân” như một cách xử thế trước cuộc đời bi kịch. Anh tìm đến rượu để trốn tránh hiện thực đời sống, tìm đến tơn giáo như sự cứu cánh cho sự tồn tại phi lí. Hồng được xây dựng trên cảm hứng bi quan về thân phận người. Những thân phận bị ruồng bỏ, cô độc trong thế giới bất toàn. Đây là những trăn trở của Nguyễn Việt Hà về thân phận người trong thời kì đổi mới. Khi mà cái cũ, cái mới đan xen, xâm lấn trong xã hội. Con người cần thay đổi để thích nghi với hồn cảnh để tìm hướng đi riêng, để tìm lại chính mình trong cuộc sống mới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

1.4. Những tiền đề dẫn đến sự xuất hiện khá phổ biến của yếu tố hiện sinh trong văn học Việt Nam hiện nay nói chung và tiểu thuyết của ng Triều nói riêng

1.4.1. Những tiền đề dẫn đến sự xuất hiện khá phổ biến của yếu tố hiện sinh trong văn học Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, về hoàn cảnh xã hội. Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập thống nhất. Bối cảnh đất nước thời hậu chiến và thời kì hiện đại hóa dẫn đến sự xuất hiện những trạng thái tinh thần mang màu sắc hiện sinh khá rõ nét. Ra khỏi chiến tranh, con người có điều kiện nhìn nhận lại cuộc chiến và đời sống của mình trong và sau chiến tranh một cách tồn diện hơn. Có những vết thương chưa liền miệng, có những anh hùng ra khỏi cuộc chiến nay bỡ ngỡ, chống ngợp rơi vào lạc lõng, khơng hịa nhập với cuộc sống đời thường. Đúng như nhà văn Nguyên Ngọc đã khẳng định: “Ngọn lửa chiến tranh thiêu cháy cả những nhỏ nhen, nhiêu khê của cuộc sống thường ngày. Hịa bình thì khác hẳn. Hịa bình tức là trở lại đối mặt với cái bình thường hằng ngày, cái bình thường mà muôn thuở, tất cả những nhiêu khê của cuộc sống bị che lấp trong chiến tranh bây giờ thức dậy, vây quanh con người từng giờ ở khắp mọi nơi”. Đứng trước sự thay đổi này, mỗi người đều ý thức được họ không chỉ thể sống mãi với cái phi thường, với những “đại tự sự” mà cịn phải sống cuộc đời bình thường, phải đối mặt với những vấn đề của cuộc sống nhân sinh phức tạp, bộn bề.

Thứ hai, sự thay đổi trong định hướng văn học. Tháng 4 năm 1986, Ban bí thư ra chỉ thị về cơng tác tư tưởng mở rộng dân chủ. Tháng 6 năm 1986, Ban bí thư tiếp tục ra thơng báo tun truyền trên báo chí về phê bình và tự phê bình. Tháng 12 năm 1986, Đại hộ Đảng lần thứ VI được tiến hành. Ba dấu mốc quan trọng thể hiện sự đổi mới của Đảng về phát huy tinh thần dân chủ trong xã hội. Đây chính là nguồn cổ vũ to lớn cho người nghệ sĩ thể hiện mình, được nói ra những trăn trở sâu kín và thực sự dám dấn thân vào con

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

đường đổi mới văn học nước nhà. Đặc biệt những quan niệm mới về văn hóa văn nghệ của Đảng tại Đại hội VI đã tác động tới các cơ quan, tổ chức và công chúng làm thay đổi quan niệm nhận thức về văn học, tạo bầu khơng khí mới cho sáng tạo văn học.

Thứ ba, tình hình giao lưu văn học. Hịa chung vào bầu khơng khí dân chủ, văn học Việt Nam có điều kiện tiếp xúc với văn học thế giới. Những trào lưu cùng những bậc thầy về văn học thế giới đã theo sách báo, dịch thuật vào trong nước. Các sáng tác của J. P. Sartre, A. Camus được hòa nhập vào văn học và thu hút các nhà văn Việt Nam đến mức “người được gọi là trí thức phải có phải có một bản dịch cuốn Buồn nôn của Sartre gối đầu giường” (Nguyễn Tiến Dũng). Mặt khác người ta có nhu cầu đọc lại chủ nghĩa hiện sinh trên bình diện lí luận. Đó là lí do dẫn đến việc xuất bản, tái bản những cuốn sách kinh điển của thuyết hiện sinh, đặc biệt là cuốn “Văn học là gì” của J. Sartre.

Văn học mở ra một thời đại mới - thời đại dân chủ, các nhà văn có mơi trường mới nhằm thỏa mãn những thử nghiệm, những tìm tịi cách tân của mình. Trong một chứng mực nhất định, các tác giả đã bộc lộ tri giác về thực tại và con người mang hơi thở của triết học hiện sinh. Chúng tơi tạm gọi đó là cảm thức hiện sinh. Đây là một số lí do vì sao chủ nghĩa hiện sinh phương Tây có cơ hội quay trở lại và ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống văn học nước nhà.

