Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Đề tài tìm hiểu phong cách ứng xử hồ chí minh liên hệ bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.99 MB, 34 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI</b>

<b>BÀI THẢO LUẬNĐỀ TÀI</b>

<b>TÌM HIỂU PHONG CÁCH ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH. LIÊN HỆ BẢN THÂN</b>

<b>HÀ NỘI, 2024</b>

<b>Môn học :Tư Tưởng Hồ Chí MinhGiảng viên hướng dẫn :Nguyễn Thị Lan PhươngNhóm thực hiện :07</b>

<b>Lớp học phần :232_HCMI0111_24 TTHCM</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>DANH SÁCH THÀNH VIÊN</b>

82 Ngơ Thị Thu Thảo Thuyết trình, nội dung mục 2.2

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU...4</b>

<b>CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỒ CHÍ MÍNH...5</b>

1.1. Xuất thân...5

1.2. Cơng việc và thành tựu...5

<b>CHƯƠNG II: TÌM HIỂU PHONG CÁCH ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH...10</b>

2.1. Tính kiên nhẫn và sự nhẫn nại...10

2.2. Tính tận tụy và trách nhiệm cao...14

2.4. Tính hồ nhã và tơn trọng đối với người khác...18

2.5. Ý chí mạnh mẽ và quyết đốn trong hành động...21

<b>CHƯƠNG III: LIÊN HỆ BẢN THÂN...26</b>

3.1. Phản ánh về những phẩm chất tích cực có thể học hỏi từ phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh...26

3.2. Áp dụng các giá trị và bài học từ Hồ Chí Minh vào cuộc sống hàng ngày...28

3.3. Tầm quan trọng của việc thực hành những giá trị này trong mối quan hệ xã hội và sự nghiệp...30

<b>KẾT LUẬN...34</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là biểu tượng sáng ngời về ý chí, nghị lực và sự rèn luyện vượt qua mọi gian lao, thử thách; nêu cao bản lĩnh cách mạng, tuyệt đối trung thành và kiên định với lý tưởng của Đảng; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; cần kiệm, liêm chính, chí cơng vô tư, sống giản dị, gần gũi, thương yêu và quý trọng nhân dân. Người là hiện thân của tinh thần nhân ái của dân tộc Việt Nam, là biểu tượng của đạo đức cộng sản cao đẹp, trong sáng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác, dân tộc ta đã tự giải phóng mình và giành độc lập, thống nhất non sông, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay, dưới thời đại Hồ Chí Minh, Đảng ta đã quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc đưa đất nước không ngừng phát triển, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Ý Đảng hợp lịng dân góp phần tạo thế và lực cho đất nước vững bước đi lên.

Bài thảo luận của nhóm sẽ đi sâu vào Tìm hiểu phong cách ứng xử Hồ Chí Minh và từ đó rút ra những phẩm chất cao đẹp của Bác mà sinh viên nói riêng và người dân Việt Nam nói chung cần học tập và noi theo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỒ CHÍ MÍNH1.1. Xuất thân </b>

Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên Nguyễn Ái Quốc). Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nhà nho u nước, tại làng Hồng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nhắc đến Nghệ An là nhắc đến vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước, nơi đây đã sinh ra biết bao người con ưu tú cho dân tộc như cụ Phan Bội Châu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong. Sinh ra trong hồn cảnh xã hơi đặc biệt khi đất nước mất đi nền độc lập, trở thành thuộc đia của Pháp đồng thời bác sinh ra trong gia đình nhà nho yêu nước, sự giáo dục từ gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến người ngay từ thời niên thiếu Cha là Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), mẹ là Hồng Thị Loan (1868-1901), có một người chị là Nguyễn Thị Thanh (sinh năm 1884), một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (sinh năm 1888, tự Tấn Đạt, còn gọi là Cả Khiêm), và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901).

Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy tình thương của gia đình, đặc biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường Dục Thanh. Tháng 02/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gịn.

