Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.39 MB, 115 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI... 19
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài ... 19
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ... 30
Tiểu kết Chương 1 ... 37
Chương 2. THỰC TRẠNG HÀNH VI ỨNG XỬ ĐỐI VỚI TIN GIẢ VỀ DỊCH BỆNH COVID-19 TRÊN MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ... 38
2.1. Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền phản ứng trước tin giả và đánh giá ảnh hưởng của tin giả Covid-19 trên mạng xã hội ... 38
2.2. Hành vi kiểm chứng thông tin Covid-19 trên mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền... 41
2.3. Hành vi tương tác với tin giả Covid-19 trên mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền... 46
2.4. Hành vi xử lý, kiểm soát tin giả Covid-19 trên mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền ... 49
Tiểu kết chương 2 ... 61
Chương 3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI ỨNG XỬ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ĐỐI VỚI TIN GIẢ VỀ DỊCH BỆNH COVID-19 TRÊN MẠNG XÃ HỘI ... 63
3.1. Đặc điểm cá nhân ảnh hưởng đến hành vi ứng xử trước tin giả Covid-19 trên mạng xã hội ... 63
3.2. Yếu tố sử dụng mạng xã hội và tiếp cận thông tin Covid-19 trên mạng xã hội ảnh hưởng đến hành vi ứng xử trước tin giả Covid-19 ... 76
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. Chọn mẫu phân tầng HVBCTT ... 15 Bảng 2.1. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của tin giả Covid-19 trên MXH ... 40 Bảng 3.1. Mối quan hệ giữa giới tính SV và các hoạt động khi tiếp cận thông tin Covid-19 trên MXH ... 64 Bảng 3.2. Mối tương quan giữa giới tính SV và hành vi tương tác với tin giả Covid-19 trên MXH ... 65 Bảng 3.3. ĐTB đánh giá số lượng có hành động ngăn chặn tin giả Covid-19 phân tích theo giới tính SV ... 66 Bảng 3.4. Mối quan hệ giữa giới tính SV với lý do không ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH ... 67 Bảng 3.9. Mối quan hệ giữa hai kênh thông tin Covid-19 SV thường tiếp cận trên MXH với loại hành động ngăn chặn tin giả ... 80 Bảng 1.1. Mức độ phổ biến các nội dung tin giả Covid-19 trên MXH ... 107 Bảng 3.5. ĐTB đánh giá mức độ cần thiết của các hoạt động kiểm soát lan truyền tin giả trên MXH phân tích theo đặc điểm năng động của SV ... 108 Bảng 3.6. ĐTB thường xuyên tiếp cận tin giả Covid-19 phân tích theo số lượng MXH SV sở hữu ... 108 Bảng 3.7. ĐTB đánh giá ảnh hưởng của tin giả và sự sẵn sàng cơng khai đính chính tin giả phân tích theo mức độ tiếp cận tin giả Covid-19 của SV ... 108 Bảng 3.8. ĐTB đánh giá mức độ cần thiết của các hoạt động kiểm soát lan truyền tin giả trên MXH phân tích theo mức độ tiếp cận tin giả Covid-19 ... 109
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, MƠ HÌNH
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ năm học HVBCTT ... 31
Biểu đồ 1.2. Kênh tiếp cận thông tin Covid-19 trên MXH của SV ... 32
Biểu đồ 1.3. Tần suất các MXH lan truyền tin giả Covid-19 ... 33
Biểu đồ 1.4. Nguyên nhân xuất hiện tin giả Covid-19 trên MXH ... 36
Biểu đồ 2.1. Phản ứng của SV trước tin giả Covid-19 trên MXH ... 38
Biểu đồ 2.2. Hành vi khi tiếp cận thông tin Covid-19 trên MXH của SV ... 42
Biểu đồ 2.3. Nguồn kiểm chứng thông tin Covid-19 của SV ... 43
Biểu đồ 2.4. Lý do SV không kiểm tra thông tin Covid-19 trên MXH ... 44
Biểu đồ 2.5. Mối quan hệ giữa phản ứng trước tin giả và hành vi kiểm chứng thông tin Covid-19 trên MXH của SV ... 45
Biểu đồ 2.6. Tỷ lệ tương tác với tin giả Covid-19 của SV ... 46
Biểu đồ 2.7. Hình thức tương tác với tin giả Covid-19 của SV ... 47