1.4.2. Những nỗ lực tìm tịi trong việc đổi mới tiểu thuyết của Uông Triều

Uông Triều sinh năm 1977, tên thật là Nguyễn Xuân Ban, bút danh ng Triều gắn với vùng ng Bí, Đơng Triều – Quảng Ninh, quê hương của nhà văn. Uông Triều thuộc thế hệ những người cầm bút trẻ, một thế hệ khát khao đổi mới, luôn có ý thức vượt thốt khỏi khn khổ và dám dấn thân cùng nghệ thuật. Sáng tác trong quan niệm của ng Triều là một trình độ, một

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

phong cách, một giá trị, một nguyên tắc nhìn nhận về thế giới và con người. Uông Triều đã có những thành công nhất định ở thể loại truyện ngắn (Đêm ở Ngọa Vân, Bò hoang phố Cổ), khảo cứu văn học (Những pho tượng đá ở Yên Tử), tản văn, tùy bút (Hà Nội- quán xá phố phường; Hà Nội-dấu xưa, phố cũ). Nhưng với tính cách ưa khám phá, khơng giới hạn bản thân, anh thử nghiệm mình ở thể loại tiểu thuyết. Và rất nhanh chóng anh tìm cho mình một lối đi riêng, một cách viết mới đầy hấp dẫn và thách thức người tiếp nhận.

Năm 2014, ng Triều trình làng cuốn tiểu thuyết đầu tay “Tưởng tượng và dấu vết”. Cuốn tiểu thuyết mang đậm tính chất văn học hậu hiện đại với một “mê cung” những hành trình hoang hoải đi tìm nhân thân của nhân vật chính. “Tơi” nhân vật chính trong vai người kể chuyện, là một chàng trai 26 tuổi, chịu một tai nạn thảm khốc khơng đi lại được. Anh hồn tồn mất tự do. Anh sống trong một thế giới của riêng mình. Đến với tác phẩm người đọc sẽ nhận ra tất cả sự đứt đoạn, phi lí, đa tầng bậc của truyện là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, không giới hạn.

Tháng 3 năm 2015, Uông Triều xuất bản cuốn tiểu thuyết lịch sử dày dặn mang tên “Sương mù tháng giêng”. Đây là cuốn tiểu thuyết viết về thời đại nhà Trần, một thời đại mà bản thân Uông Triều đã dày cơng tìm hiểu. Tác giả đã đưa người đọc ngược hành trình trở lại giai đoạn nhà Trần nhiều biến động để hiểu thêm về những con người, sự kiện vốn chỉ hiện diện trong chính sử với các hoạt động, sự kiện khô khan mà ít được chú ý tới nội tâm, đời sống tình cảm. Nói cách khác là nơi mà các vĩ nhân, nhân vật chính diện, phản diện đều được nhìn với góc độ rất Người. Nhân vật lịch sử Trần Khánh Dư, công chúa Thiên Thụy, vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo hiện lên với tâm tư tình cảm của con người cụ thể, mang nỗi niềm của dịng tộc mâu thuẫn với lợi ích quốc gia, thậm chí với cả những sân si dục vọng. “Sương mù tháng giêng” là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng thẩm

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

mĩ của Uông Triều, một “kẻ hiện đại ham thích chuyện lịch sử” đã khơi mở những vấn đề ẩn khuất và lay động con người.

Năm 2016, Uông Triều tiếp tục cống hiến cho độc giả một tiểu thuyết đặc sắc với nhan đề “Người mê”. Trong tiểu thuyết mới này, tác giả không dụng công mổ xẻ thân phận người, tâm sinh lí hay tình u tuổi già mà tác giả quan tâm đến câu hỏi là liệu con người được phép tưởng tượng đến đâu?. Và tại sao cuộc phiêu lưu của tinh thần trong thời đại, xã hội của chúng ta lại mạo hiểm đến mức phải giải thoát trong cái chết?. Với Người mê độc giả như đứng trước một thế giới va đập bạo liệt giữa niềm tin và sự khủng hoảng, tội lỗi và sám hối.

“Cô độc” là cuốn tiểu thuyết mới nhất của Uông Triều, ra mắt độc giả tháng 11/2019. Tác giả Phạm Xuân Thạch đánh giá: “Cô độc là tác phẩm hồn thiện phong cách của ng Triều”. Cuốn tiểu thuyết 296 trang viết về hai biên tập B và Ba, những kẻ cơ độc, ích kỉ, tự cơ lập mình trong trụy lạc và phản bội. Tác phẩm hiện ra một thế giới hoang đường, thực hư khó phân biệt. Cơ độc đã thể hiện một bước tiến dài trong tư duy nghệ thuật của Uông Triều.