<b>1.2. Cơng việc và thành tựu của HCM gắn liền với quá trình đấu tranh giành độclập của dân tộc Việt Nam</b>

Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân Việt Nam kính trọng, tơn vinh và được thế giới biết đến là vị anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới Người là hiện thân của một cá nhân yêu nước kiệt xuất, sinh ra trong lòng dân tộc và tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ nhất của thời đại

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

để định hướng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ vang, tạo ra những thành tựu mang tính bước ngoặt lịch sử.

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đơ hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của mình, Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân, sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Với ý chí và quyết tâm đó, ngày 5/6/1911, Người đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc bởi các con đường cũ đã khơng cịn phù hợp. Ba mươi năm bơn ba khắp thế giới của Người thật sự là một hành trình vĩ đại. Lĩnh hội được chủ nghĩa Mác – Lênin và qua nhiều năm tìm hiểu các phong trào cách mạng thế giới, Người xác định rằng chỉ có cách mạng vơ sản, là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người kiên định đi theo con đường giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng vào công cuộc đấu tranh của nhân dân ta một cách rất tự nhiên nhưng vô cùng phù hợp. Khi nhiều tầng lớp nhân dân vẫn chưa hiểu được xã hội chủ nghĩa là gì và vẫn đang bế tắc, cam chịu số phận nô lệ dưới chế độ thực dân, phong kiến; khi nhiều phong trào đấu tranh vẫn chưa có hướng đi phù hợp thì sự xuất hiện của lãnh tụ Hồ Chí Minh và con đường mà Người tìm ra đã làm thay đổi tất cả. Từ việc xây dựng lực lượng cách mạng, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, xác định nhiệm vụ căn bản, chiến lược và đề ra đường lối đấu tranh đến khi tiến hành cách mạng thắng lợi, xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh như người đạo diễn tài ba đoán định, sắp xếp và lãnh đạo thực hiện một cách hoàn hảo.

Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1911, khi vừa tròn 21 tuổi, từ bến Cảng Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành tạm biệt quê hương yêu dấu đi tìm đường cứu nước. Sau hơn nửa thập kỷ tìm tịi, nghiên cứu, Người đã đến với ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917). Đến năm 1920, khi đọc Sơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã thấy được cốt lõi trong tư tưởng của Lênin về đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, từ đó tìm ra con đường giành độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Người khẳng định “chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành cơng”.

Ngay sau khi tìm ra hướng đi, Người tích cực chuẩn bị đầy đủ các yếu tố về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc ra đời Ðảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1921 đến cuối năm 1924, Người chủ yếu chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng thơng qua việc tập trung truyền bá lý luận Mác-Lênin vào giai cấp cơng nhân và các tầng lớp trí thức u nước. Từ năm 1925 trở đi, Người bắt đầu xây dựng tổ chức. Trước hết, Người thành lập một tổ chức tiền thân của Ðảng Cộng sản, đó là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn. Tiếp đến, Người mở lớp huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Những cán bộ này sau khi nắm được những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, trở về nước, thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thực hiện "vô sản hóa". Nhờ thấm nhuần tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời đại, phong trào công nhân đã chuyển dần từ "tự phát" sang "tự giác", đặc biệt, giai cấp công nhân đã giác ngộ về sự cần thiết phải có Ðảng Cộng sản lãnh đạo.

Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào cơng nhân, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.

Mùa Xuân năm 1930, bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đã tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Ðảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt trọng đại cho cách mạng Việt Nam. Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới về sau trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tập hợp, quy tụ được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Đồn kết thật sự là sức mạnh lớn nhất của dân tộc Việt Nam và đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Người khẳng định đoàn kết là lực lượng mạnh nhất, là sức mạnh vô địch, là lực lượng then chốt của thành công. Nếu như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào yêu nước đương thời chưa tập hợp được lực lượng xã hội đông đảo và sớm dẫn đến thất bại thì Hồ Chí Minh đã cho thấy khả năng quy tập quần chúng một cách tài tình. Trên nền tảng liên minh công – nông, Người chỉ rõ rằng lực lượng đại đoàn kết dân tộc gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc, các tôn giáo, … sống trên lãnh thổ Việt Nam. Chính quan điểm tập hợp lực lượng rộng rãi, vừa có tính chọn lọc, vừa tận dụng tối đa nguồn lực con người của đất nước đã tạo nên một lực lượng quần chúng lớn mạnh để đưa phong trào cách mạng dù trải qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh thì cuối cùng vẫn đạt được thắng lợi. Trong lịch sử dân tộc, chưa một cá nhân nào có thể tập hợp được sự ủng hộ rộng rãi, kết tụ được tình cảm của quần chúng như chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ tư Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp lãnh đạo, dẫn dắt toàn Đảng,, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc.