Biểu đồ 2.8. Phản ứng của bạn bè khi SV tương tác với tin giả Covid-19 ... 49
Biểu đồ 2.9. Tỷ lệ ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH của SV ... 50
Biểu đồ 2.10. Lý do không ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH của SV ... 51
Biểu đồ 2.11. Hành động ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH của SV ... 53
Biểu đồ 2.12. Lý do ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH của SV ... 55
Biểu đồ 2.13. Tần suất số điểm SV đánh giá sẵn sàng tham gia ngăn chặn tin giả Covid-19 công khai trên MXH ... 57
Biểu đồ 2.14. Mối quan hệ SV tham gia ngăn chặn tin giả và hành động sẵn sàng cơng khai đính chính tin giả Covid-19 trên MXH ... 57
Biểu đồ 2.15. Mức độ quan trọng của các hoạt động kiểm soát sự lan truyền tin giả Covid-19 theo SV ... 58
Biểu đồ 3.1. ĐTB số lượng các hành động ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH phân theo khối học của SV ... 68
Biểu đồ 3.2. Mối quan hệ giữa năm học và phản ứng trước tin giả Covid-19 trên MXH của SV ... 70
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Biểu đồ 3.3. Mối quan hệ giữa đặc điểm tham gia chức vụ/tổ chức và phản ứng trước tin giả Covid-19 trên MXH của SV ... 71 Mơ hình 3.1. Hồi quy đơn biến mối quan hệ giữa sự tham gia chức vụ/tổ chức của SV và hành động ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH ... 72 Biểu đồ 3.4. Tương quan đặc điểm tham gia cơng tác phịng chống dịch của SV với hành vi kiểm chứng và ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH ... 74 Biểu đồ 3.5. Tương quan giữa dặc điểm cần trì hỗn/thận trọng tiêm vaccine và hành vi tương tác với tin giả Covid-19 trên MXH ... 75 Biểu đồ 3.6. Tương quan giữa dặc điểm liên quan đến F0 và hành vi cảnh báo tin giả Covid-19 trong các nhóm trên MXH của SV ... 76 Biểu đồ 3.7. Mối quan hệ giữa số lượng MXH sở hữu và phản ứng trước tin giả Covid-19 của SV ... 77 Biểu đồ 3.8. Mối quan hệ giữa số lượng bạn bè trên MXH và 2 chỉ báo về hành vi tương tác, lý do không ngăn chặn tin giả Covid-19 của SV ... 78 Biểu đồ 3.9. Mối quan hệ giữa mức độ tiếp cận tin giả với hành vi đã từng tương tác với tin giả Covid-19 trên MXH của SV ... 79
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết
Phát biểu tại Hội nghị An ninh Munich vào ngày 15/02/2020, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới – Tiến sĩ Tedros Adhanom Ghebreyesus đã ghi nhận một trong những cuộc chiến song song cùng với đại dịch Covid-19 là chống lại thông tin sai lệch và thiếu thơng tin. Ơng thừa nhận, “Chúng ta không chỉ chiến đấu với dịch bệnh, chúng ta cịn đang chiến đấu với bệnh dịch về thơng tin. Tin tức giả mạo lan truyền nhanh, dễ dàng hơn virus và nguy hiểm không kém” [89]. Khủng hoảng Covid-19 lan rộng đã khiến gia tăng hiểm họa về “nạn dịch thông tin” (infodemic) không khác một căn bệnh truyền nhiễm, cản trở hiệu quả trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Ảnh hưởng ở phạm vi toàn cầu, Covid-19 trở thành chủ đề được quan tâm hàng đầu, điển hình như ngày 11/03/2020 có tới 19 triệu lượt truy cập trên các phương tiện truyền thông xã hội, trang web tin tức liên quan đến Covid-19 chỉ trong 24 giờ kể từ khi Mỹ xuất hiện trường hợp nhiễm bệnh trong cộng đồng đầu tiên [83]. Còn tại Việt Nam, sau khi ca nhiễm Covid-19 đầu tiên được phát hiện vào ngày 23/01/2020, xu hướng tìm kiếm trên các web chứa từ “corona” đạt đỉnh và khơng có dấu hiệu hạ nhiệt trong suốt 7 ngày sau đó [11]. Chính trong bối cảnh khủng hoảng thơng tin như vậy, tin giả có cơ hội lan rộng khắp thế giới, đặc biệt trên các trang mạng xã hội (MXH).
