Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 35 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b><small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI VIỆN KẾ TOÁN KIỂM TOÁN </small></b>
<small>---o0o--- </small>
<small> </small>
<b><small>BÀI THẢO LUẬN </small></b>
<b><small>HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH </small></b>
<b><small>ĐỀ TÀI: </small></b>
<b><small>PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN MỰC ,NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG. </small></b>
<b><small>LIÊN HỆ TỚI SỰ ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM </small></b>
<b><small> Nhóm thực hiện: Nhóm 6 Lớp học phần: 232_HCMI0111_21 Giáo viên hướng dẫn: Vũ Thị Thu Hà </small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">I.Các khái niệm...3
1.1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh...3
1.2 Định nghĩa đạo đức Cách mạng...3
1.3 Chuẩn mực đạo đức Cách mạng...3
II. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh...4
2.1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam...4
2.2 Tinh hoa văn hố nhân loại: phương Đơng và phương Tây...5
2.3 Chủ nghĩa Mác - Lênin...5
2.4 Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh...6
III. Vai trị đạo đức cách mạng theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh...6
<b>Chương 2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức cách mạng...7</b>
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng...7
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc đạo đức cách mạng...12
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>Chương 3: Liên hệ tới việc rèn luyện đạo đức cho thế hệ sinh viên Việt Nam...15</b>
1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào q trình rèn luyện đạo đức của thế hệ sinh viên hiện nay...15 1.1, Nhận thức của thế hệ sinh viên Việt Nam về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình rèn luyện đạo đức hiện nay...15 1.2 Đánh giá quá trình rèn luyện đạo đức cho thế hệ sinh viên Việt Nam...17
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b> </b>
<b> PHẦN MỞ ĐẦU </b>
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quan điểm của Người về những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức cách mạng là kim chỉ nam cho mỗi người trong quá trình rèn luyện, hồn thiện bản thân, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, khi đất nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ, bên cạnh những mặt tích cực cũng xuất hiện nhiều vấn đề tiêu cực như tham nhũng, lãng phí, suy thoái đạo đức... Do vậy, việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là quan điểm của Người về những chuẩn mực, ngun tắc đạo đức cách mạng, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Nghiên cứu đề tài góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, gương mẫu; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của đạo đức cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
<b> </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b> PHẦN NỘI DUNG</b>
<b>Chương 1: Những vấn đề cơ bản liên quan đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh I.Các khái niệm</b>
<b>1.1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh</b>
Theo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam(2011): “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dânchủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sángtạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kếthừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp dân tộc, tiếp thu tinh hoa vănhóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng, dân tộc ta,mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi
<b>1.2 Định nghĩa đạo đức Cách mạng</b>
Trong lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ và khái niệm “Đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa khái niệm “Đạo đức cách mạng” và phân tích nội dung bản chất cũng như các nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của đạo đức truyền thống Việt Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo đức phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng lên chủ nghĩa xã hội.
<b>1.3 Chuẩn mực đạo đức Cách mạng</b>
Chuẩn mực đạo đức cách mạng là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi cơng việc. Nhưng như vậy khơng có nghĩa Hồ Chí Minh tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng “có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng. Những chuẩn mực đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh quan niệm là:
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Hai là, cần, kiệm, liêm, chính.
Ba là, thương yêu con người, sống có tình nghĩa. Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.
<b>1.4 Nguyên tắc đạo đức Cách mạng</b>
Nguyên tắc đạo đức là tiêu chuẩn phổ quát quy định về các hành vi, phẩm chất mà một người, tập thể có đạo đức cần tuân theo. Từ những quan điểm về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh, các nguyên tắc trong rèn luyện đạo đức cách mạng được đúc kết như sau:
Một là, nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức. Hai là, xây đi đôi với chống.
Ba là, tu dưỡng đạo đức suốt đời.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>II. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh</b>
<b>2.1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam</b>
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đồn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” (4) .