Sau gần 30 năm bơn ba nước ngồi, Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo cách mạng cả nước. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, sức mạnh để chèo lái con thuyền cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Tận dụng những điều kiện thuận lợi, Trung ương Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, đã lãnh đạo nhân dân vượt qua bao khó khắn để đánh đuổi thực dân pháp và đế quốc Mỹ ra khỏi lãnh thổ, giành lại độc lập, thống nhất bắc nam Trong bối cảnh chiến tranh thế giới lần thứ II (1939-1945) đang diễn biến theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, cơng tác xây dựng lực lượng cách mạng, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra sơi nổi. Đến tháng 8/1945, nhận thức rõ thời cơ đã đến, chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nghĩa. Đáp lại lời kêu gọi đó, tồn thể nhân dân ta trên khắp mọi miền đã đồng loạt đứng lên khởi nghĩa và thắng lợi rực rỡ.

Sau khi nước ta giành được độc lập (1945), Pháp ngay lập tức quay trở lại xâm lược nước ta. Ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến để vận động toàn dân đứng lên đánh Pháp. Người lựa chọn chiến khu Việt Bắc làm căn cứ địa cách mạng, tại đây, Người tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện lực lượng và trực tiếp lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta trong 9 năm kháng chiến chống Pháp để giành thắng lợi cuối cùng bằng Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (ngày 07/5/1954). Theo Hiệp định Geneva, Việt Nam sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất trong năm 1956, nhưng Mỹ âm mưu chia cắt nước ta khi bảo hộ cho việc lập chính quyền tay sai ở miền Nam, ngang nhiên phá vỡ Hiệp định. Nhân dân ta lại tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Trong thời gian này, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo đường lối kháng chiến, xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh để chi viện nhân lực, tài lực, vật lực cho miền Nam. Dù đến cuối đời, Người vẫn chưa kịp chứng kiến miền Nam giải phóng, đất nước hoàn toàn độc lập, giang sơn thu về một mối, nhưng những tư tưởng lúc sinh thời và những lời gửi gắm mà Người để lại trong Di chúc thật sự là ngọn đèn sáng và nguồn động lực lớn lao để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>CHƯƠNG II: TÌM HIỂU PHONG CÁCH ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH2.1. Tính kiên nhẫn và sự nhẫn nại.</b>

Kiên nhẫn (hay nhẫn nại) là trạng thái của sự chịu đựng trong những hoàn cảnh khó khăn, có nghĩa là kiên trì đối mặt với sự chậm trễ hoặc hành động khiêu khích mà khơng biểu hiện sự khó chịu hoặc giận dữ một cách tiêu cực; hoặc kiên nhẫn khi gặp căng thẳng, đặc biệt khi đối mặt với sự khó khăn lâu dài. Kiên nhẫn là mức độ một người có thể chịu dựng trước khi chuyển biến tiêu cực. Từ này cũng được dùng để chỉ những người có đặc điểm kiên định.

Nhắc đến tính kiên nhẫn, Bác Hồ là một tấm gương sáng ngời để chúng ta noi theo. Sinh ra trong thời kỳ đất nước bị đô hộ, Bác Hồ mang trong mình ý chí mãnh liệt để ra tìm con đường cứu nước. Năm 1911 tại Bến cảng Nhà Rồng, chàng thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã lên đường sang Pháp để học hỏi những điều được coi là tinh hoa của nước bạn. Hành trình 30 năm kiên trì tìm đường cứu nước, với nghị lực mạnh mẽ, phi thường, Bác Hồ đã tự kiếm sống bằng nhiều nghề, tự học hỏi nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lê nin và đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Cũng nhờ tính kiên định, kiên nhẫn và sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ, dân tộc ta đã đánh thắng hai kẻ thù lớn và giành độc lập.