Trong cuốn “Likeable social media” (Phương tiện truyền thông xã hội thú vị), Dave Kerpen (2011) có viết: “Bạn có thể cập nhật trạng thái trên Facebook và chỉ với một cú nhấp chuột, bạn đã chia sẻ một câu chuyện hay một thông tin tới hàng trăm hoặc nghìn người. Bản chất không khác so với 5 năm trước nhưng về tốc độ và quy mô khán giả mà bạn phổ biến thông tin là tăng lên rất nhiều” [58, tr.153-163]. Năm 2022 có tới 4,62 tỷ người dùng MXH trên khắp thế giới, bằng 58,4% tổng dân số, tăng hơn 10% trong 12 tháng qua [69]. Điều này càng khẳng định “tiềm năng” của MXH trong việc lan truyền, đưa tin giả tiếp cận tới nhiều người, nhiều nơi nhưng chỉ trong một thời điểm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Hơn hai năm qua, mặc dù chưa có thống kê chính xác số lượng tin giả Covid-19 xuất hiện trên MXH nhưng chỉ trong những tháng đầu năm 2020 – thời điểm dịch bệnh bắt đầu bùng phát ở nước ta, cơ quan chức năng đã phải xử lý hơn 300 đối tượng trong nước tung tin giả về Covid-19 trên không gian mạng [81]. Việt Nam không chỉ đảm bảo hiệu quả cơng tác phịng chống dịch về mặt y tế, sức khỏe mà còn phải ứng phó và tăng cường nguồn thơng tin chính xác, kịp thời đến người dân. Những hành vi ứng xử tích cực của cơng chúng trước tin giả Covid-19 sẽ là liều “vaccine” hữu hiệu, hạn chế sự lan truyền mạnh mẽ của tin giả trên MXH, bởi đây là kênh thông tin được đông đảo công chúng đón nhận, đặc biệt là nhóm thanh niên.
Một mặt, được đánh giá là thế hệ trẻ năng động, đầy nhiệt huyết, dễ dàng tiếp thu cái mới; mặt khác GS.TS. Đặng Cảnh Khanh còn coi thanh niên là đối tượng “nhạy cảm, ít kinh nghiệm và dễ bị kích động, sa ngã trong việc tiếp nhận truyền thông” [21, tr.252]. Thanh niên Việt Nam là đối tượng chiếm ưu thế tại “thị trường” tiêu thụ thông tin của các trang MXH với 74% có mặt ở khắp mọi nơi và tích cực sử dụng từ 4 nền tảng trở lên [56] nhưng tình trạng tin giả trên khơng gian mạng tiềm ẩn nguy cơ khiến họ có thể trở thành nạn nhân, thậm chí là thủ phạm tung tin giả. Trước thực trạng này, tác giả cho rằng việc nghiên cứu sự tiếp cận, ứng xử với tin giả Covid-19 của đối tượng thanh niên rất cấp thiết.