Trong hầu hết tiểu thuyết của Uông Triều, thế giới bên ngồi mênh mơng được thay thế bằng cái vô tận của chiều sâu tâm hồn. Nhà văn quan tâm tới nỗi buồn và sự cô đơn của con người và luôn trăn trở với câu hỏi: Tôi là ai?. Khi không biết mình thực sự là ai, thì là ai cũng giống nhau, là ai cịn có nghĩa lí gì. ng Triều thể hiện chiều sâu suy tư triết học với cái nhìn nhân văn sâu sắc về một thế giới bí ẩn, ngẫu nhiên, hỗn mang, phi lí cùng bản thể con người phức tạp, đa chiều, vô cùng vô tận.

Uông Triều khởi nghiệp văn có hơi muộn, nhưng nhìn hành trình sáng tác của anh, chúng ta thấy được niềm say mê nghiên cứu, ham đọc, ham nghĩ, ham viết của anh. Thấy được sự nỗ lực và những đóng góp của anh của cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

*Tiểu kết: Trong chương 1, chúng tơi đã trình bày những vấn đề khái quát về chủ nghĩa hiện sinh, bối cảnh ra đời và sự biểu hiện của yếu tố hiện sinh trong văn học Việt Nam. Những tiền đề dẫn đến sự xuất hiện khá phổ biến của cảm thức hiện sinh trong văn học Việt Nam hiện nay nói chung và tiểu thuyết của ng Triều nói riêng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

CHƯƠNG 2: CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC MANG MÀU SẮC HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA UÔNG TRIỀU

Văn học từ khi ra đời đến nay luôn làm đúng thiên chức của mình – là tấm gương khúc xạ thời đại, luận bàn, khẳng định những giá trị cốt lõi và bền vững của nhân loại. Văn học tồn tại như một dòng chảy lịch sử, phản ánh xã hội đương thời, con người thế sự. Nhưng văn học không phải là chiếc máy ảnh sao chụp lại hiện thực mà là sự sáng tạo không đường biên của người nghệ sĩ. Trong dòng văn học hậu hiện đại, ng Triều đã góp một cái nhìn hiện thực mới mẻ, một hạt giống lạ trong vườn ươm văn xuôi đương đại. Hiện thực trong các tiểu thuyết của anh là hiện thực vô nghĩa, trống rỗng; hiện thực mang đậm tính phi lí; hiện thực chứa đầy những yếu tố ngẫu nhiên; hiện thực mang tính bất định, hỗn loạn.

2.1. Hiện thực vô nghĩa, trống rỗng

Con người nhận ra ở thế giới này khơng có cái cớ gì cho tồn tại của nó, vì thế mà lo âu bởi khơng tìm đâu ra điểm tựa cho lẽ tồn tại, tồn tại bản thân đang đứng trước thảm trạng vô nghĩa, trống rỗng. Nhận thức về sự dửng dưng vô cảm giữa người với người và sự rời rạc của vạn vật là cái nhìn khám phá bản chất thế giới. Văn chương thế giới nói nhiều về tình trạng đời sống thiếu vắng sự sống động, thiếu gam màu ấm nóng, chỉ quẩn quanh, ngưng đọng trong khn khổ đóng sẵn cứng nhắc. Ở đó con người như những cỗ máy được lập trình mọi hoạt động. Họ sống, làm việc, giao tiếp, thậm chí làm tình như một thói quen lặp lại vơ nghĩa. Hiện thực vô nghĩa, trống rỗng ấy biểu hiện trong tiểu thuyết của Uông Triều ở nhịp sống hàng ngày tẻ nhạt đơn điệu và sự hoài nghi những giá trị tinh thần tốt đẹp của con người.