Giáo sư Vũ Trọng Khánh trong cuốn “Văn hóa gia đình Việt Nam” cho rằng: “Nhẫn là một quan niệm triết học hẳn hoi. Được võ trang bằng chữ nhẫn, con người có thể có một sức mạnh tinh thần, sẵn sàng đối phó với bao thách đố, và tin tưởng vào tương lai. Biết nhẫn, là tạo cho mình cái tính: dũng cảm và bình tĩnh. Biết nhẫn là phải có tình, cái tình sâu sắc mà chân thành hơn bao giờ hết...Trong đấu tranh cách mạng, không biết nhẫn, khơng tạo ra được thời cơ và khơng đối phó được với bao nguy cơ dồn dập”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gưong sinh động về thực hành chữ nhẫn- đây cũng là yếu tố làm nên cốt cách, đạo đức của Người và “Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh”.

Từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi cịn bơn ba hoạt động cách mạng ở nước ngồi, tại lớp huấn luyện chính trị ở thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc - nơi đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc ấy lấy bí danh là Lý Thuỵ) đã có bài giảng về "Tư cách một người cách mệnh", nêu lên

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

những đức tính cần phải có của một người cách mạng, trong đó có đức tính “nhẫn nại (chịu khó)”.

Khơng dừng lại ở lời nói, bài giảng, trên thực tế, đức tính nhẫn nại ln theo suốt Người trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú hơn 60 năm của mình.

Trong những năm tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và giải đi khắp 13 huyện và khoảng 30 nhà giam ở Quảng Tây, Trung Quốc (từ 29/8/1942 đến 10/9/1943), khổ ải, đọa đày của chốn lao lung không hề khuất phục được ý chí sắt đá của người tù vĩ đại. Yếu tố làm nên chất người cộng sản Hồ Chí Minh khơng gì khác chính là sự nhẫn nại, thái độ dũng cảm đối mặt và lòng quyết tâm vượt lên trên mọi hồn cảnh éo le:

Sở dĩ Hồ Chí Minh thực hành thành cơng chữ nhẫn, trước hết vì Người có trí tuệ mẫn tiệp và tầm nhìn xa trơng rộng, thấy trước được “thiên cơ”, nắm vững quy luật tất yếu khách quan của lịch sử: “Sự vật vần xoay đà định sẵn. / Hết mưa là nắng hửng lên thôi. /… Hết khổ là vui vốn lẽ đời” (Nhật ký trong tù).

Sau Cách mạng Tháng Tám, nền độc lập còn non trẻ của nước nhà đứng trước thử thách nghiêm trọng bởi nạn thù trong, giặc ngồi, tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”. Thế nhưng, vị Cha già dân tộc không hề nao núng, rất khôn khéo, thận trọng trong từng đường đi, nước bước. Người xác định cho tồn Đảng, tồn dân: “Chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục khơng phải là khuất phục”. Trong cuốn “Nhớ gì ghi nấy”, nhà văn Nguyễn Công Hoan cho hay: Trước ngày ngày 6/1/1946, ngày Tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta, nhiều thế lực phản động, thù địch chống phá ta. Chúng tổ chức biểu tình tại số nhà 80 - Quán Thánh, Hà Nội,

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

đồng thời khơng tham gia ứng cử. Ơng Trần Huy Liệu (lúc này là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời) cáu lắm, chủ trương trị chúng. Cụ Hồ bảo: “Kệ nó, thế nào nó khơng xin được có ghế trong Quốc hội?”, Trần Huy Liệu khơng tin. Cụ Hồ ôn tồn: “Nào, tôi đánh cược với chú?”. Quả nhiên, sau đó, bọn Việt Quốc xin 50 ghế và Việt cách 20 ghế (không phải qua bầu cử). Cụ Hồ hỏi ông Trần Huy Liệu: “Nào, chú đã thua cuộc chưa?”. Trần Huy Liệu thưa: “Vâng, xin chịu thua. Bởi vì tơi khơng ngờ là chúng nó bần tiện đến thế!”