<b>2.2 Tinh hoa văn hố nhân loại: phương Đơng và phương Tây</b>
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của văn hố phương Đơng. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn là những nhà Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của Người khơng phải là những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến, mà tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”, sự ham học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hồ nhã”, cách đối nhân xử thế “có lý, có tình”. Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai huynh đệ”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, phương châm “khắc kỷ phục lễ”,... của các nhà hiền triết phương Đơng được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong khi tiếp thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của nó.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)... Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hố phương Đơng phương Tây, nâng lên một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận mácxít - lêninnít.
<b>2.3 Chủ nghĩa Mác - Lênin</b>
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con dường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
<b>2.4 Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh</b>
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan.
Ngay từ khi cịn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hồi bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lịng nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình.
Tư chất thơng minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành những luận điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng như mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh mới chỉ được bắt đầu nghiên cứu, tuy vậy, đến nay đã có tới mấy chục khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại.
<b> III. Vai trị đạo đức cách mạng theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh</b>
Người coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Người từng nói “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì”. Đạo đức là sức mạnh của con người. Làm cách mạng là một việc lớn nên càng phải có sức mạnh. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Theo Hồ Chí Minh, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần, thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cũng khơng tiếc. Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Hồ Chí Minh chỉ rõ
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">"tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng".
Trên cơ sở xác định vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, Người yêu cầu mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức. Theo Người, yêu cầu đạo đức người cán bộ cần có là trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; thương u con người, sống có tình nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng. Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Xác định được vai trò to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
<b>Chương 2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực, nguyên tắc đạođức cách mạng.</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><b>1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng</b>
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sơng nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà khơng có đức là người vơ dụng nhưng có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Trung với nước, hiếu với dân Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư u thương con người, sống có tình nghĩa Tinh thần quốc tế trong sáng
<b>1.1. Trung với nước, hiếu với dân</b>
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đơng, xong có nội dung hạn hẹp. Trung với vua, hiếu với cha mẹ, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới, đạo đức cách mạng : Trung với nước hiếu với dân, đồng thời người đã loại bỏ đi những yếu tố hạn chế của đạo đức cũ.
- Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
- Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trịđạo đức cho mỗi người Việt Nam.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lịng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng. Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nội dung của hiếu với dân là:
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân
<b>1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư</b>
<b> Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính tuy nhiên</b>
ơng cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên phú”. Tuy nhiên, khi vận dụng những khái niệm này của đạo đức cũ Người lại cho rằng cần, kiệm, lêm, chính khơng phải do thiên phú mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên, cho nên Người đã khằng đinh: đạo đức cách mạng không phải tự trên trời sa xuống mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên.
Theo Người, cần, kiệm, lêm, chính là tứ đức khơng thể thiếu được đối với mỗi con người giống như trời có bốn mùa, đất có bốn phương
- Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
- Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; Không xa sỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi, theo Hồ Chí Minh Cần phải đi liền với Kiệm, cần mà khơng kiệm cũng giống như gió vào nhà trống, thùng không đáy, và một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">- Liêm là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của cơng và của dân; khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là: … cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, khơng dám làm là tham lạo. Cụ Khổng nói: người mà khơng liêm, khơng bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.”
- Chính là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc. + Đối với mình, khơng tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, ln kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
+ Đối với người, khơng nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết, khơng dối trá, lừa lọc.
+Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, khơng ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết: Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đơng
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính Thiếu một mùa thì khơng thành trời Thiếu một phương thì khơng thành đất Thiếu một đức thì khơng thành người.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính cịn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí cơng vơ tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hơm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí cơng vơ tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách : Giàu sang khơng quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.
<b>1.3 u thương con người, sống có tình nghĩa</b>
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình u thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con người. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau, trên ngun tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
Tình u thương con người cịn là tình u bạn bè, đồng chí, có thái độ tơn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
<b>1.4 Tinh thần quốc tế trong sáng </b>
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đồn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hồ bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
<b>2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc đạo đức cách mạng</b>
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng đạo đức cách mạng phải dựa trên ba nguyên tắc cơ bản:
<b>2.1. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức</b>
Theo Hồ Chí Minh, “nói đi đơi với làm” là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng nền đạo đức mới. Chúng ta biết, nói mà khơng làm là đặc tính của
</div>