Trước hết, đó là cuộc sống hàng ngày tẻ nhạt, đơn điệu trong mơi trường gia đình, mối quan hệ vợ chồng, con cái; môi trường công sở; khu phố.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Một môi trường sống hồn tồn khép kín, gần như đóng băng, lạnh lẽo cực đại. Trong “Tưởng tượng và dấu vết”, nhân vật “tôi” đã nhận ra sự đơn điệu của cuộc sống, khi ngày nào cũng ngồi một chỗ, sau khung cửa sổ. Quan sát người qua đường, những gương mặt quen và lạ, vui buồn không hiện trên nét mặt. Đọc những quyển sách tẻ nhạt được đánh số theo thứ tự. Hàng ngày, anh dành phần lớn thời gian để quan sát lũ côn trùng: lũ kiến tha mẩu bánh vụn về tổ, những con thạch sùng kiếm ăn quanh quẩn trên tường và quan sát mọi biến động trong nhà. “Tôi” không để cho cha mẹ quét mạng nhện, chúng là trò tiêu khiển của anh. Anh quan sát lũ nhện chăng tơ, quan sát lũ mồi đến khi chúng bị sa bẫy. Cuộc sống của bố mẹ anh cũng nhạt nhẽo như thế . Trong vòng bao nhiêu năm qua hơn nhân khơng có gì là mới mẻ, vẫn là một kịch bản cũ rích, lối quan tâm có từ ngàn đời. “Mẹ tơi chăm sóc bố tôi theo một cách dịu dàng nào đấy, theo kiểu những vở kịch nhạt nhẽo vẫn chiếu trên truyền hình nhưng sự nồng ấm thì khơng bao giờ có được”[43;177]. Người vợ vẫn nói với chồng những từ âu yếm như thế, hàng nghìn lần. Chăn gối vợ chồng theo một lối mòn sáo rỗng, nguyên xi từ ngày cưới và đến giờ chỉ có nhạt nhẽo và kém sâu sắc hơn. Mẹ phải đi công tác khá thường xuyên “một phần vì cơng việc, một phần vì nghĩa vụ tinh thần, nếu phá vỡ nó mẹ khơng phải là mẹ nữa, mẹ đang cố gắng bẻ gãy cái vòng tuần hồn vơ vị và nhạt nhẽo của mình… con đừng bận tâm chuyện của bố con, ông ấy vật lộn để bẻ gãy mắt xích nhàm chán”[43;177]. “Tơi” đã nhận ra gia đình mình là một khối lỏng lẻo. Bố mẹ anh đều cố duy trì mối quan hệ nhạt nhẽo và gồng mình chống chọi với những mắt xích nhàm chán. Cả gia đình cùng tồn tại trong một vịng tuần hồn của sự đơn điệu, nhàm chán.

Ở “Người mê” cuộc sống vô nghĩa hiện lên bởi sự tẻ ngắt của cuộc đời viên chức sáng cắp ô đi, tối cắp ô về, ở đời sống vợ chồng hờ hững. Nhân vật ông già là một công chức nhà nước mẫn cán, ơng duy trì một cơng việc bình ổn an tồn. Ơng chẳng bao giờ q nhiệt thành, chỉ ln hồn thành cơng việc ở mức chấp nhận được. Ơng khơng làm cho nó tốt lên hay xấu đi. Khơng điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

gì khiến ơng vui hay tức giận. Nói chung, ơng là một cơng chức như hàng nghìn cơng chức nhà nước khác “hịa mình vào một dịng nước của con sơng buồn tẻ”. Ơng duy trì trạng thái bình ổn, chung dung cho đến lúc cầm sổ hưu mà không biết đến cảm giác luyến tiếc. Quan hệ của ông với vợ không thể gọi là nồng ấm được. Những từ ngữ có thể khái quát được là nghĩa vụ, trách nhiệm với nhau, những ràng buộc từ tờ giấy kết hôn và đứa con gái. Một tháng ông chỉ về thăm vợ con hai lần, dù khoảng cách khơng q xa. Có một sự nhạt nhẽo nào đó cứ tăng dần theo năm tháng nhưng không đủ chán ngắt để người trong cuộc từ bỏ. Như một thứ qn tính trơ lì, sự chịu đựng của cái máy hôn nhân vẫn phải tồn tại.