Ngày 28/02/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết, theo đó Tưởng nhường cho Pháp được đưa quân ra miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi kinh tế, chính trị ở Trung Quốc. Sau khi ký kết, quân Tưởng không chịu về nước mà vẫn cố tình ở lại nước ta tranh thủ vơ vét. Quân Pháp do lực lượng có hạn nên muốn đàm phán với ta để được hòa bình đem qn ra miền Bắc. Trong khi đó, bọn tay sai của Tưởng (Việt quốc, Việt cách) lại ra sức kích động, ngăn cản ta đàm phán với Pháp, âm mưu đẩy ta vào cuộc chiến tranh quá sớm khi lực lượng chưa chuẩn bị xong. Cách mạng Việt Nam đứng trước một tình thế hiểm nghèo, nhân dân Việt Nam đứng trước sự lựa chọn giữa một trong hai con đường: đánh hay là hòa với Pháp.

Với cái tâm trong sáng (một lịng vì nước, vì dân) và lịng dũng cảm, Đảng, Chính phủ ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, quyết định nhân nhượng nhưng có tính ngun tắc: “Hịa để tiến”. Ngày 6/3/1946, Hiệp định sơ bộ giữa Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa với chính phủ Cộng hịa Pháp (đại diện là Xanh -tơ-nuy) đã được ký kết. Nhân cơ hội này, bọn phản động trong nước điên cuồng bôi nhọ, vu cho Bác và Chính phủ là “bán nước”, “phản bội lợi ích dân tộc”… Lịch sử sau này đã chứng minh hành động của Bác là cực kỳ sáng suốt và đúng đắn: Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 rõ ràng là bước đi ngoạn mục để đuổi 20 vạn quân Tàu Tưởng ra khỏi miền Bắc, tránh việc cùng một lúc ta cịn yếu phải đối phó với nhiều kẻ thù; buộc Chính phủ Pháp phải cơng nhận trên pháp lý Việt Nam là một quốc gia tự do; kéo dài thêm một thời gian hịa bình q báu để xây dựng lực lượng, chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài mà ta biết rằng sẽ không tránh khỏi; đồng thời, thể hiện thiện chí hịa bình của ta, tranh thủ thêm sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới. Giáo sư Vũ Trọng Khánh nhận định rất xác đáng rằng: “Không biết nhẫn, Hồ Chí Minh khơng ký được Hiệp định mùng 6 tháng ba”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Tháng 5/1946, khi Hồ Chủ tịch sang Pháp đàm phán đã gửi gắm, dặn dò lại cho quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng một câu nổi tiếng: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Ý sâu xa của Bác là: cần vì cái chung mà tạm gác việc riêng, hãy vì cái đại cục mà bỏ qua cái tiểu tiết, phải đặt vận mệnh quốc gia, an ninh của dân tộc lên trên hết. Đó cũng là một biểu hiện sinh động của việc hiểu và vận dụng chữ nhẫn vào thời điểm đặc biệt của lịch sử nước nhà: Tính mục đích phải ln cứng rắn nhưng biện pháp để đạt mục đích phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo. Chính nhờ thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo này mà cụ Huỳnh và Chính phủ đã lãnh đạo giữ vững được chính quyền cách mạng cịn non trẻ, đập tan âm mưu đảo chính của bọn Việt gian phản động, tiêu biểu là khám phá và đưa ra ánh sáng vụ án phố Ôn Như Hầu.

Chữ “Nhẫn” được Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành không chỉ trong đấu tranh cách mạng mà cả trong quan hệ đồng chí, đồng bào. Các nhà nghiên cứu thống nhất đi đến nhận xét: Ở Hồ Chí Minh, nhẫn khơng phải là “Dĩ hịa vi q” mà là hình thức đấu tranh: đấu tranh thầm lặng, đấu tranh có lý, có tình để đi đến thắng lợi cuối cùng theo tinh thần: dùng sức tối thiểu mà giành thắng lợi tối đa.

Nhẫn là kết quả của sự kết hợp hài hòa và tuyệt vời giữa nhân và trí, giữa tình cảm nồng nàn và lý trí sáng suốt. Sinh thời, Thủ tướng Ấn Độ Nêru từng ca ngợi: Chủ tịch Hồ Chí Minh là “một lãnh tụ có sự hài hịa hiếm có giữa lịng khoan dung tột độ và ý chí kiên quyết nhất”. Có thể nêu ra đây một vài dẫn chứng. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong cuốn “Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” đã kể lại rằng: “Trong nhiều năm ở gần Hồ Chí Minh, khơng một trường hợp nào tơi thấy Bác bực tức ra mặt, làm tổn thương dù một thống qua người đồng chí của mình. Đây là điều đến bây giờ hồi tưởng lại tất cả, tôi lấy làm ngạc nhiên vô cùng. Về cá nhân tôi, tơi thấy cần phải nói ra đây một câu chuyện khiến cho đến bây giờ, sau nhiều thập kỷ, tôi vẫn còn xúc động. Đây là một lỗi lầm của tơi, có ảnh hưởng khơng hay đến một việc Bác dự định làm. Mặc dù vậy, Bác chỉ nói với tơi vỏn vẹn có một câu: “Chú làm hỏng việc”. Phải là một con người giàu lòng khoan dung, độ lượng mới có thể xử sự một cách nhân ái như vậy. Chính thái độ này là một bài học mãi mãi ghi sâu trong ký ức tôi”.

Đối với nhân dân cũng vậy. Bác luôn nhắc nhở phải dùng vận động, thuyết phục để đi đến thống nhất trong nội bộ. Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (đăng báo

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Cứu quốc số 255, ngày 1/6/1946), Bác khuyên: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn, dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc”. Ngay cả với những kẻ lầm đường lạc lối, Người vẫn chủ trương phải biết tha thứ, khoan dung, kiên trì cảm hóa: “Lấy lời khơn lẽ phải mà bày cho họ. Ai cũng có lịng u nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà qn nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe” (Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về, ngày 23/10/1946).

Hồ Chí Minh là tấm gương về tính kiên trì nhẫn nại mà ai cũng biết. Con người và cuộc đời hoạt động cách mạng không biết mệt mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì sự nghiệp cứu nước cứu dân, vì cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc cho cả dân tộc Việt Nam, mãi là bài học quí giá đối với mỗi người Việt Nam chúng ta.

Năm tháng đi qua, thời thế biến đổi song nội hàm của chữ nhẫn theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, thiết nghĩ vẫn ln có giá trị bất biến, xứng đáng là di sản tinh thần, là bài học quý báu trong quá trình nâng cao năng lực lãnh đạo và chiến đấu của Đảng, củng cố và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, đưa Tổ quốc ta vững bước đi tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu.

<b>2.2. Tính tận tụy và trách nhiệm cao</b>

Sự tận tụy và trách nhiệm của Bác được thể hiện trong suốt thời gian bôn ba hoạt động cách mạng, làm việc và lãnh đạo đất nước.

Suốt 30 năm đi tìm đường cứu nước, Bác đã phải làm đủ mọi nghề để sống nhưng Người ln hết lịng trong tất cả những cơng việc mình làm. Bên cạnh đó, Người vẫn tham gia hoạt động cách mạng sôi nổi, không ngại khó khăn thậm chí là nguy hiểm tính mạng để đứng lên đấu tranh cho giai cấp công nhân thế giới và cũng đấu tranh cho độc lập dân tộc Việt Nam.

Trong những năm kháng chiến gian khổ, dù trong những điều kiện cơ cực, thiếu thốn, Người vẫn luôn không ngừng làm việc, tổ chức lãnh đạo cách mạng bởi khát vọng “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” đã luôn đau đáu trong tim người lãnh tụ hết lòng tận tụy vì nước vì dân. Bác Hồ ln đặt lợi ích của đất nước và nhân dân lên hàng đầu, sẵn sàng hy sinh bản thân để bảo vệ tổ quốc. Người luôn thể hiện sự tận tụy và trung thành đối với mục tiêu cách mạng, từ việc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến cuộc chiến tranh chống Mỹ.

Trong những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch, phong cách làm việc của Người được thể hiện đậm nét và sâu sắc trong cách giải quyết công việc hàng ngày trên cương vị là Người đứng đầu Đảng và Nhà nước.