Nhân vật Ba trong tiểu thuyết “Cơ độc”, có một cuộc sống đơn điệu, hằng ngày làm việc, thỉnh thoảng về thăm ngơi nhà của mình, mở căn phịng đầy bụi và ngập tràn hồi niệm. Anh là một biên tập viên xuất sắc của nhà xuất bản, nhưng anh luôn phải chịu đựng sự vô vị từ những trang bản thảo hàng ngày anh đọc. “Ba xếp lại trang bản thảo, anh không chịu đựng được sự tẻ nhạt, người tẻ nhạt đã khơng muốn gặp, những cuốn sách nhạt nhẽo thì muốn ném đi ngay”[45;7]. Vốn có niềm đam mê đặc biệt với chữ nghĩa, anh luôn trông đợi những quyển sách phi thường, thì chính anh lại làm ra những quyển sách bình thường. Đời sống bên ngoài tẻ nhạt, ù lì chiếu thẳng vào những trang bản thảo Ba đọc: “Bản thảo gửi đến Ba rất nhiều. Đa số là những thứ nhạt nhẽo, sáo mịn. Có rất ít những cái mới, anh thường phải đọc những cuốn sách kinh điển, xem những bộ phim nổi tiếng để tẩy bớt những thứ tầm phào”[45;7]. Ngay cả những lũ mọt “chúng kêu những tiếng chán chường, chúng không biến dị khi gặm nhấm những cuốn sách, chúng vĩnh viễn là những con mọt tầm thường tiêu hóa những quyển sách tầm thường”[36;199]. Đời sống của Ba như những con mọt, gặm nhấm dần mòn thời gian sống, tiêu hao dần những đam mê viết lách, chữ nghĩa, chán chường với cả thực tại và quá khứ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Tồn tại trong trạng thái sống vô nghĩa, con người thường mất niềm tin vào cuộc sống dẫn đến hoài nghi các giá trị tinh thần tốt đẹp. Tiểu thuyết Người mê miểu tả đời sống tâm hồn nghèo nàn, khơ cạn tình u thương, coi nhẹ giá trị bền vững của tình yêu và hạnh phúc gia đình. Câu chuyện đi tìm tình yêu của một thời trai trẻ hay tìm một chỗ dựa tinh thần chống lại sự trống vắng tuổi già của ông già sáu mươi tuổi đã làm kinh động đến gia đình, họ hàng hai bên. Ơng già dành tình cảm chân thành, trọn vẹn, nghiêm túc cho H. Đó là bạn của con gái ơng, cũng là nhân viên trong qn cà phê của ơng. Ơng mong muốn được yêu thương, được chăm sóc người con gái này. Vợ ông mất sớm, giờ ông độc thân, không bị ràng buộc bởi hôn thú. H. đủ tuổi trưởng thành để lựa chọn, quyết định hạnh phúc riêng tư cho mình. Pháp luật đâu có cấm cản hai con người tự do đến bên nhau. Vậy mà chuyện tình cảm của ơng và cơ gái trẻ nhận được một làn sóng phản đối dữ dội. Câu hỏi đặt ra là tạo sao mọi người lại phản đối? Có phải họ quan tâm đến chuyện tình cảm cá nhân của ông, vì lo ông sẽ vất vả nếu bước vào một cuộc hôn nhân mới ở cái tuổi xế chiều….. Chẳng có chỗ cho sự quan tâm, lo lắng nào cả. Dưới con mắt chủ quan, phiến diện họ đều phán xét và đánh giá rằng đây chỉ là một trò chơi sắc dục của một lão già với một cô gái trẻ, bằng tuổi con gái lão. Con gái ông không ngần ngại ném thẳng vào mặt ông những lời lẽ tục tĩu: “Tự dưng con thấy bố đáng ghét quá, ông già đỏm dáng ạ….. Sao đến tuổi này bố còn làm chuyện đó hả bố?… Bố làm thế con thấy xấu hổ lắm”[44;57]. Anh trai ơng thì khun ngăn: “Năm nay chú bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Sáu mươi tuổi kể cũng không già lắm, nhưng ở cái tuổi này, sao chú khơng tìm chỗ an tồn mà chơi, chú dính vào con bé bằng tuổi con gái mình làm gì? …Tơi khơng cấm chú quan hệ với phụ nữ nhưng chơi bời tùy chỗ chú à”[44;62]. Bố đẻ của ông- một cụ ơng chín mươi tuổi nóng lịng thực hiện trách nhiệm của mình, tự coi mình là một “tấm gương” yêu cầu con cháu noi theo: “Trước đây mẹ anh mất, tôi mới bốn mươi nhưng tôi ở vậy đến tận bây giờ….tơi đã phải vất vả, cịm

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

cõi ni dạy hai anh…..con bé đó mới hai mươi làm như thế khơng ổn”. Ơng phải sống như bố mình, phải cơ độc cịm cõi chừng năm mươi năm sao? Chưa dừng lại ở đó, ngày hơm sau, ơng lại tiếp một đối thủ nặng hơn đến thuyết giáo, bố của H. Hai ông bố già, có hai đứa con gái bằng tuổi nhau, đã can ngăn ông bằng sự chân thành nhất: “Ông bạn già à, việc gì phải lao vào những trò như thế, nếu ông bạn muốn chơi bời thì hãy tìm một chỗ an tồn...Nói thật với ơng thỉnh thoảng tơi cũng vui thú bên ngồi một chút, vợ tôi già rồi…..ông nên làm theo cách của tơi thì hơn.”[44;64]. Đến thời điểm này, ơng đã biết trên con đường của mình có những gì. Những sự cản trở thì cứ từ từ và quyết liệt. Người tiếp theo là mẹ của H, bà phải bằng mấy người kia cộng lại, bà ta lật bài ngửa ngay khi gặp ơng. “Ơng nói xem ơng sẽ lo cho nó được những gì nếu ơng lấy nó. Ơng có mấy ngơi nhà, qn cà phê này thu nhập được bao nhiêu….Thế ông có khả năng tìm việc cho con gái tơi khơng, tôi không muốn con gái tôi suốt đời bán cà phê. Lại nữa ông lấy con gái tôi được mấy năm, ơng ngã bệnh, ốm chết thì con gái tơi bơ vơ à”[44;80]. Ơng điếng người khi nghe những âm thanh ấy, ở cái tuổi của ông người ta chỉ có thể chơi bời nhăng nhít thơi sao, tình u phải đặt lên bàn cân tiền bạc mới đo lường được hay sao?. Liệu những người khuyên can ông, đưa cho ông giải pháp trên có biết tình cảm lúc xế chiều là thế nào, họ có biết đến nỗi cơ đơn của ơng. Ơng khơng có quyền được u ư? ơng khơng có quyền tìm kiếm niềm vui cho mình ư?. Chẳng có ai tin vào một thứ mang tên “tình u”, một thứ xa xỉ, hão huyền, khơng tưởng trong cuộc sống bủa vây bởi lòng tham, sự ích kỉ, của đồng tiền. Trong con mắt của mọi người tình cảm của ơng là “một trị chơi” khơng hơn khơng kém. Họ tranh nhau bày trị, hướng dẫn hay mách nước các “kiểu chơi” khác nhau. Chơi sao cho an tồn. Chơi sao cho khơng ảnh hưởng đến thanh danh, danh dự gia đình. Liệu có phải vì họ cũng khơng có tình u của riêng mình, họ sống khơng hạnh phúc trong vỏ kén tình u nên họ khơng thể đồng cảm, thấu hiểu cho ơng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Đó là thái độ ứng xử, đánh giá của những người ngồi cuộc chơi, cịn bản thân những người trong cuộc thì sao. Gia đình ơng, gia đình H. có phản đối quyết liệt thế nào thì ơng vẫn tin vào tình cảm chân thành của ơng với H. Mọi cái tát từ bốn phía xung quanh ơng đều sẵn sàng đón nhận và tự tin đáp trả. Bao nhiêu năm ông đã nhường nhịn, giờ ông không muốn nhượng bộ nữa. Nhưng cái kết cho những nỗ lực đó của ơng là gì, ơng nhận được một địn chí tử, một xơ nước đá lạnh dội thẳng vào trái tim đang rực nóng của ông. “Khi ông đã kéo được quần của cô xuống ngang đầu gối và sắp đạt được ý định của mình thì cơ bất ngờ hỏi ơng. Ơng có thể tìm cho em một cơng việc trên thành phố được khơng. Ơng nghe câu hỏi mà nhũn cả người. Nó giáng cho ơng một cú bẽ bàng. Một phút ngừng lại. Ông ngượng ngập, chần chừ và cô gái đã hiểu ra sự việc. Cô lặng lẽ kéo quần lên và bước ra khỏi phòng”[44;98]. Mọi sự đã tỏ, H. đến với ơng khơng phải vì tình u, mà cô muốn lợi dụng tiền bạc, mối quan hệ của ông để có một tấm vé bước vào thành phố hoa lệ sống và làm việc, thoát khỏi cái thị trấn nghèo nàn và vắng vẻ này.

Con gái ơng, người tình của ơng đều muốn đến thành phố sống và làm việc, thành phố ấy có gì mà hút người ta đến vậy?. Thành phố của tiền, quyền, sự vơ cảm, sự lãng qn. Ơng có một đời cơng chức ở thành phố, ơng hy vọng bằng sự cống hiến và các mối quan hệ ơng có được từ cơ quan cũ, ơng có thể xin một vị trí làm việc cho con gái, hồn thành di nguyện của vợ ơng trước khi mất. Ông quay trở lại cơ quan sau gần một năm tính từ ngày ơng nghỉ hưu, nhưng ông như một kẻ xa lạ, người ta quên ông vì ông chỉ là một nhân viên quèn. Khả năng xin việc cho con gái rất mong manh. Ông đi đến phòng ban nào người ta cũng muốn xua đuổi ơng thật nhanh “Anh có chuyện gì thì nói ln đi, tơi khơng có nhiều thời gian đâu…chuyện của con gái anh ạ… khó lắm đấy”[44;42]. Ai gặp ơng cũng chỉ có mấy lời ngọt nhạt hoặc chỉ ông đi gặp cấp trên. “Giúp đỡ à? Ai muốn xin xỏ cái gì mà chẳng bảo như thế, thơi để khỏi mất thì giờ, vấn đề này tôi không giải quyết nổi. Anh đi gặp cấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

trên của tôi nhé”[44;49]. Cấp trên của cấp trên, lại cấp trên của cấp trên…Ông luẩn quẩn quanh co khắp các phòng với các loại cấp trên, kết cục khơng được việc gì. Ơng thất bại trong cuộc chiến tìm hạnh phúc riêng, thất bại khi đi xin việc cho con. Mọi chuyện bây giờ đều đòi hỏi một điều kiện gì đó, hoặc tiền bạc, hoặc quyền lực. Ơng thì thiếu cả hai thứ ấy. Có chỗ đứng nào cho một kẻ không tiền, không quyền trong xã hội này?.

Trong tiểu thuyết “Cô độc”, Uông Triều diễn tả đời sống vô nghĩa, tẻ nhạt, mất phương hướng giữa cuộc đời bế tắc của các biên tập viên. Ở đó các nhân vật im lặng, đắm chìm trong những ham mê u tối, đầy bản năng dục vọng và đánh mất điểm tựa vào giá trị tốt đẹp của tình yêu và mái ấm gia đình. Nhân vật B, sau cuộc li hơn với người vợ đầu, anh thường rơi vào cảm giác trầm uất, đau buồn và ngập tràn cô đơn. Anh ln phải tìm một tác nhân nào đó để giải tỏa, khi thì rượu, khi thì đàn bà. Anh quan hệ với Ngọc, một nhân viên trong nhà xuất bản, nhưng khơng có ý định tái hơn xây dựng mái ấm gia đình.