Theo lời kể của thư ký của Bác, một ngày làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu từ rất sớm: “Khi Đài tiếng nói Việt Nam mở nhạc hiệu thì Bác cũng bật đèn phịng ngủ. Bác làm suốt cả ngày, nhiều hôm đến tận đêm khuya”. Trong một ngày, Người giải quyết rất nhiều công việc từ tiếp cán bộ, tiếp khách ngoại giao, đi thăm cơ sở, họp Bộ Chính trị, nghiên cứu tài liệu, viết báo, viết thư ... với sự phân bổ thời gian hợp lý, khoa học đã giúp Người tiết kiệm nhiều thời gian và giải quyết hiệu quả một khối lượng công việc đồ sộ, phức tạp trên cương vị một người lãnh đạo đất nước. Người tiết kiệm và sử dụng thời gian một cách hợp lý tối đa cho cơng việc, Người thường bố trí thời gian tiếp cán bộ đến làm việc hoặc tiếp khách vào đầu các buổi sáng sớm để sau đó dành nhiều thời gian cho công việc. Làm việc với ngành nào, địa phương nào, Người cho mời các đồng chí phụ trách trực tiếp vấn đề đó đến họp bàn ngay, rất cụ thể và thiết thực, vừa tiết kiệm được thời gian. Người thường nhắc cán bộ phải luôn luôn biết quý trọng thời gian, phải làm việc đúng giờ và khơng nên lãng phí thời gian. Người tranh thủ thời gian từng giờ, từng phút cho công việc.

Là người có nhiều thời gian sống gần Bác, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận định: “Theo tôi biết... thật sự Bác khơng có ngày nghỉ và ngày nào cũng như ngày nào bao giờ cũng có chương trình làm việc với những giờ giấc rất nghiêm ngặt, mà Hồ Chí Minh là người gương mẫu trong việc tuân thủ kỷ luật đó. Có lẽ lúc nghỉ ngơi là lúc Bác gặp các cháu thiếu niên và nhi đồng, nhất là gặp đồng bào chiến sĩ miền Nam trong thời chống Mỹ, hoặc trong lúc xem phim vui tối thứ Bảy ở Phủ Chủ tịch cùng với bao con cháu các đồng chí làm việc ở chỗ Bác và một số cơ quan gần bên. Có khi, trong những buổi xem phim như vậy, Bác tiếp khách nước người hoặc Đại sứ các nước anh em”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Người quý trọng thời gian của mình bao nhiêu, thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Vì thế, hiếm khi để bất cứ ai phải đợi mình, đã hẹn là đến, đã hứa là làm, hẹn đồng chí nào giờ nào đến gặp, đến đúng giờ ấy là thấy Người đã chờ sẵn, hẹn cán bộ, quần chúng nào, dù khó khăn đến mấy cũng đến và đến đúng giờ. Có thể thấy, Người ln đặt mình ở mức kỷ luật cao, ở vị trí lãnh đạo, chính điều đó đã tạo nên cơng tác cán bộ có kỷ cương và làm việc hiệu quả.

Những quyết định của Bác Hồ ln được định hướng bởi ý chí cách mạng và tình u q hương, khơng ngần ngại đối mặt với mọi khó khăn và nguy hiểm. Tinh thần trách nhiệm và sự kiên định của Bác Hồ đã truyền cảm hứng cho những người lính và nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình kháng chiến, giúp họ vượt qua mọi thử thách và đánh bại kẻ thù, đem lại chiến thắng lịch sử cho đất nước.

<b>2.3. Sự khiêm tốn và đơn giản trong lối sống.</b>

Khiêm tốn, giản dị là một trong những đức tính quan trọng nhất của con người. Con người khiêm tốn là một con người hồn tồn biết mình, hiểu người, khơng tự mình đề cao vai trị, ca tụng chiến cơng của cá nhân mình cũng như khơng bao giờ chấp nhận một tinh thần chủ bại mang nhiều mặc cảm của cuộc đời đối với mọi người. Bác Hồ của chúng ta là một người khiêm tốn, thậm chí rất khiêm tốn. Giữ chức vụ cao nhất của Nhà nước ta, là một trong những lãnh tụ xuất sắc của phong trào cách mạng thế giới…, được ghi nhận là “Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất”, nhưng Người vẫn chỉ xem mình là một nhà cách mạng chuyên nghiệp phục vụ nhân dân với “ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Sự khiêm tốn của Hồ Chí Minh được tích lũy và rèn giũa trong suốt cuộc đời cách mạng; chính sự khiêm tốn đó khơng phải chỉ được mọi người yêu mến, kính trọng mà còn là một cách để Người học tập. Khi bắt đầu học viết báo, Người chăm chú học với ông Jean Longuet (1876 – 1938), Chủ nhiệm báo Populaire, cơ quan của Đảng Xã hội Pháp, cẩn thận làm theo yêu cầu của ông, tập viết những tin dài, rồi viết lại thành tin ngắn, viết xong đều có đối chiếu với bản được đăng báo để xem đã viết sai điều gì, có điều gì cần chỉnh sửa… Nhờ vậy mà Người đã trở thành một nhà báo vĩ đại với hàng ngàn tác phẩm, viết bằng nhiều thứ tiếng, đăng trên nhiều tờ báo trong và ngoài nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Dẫu là một nhà báo chuyên nghiệp, sắc sảo, nhưng Bác chỉ cho rằng mình “có ít nhiều kinh nghiệm làm báo” mà thôi… Ngay cả khi trở thành Chủ tịch nước, có khi viết xong một bài báo, Người còn đưa cho anh em bảo vệ, phục vụ để mọi người đọc xem có hiểu khơng, nếu chưa hiểu thì Người sẽ sửa lại…

Có thể thấy sự khiêm tốn của Bác Hồ đã len lỏi vào mọi khía cạnh trong con người Bác:

1. Khiêm tốn trong phong cách lãnh đạo: Bác Hồ luôn thể hiện sự khiêm tốn trong phong cách lãnh đạo của mình. Ơng không bao giờ tự cao tự đại hay tỏ ra là người quá cao cả. Thái độ này đã tạo ra một mơi trường làm việc tơn trọng, đồn kết và sự đồng thuận trong Đảng và nhân dân.

2. Tôn trọng mọi người: Bác Hồ luôn tôn trọng mọi người xung quanh, dù họ là ai và đến từ đâu. Ông coi trọng ý kiến và đề xuất của mọi người, không phân biệt giai cấp, địa vị hay tầm quan trọng xã hội.

3. Khiêm nhường trong lối sống: Bác Hồ sống một cuộc sống khiêm nhường và giản dị. Ông không quan tâm đến vật chất và luôn làm việc vì lợi ích của nhân dân và đất nước.

4. Nhìn nhận khuyết điểm của bản thân: Bác Hồ khơng ngừng tự đánh giá và nhìn nhận các khuyết điểm của bản thân mình. Ơng ln tìm cách cải thiện bản thân để phục vụ nhân dân một cách tốt nhất.

5. Giữ cho quyền lợi của mình ở phía sau: Bác Hồ luôn đặt quyền lợi của nhân dân và đất nước lên hàng đầu, thậm chí khi điều đó địi hỏi ơng phải hy sinh cá nhân của mình.

Khơng những thế để nhận xét về nếp sống của Bác giản dị, đơn sơ là chưa đủ. Bác có một lối sống thanh bạch, giản dị, đặc biệt là trong cách ở, cách ăn mặc của Bác. Là một vị Chủ tịch nước, lẽ ra Bác phải ở nhà cao sang trọng, đi xe hơi đời mới, mặc đồ vest… Bác của chúng ta thì khơng làm như vậy. Trang phục của Bác là đôi dép cao su, là những bộ ka ki đơn sơ, giản dị, Bác mặc đến hàng chục năm cho dù có phai màu, chỉ đã sờn, vải thì co lại nhưng Bác vẫn khơng bỏ mà chỉ yêu cầu chị giúp việc vá lại và xuống gấu hộ Bác để Bác mặc tiếp. Chính vì vậy, Bác của chúng ta “thường xuyên chỉ có 2 bộ quần áo mặc ngồi”. Cũng chính sự giản dị đó mà trong những chuyến đi

</div>

×