Người đàn ơng trong câu chuyện của bà chủ ở ngôi nhà ven rừng thì gây nên nỗi đau cùng lúc cho hai chị em gái. Ơng u cơ em nhưng lại có con với cơ chị và lấy cơ chị. Cô em gái đau khổ, trốn vào rừng ở, chôn vùi tuổi thanh xuân và xa lánh tất cả mọi người trong gia đình, đặc biệt là cắt đứt mối quan hệ với chị gái. Đến lúc chị gái chết cơ mới trở về nhìn mặt chị lần cuối. Cả thủ phạm, cả nạn nhân đều trải qua năm tháng sống trong sự hờn ghen, thù hận, hối lỗi. Ý nghĩa thiêng liêng của tình yêu, tình thân khơng cịn nữa.

ng Triều viết về hiện thực như nó vốn có nhưng đằng sau đó nhà văn muốn gợi lên bản chất của đời sống, một đời sống thường nhật không nhiều biến động xã hội sâu sắc nhưng nổi lên những vấn đề của trạng thái nhân sinh. Sự hoài nghi về lối sống và nhân tính con người. Sự mai một những giá trị sống căn bản, cốt lõi cần có ở mỗi người.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

2.2. Hiện thực mang đậm tính phi lí

Trong “Buồn nơn” J.P. Sartre khẳng định: Phi lí là chìa khóa của hiện sinh. Cuộc sống không chỉ tồn tại những điều hợp lí mà vơ vàn những cái bất thường không ngờ tới. Các nhà văn thể hiện cái phi lí thơng qua việc mơ tả hiện thực thiếu logic, trái với năng lực nhận thức của con người. Hiện thực phi lí mà Uông Triều muốn tái hiện là hiện thực mang tính bất định cả về khơng gian lẫn thời gian; đó cịn là hiện thực mang đậm màu sắc huyền thoại.

Hiện thực mang đậm tính phi lí được ng Triều diễn tả thơng qua việc xây dựng kiểu không gian và thời gian mang tính bất định. Khơng gian nghệ thuật là: “mơ hình thế giới độc lập có tính chủ quan và mang ý nghĩa tượng trưng của tác giả”. Thời gian nghệ thuật là: “thời gian mà ta có thể trải nghiệm được trong tác phẩm với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp điệu nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, hay quá khứ hay tương lai gắn với thời gian tâm lý” [1;68]. Không gian và thời gian trong tiểu thuyết Uông Triều khi gắn với mảng hiện thực mang màu sắc phi lí thể hiện cảm thức của nhà văn về đời sống hư vô, đánh mất ý nghĩa và tính trật tự. Đó có thể là khơng gian trong tâm trí với dịng suy tưởng, hồi niệm, giấc mơ. Đó có thể khơng gian khép kín, chật chội, tù đọng. Đó có thể là thời gian đánh mất chất tuyến tính, đứt gãy hoặc thời gian đồng hiện của các thì quá khứ, hiện tại và dự cảm tương lai.

Các nhà hiện sinh cho rằng, con người là hiện hữu mang sẵn cảm tính cơ đơn. Vì cơ đơn nên không gian tồn tại của nó thường là khơng gian căn phịng, hộp kín, kiểu khơng gian tượng trưng để giam hãm những tâm hồn cô đơn tuyệt vọng. Tiểu thuyết của Uông Triều chủ yếu là dạng không gian tượng trưng này. Phần lớn các nhân vật của anh, không kể lứa tuổi, nghề nghiệp, hoàn cảnh, ở nông thôn hay thành thị đều được sống trải trong kiểu không gian này.

Trước tiên, người viết đề cập đến không gian nơi công sở - khơng gian

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

mê cung. Đó là căn phòng làm của các biên tập viên, của các trưởng phòng, giám đốc, viện trưởng. Về cơ bản, họ là những nhân viên có năng lực nên được xếp vào phòng làm việc riêng với đầy đủ tiện nghi. Căn phòng ấy phù hợp để họ nếm trải và trưng bày trạng thái hoang mang tinh thần. Căn phịng ấy có thể ví như một mê cung. “Những cơng trình kiến trúc, thường là tưởng tượng, có nhiều cửa, nhiều lối đi phức tạp và khó phân biệt, đã đi vào trong thì khó tìm được lối ra”[34;628]. Khi ở trong phịng, B hay Mạo đều rơi vào trạng thái trầm cảm, u uất, hoan lạc cực độ và đau khổ cực độ khi làm việc cũng như làm tình. Họ càng cố gắng vùng vẫy càng lún sâu vào bế tắc. Căn phịng đó vơ hình đã trở thành chướng ngại vật trên hành trình sinh tồn đầy bi kịch của con người.

Việc đặc tả các phòng làm việc của các vị trưởng phòng, giám đốc nơi ông già từng làm việc cũng là kiểu khơng gian mê cung khơng lối thốt cho tình cảnh bi đát của ơng già trong tiểu thuyết Người mê. Theo lời giới thiệu của người quen, đầu tiên ông lên gặp trưởng phòng. “Căn phòng lớn hơn phòng của trưởng phòng cũ, cái bàn có màu sắc u tối. Căn phịng được nới rộng khơng gian vì thế mà nó trở nên mênh mông và lạnh lẽo hơn”[44;41]. Không gặp được trưởng phịng, ơng lên phịng giám đốc. Phịng của giám đốc ở tầng ba, phòng số 14, dịch sang trái một phòng. “Căn phòng rộng hơn phòng giám đốc cũ… tất cả các vật dụng, ánh sáng đều châu tuần vào một chỗ làm nổi bật người ở vị trí trung tâm”[44;46]. Vẫn chưa giải quyết được cơng việc. Ơng lên tiếp phòng vụ trưởng. Nơi làm việc của vụ trưởng là tòa nhà phức hợp mới xây, rẽ trái ba lần, rẽ phải bốn lần, phịng số 13. “Ơng mở cửa và gần như lóa mắt trước khơng gian cực lớn…Một tiếng nói phát ra. Anh cứ đi thẳng về phía trước, cứ nhìn thẳng, đừng cúi xuống, khi nào thấy cái bóng đèn đỏ ở trên đầu thì rẽ trái. Rồi lại đi thẳng, khi nào thấy cái bóng đèn xanh thì rẽ trái tiếp, khi gặp bóng đèn vàng thì rẽ phải, tơi ngồi cách cái bóng đèn vàng một qng”.[44;49]. Ơng biết gặp ai ở căn phòng nào để giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

quyết nguyện vọng của mình? Ơng vật lộn với vô vàn chỉ dẫn để bước vào và rất nhiều chỉ dẫn để bước ra. “Một tiếng cười vang như sấm, rồi một tiếng vọng tới. Anh thật thà quá, cấp trên của tôi không gặp anh được đâu. Anh về đi, nhớ nhé, đèn vàng, đèn xanh, đèn đỏ và ngược chiều ban đầu để khỏi lạc”[44;149]. Tác phẩm đưa người đọc vào một trận đồ bát quái, mở ra một hiện thực hỗn độn, rối rắm, bất định đang trải ra trước mắt. Không thể xác định tính cụ thể, rõ ràng của bất kì một địa điểm nào trong tác phẩm. Và đó là ý đồ nghệ thuật của nhà văn Uông Triều. “Ý tưởng về một tòa nhà được xây dựng để cho ai đó bị lạc vào trong nó là biểu tượng không thể tránh được của một tâm trạng rối bời” [16;29].

Tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả khơng gian gia đình – khơng gian cầm tù. Gia đình là nơi ấm áp, bình yên và điểm tựa vững vàng nhất để con người tìm về. Nhưng khơng gian trong tiểu thuyết của ng Triều có vẻ đi ngược với suy nghĩ đó bấy lâu nay. Căn nhà của nhân vật “tôi” trong Tưởng tượng và dấu vết giống như một nhà tù, giam hãm anh trong bốn bức tường và là nơi cả bố và mẹ anh trốn chạy. Đã lâu anh khơng thấy bố về nhà, mẹ thì đi cơng tác hay đi đâu đó thường xun vì bà cần ra khỏi nhà để thay đổi trạng thái. Căn buồng ngủ của hai vợ chồng lạnh lẽo vì họ đã lâu khơng quan hệ. “Đã lâu con không nghe thấy tiếng động cựa khoái cảm của bố mẹ trong phòng ngủ. Đã lâu rồi bố mẹ không làm chuyện ấy” [43;98]. Ngôi nhà của ông bố trong Người mê cũng là nơi giam lỏng thể xác và tâm hồn những người sống trong đó. Ông bố cô đơn hơn 40 năm, người chị dâu quẩn quanh công việc bếp núc, thèm khát những cảm xúc tươi mới. Ông anh trai ra khỏi nhà sau bữa sáng như cách chạy trốn không gian buồn tẻ. Căn nhà nhỏ trong rừng của bà chủ trọ là nơi giam hãm tâm hồn thương tổn và cách ly con người với gia đình. Căn nhà bố mẹ Ba để lại ở quê là nơi người chị gái sống cuộc đời thất bại vì cả công việc và hôn nhân. Những không gian rất hiện thực này đã được gắn với sự cô đơn, thiếu thốn hay bất hạnh. Không gian ẩn chứa một

</div>

×