Là một phần của thế hệ thanh niên ngày nay, sinh viên (SV) Học viện Báo chí và Tuyên truyền (HVBCTT) được kỳ vọng có một lối ứng xử văn minh, tỉnh táo đánh giá các vấn đề xã hội; đặc biệt khi Học viện nổi bật với chức năng đào tạo và bồi dưỡng về lý luận chính trị, tuyên giáo, xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, tuyên truyền, báo chí, truyền thơng, là cơ sở nghiên cứu khoa học về lý luận,... [77]. Chính các lý do trên đặt ra yêu cầu nghiên cứu khoa học về “Hành vi ứng xử của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền đối với tin giả về dịch bệnh Covid-19 trên mạng xã hội hiện nay” nhằm tìm hiểu và phân tích rõ ứng xử của người học trước vấn nạn tin giả trong bối cảnh “đại dịch thơng tin”, góp phần nâng cao ứng xử tích cực của SV trước tin giả trên MXH và truyền thông dịch bệnh hiệu quả.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Hướng nghiên cứu về sử dụng mạng xã hội và tiếp cận thông tin dịch bệnh Covid-19 trên mạng xã hội
2.1.1. Thực trạng sử dụng mạng xã hội
78,1% là tỷ lệ người dùng MXH tại Việt Nam vào đầu năm 2022 so với tổng dân số [70], các năm qua nước ta và cả thế giới chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc của MXH về số lượng tham gia. Điều này rõ ràng được khẳng định từ nghiên cứu khoa học tới thực tiễn. Trong đó, nghiên cứu “Thực trạng sử dụng mạng xã hội trực tuyến và một số gợi ý về chính sách” thuộc đề tài cấp Bộ cơng bố năm 2015 đã chỉ ra: Facebook là MXH được sử dụng nhiều nhất (98,2%), 23,1% người trả lời (NTL) sử dụng ít nhất 2 MXH và 76,4% người được hỏi truy cập MXH hàng ngày. Mục đích của việc truy cập các trang MXH chủ yếu là cập nhật thông tin về đời sống của bạn bè (70,6%) và chia sẻ thông tin của bản thân với mọi người (36,2%) [1].
Cũng dựa trên kết quả đề tài trên, bài viết “Mạng xã hội trực tuyến của giới trẻ đô thị hiện nay” tập trung phân tích thực trạng mạng lưới quan hệ xã hội trên MXH: giới trẻ tham gia nhiều nhất là nhóm bạn bè cùng lớp/cùng trường (88,3%); tiếp đến là các nhóm cùng sở thích du lịch, giải trí (57,7%),... và khơng hạn chế số lượng nhóm/hội để thỏa mãn lợi ích. Các hình thức tương tác like, comment như một cách thể hiện thái độ, sự quan tâm về vấn đề nào đó, chỉ 2,2% không bao giờ ấn nút like hay comment. MXH đã giúp giới trẻ hình thành một mạng lưới quan hệ xã hội để tương tác, vsở hữu và thể hiện trong các mạng lưới trên MXH sẽ tác động đến q trình tiếp cận thơng tin của người dùng [2].
Hay đề tài “Thực trạng và các yếu tố tác động đến việc khai thác và sử dụng thông tin trên mạng xã hội của sinh viên Hà Nội hiện nay” năm 2017 đã làm rõ sự tiếp cận MXH của SV, trong đó giải trí là chủ đề thu hút nhất, tương ứng mục đích sử dụng chiếm 75,6%. Đặc biệt, tỷ lệ SV sử dụng MXH để tiếp cận thơng tin thay vì sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng khá lớn. Đối với các thông tin về văn hóa, thể thao, xã hội, tỷ lệ tiếp cận qua MXH xấp xỉ ngang bằng với các phương tiện truyền thông đại chúng (lần lượt 48% và 52%).
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Tuy vậy, thông tin chia sẻ trên MXH chưa được SV thực sự tin tưởng như truyền thông đại chúng [30].
Ở quy mơ tồn quốc, tài liệu “Nghiên cứu Thế hệ trẻ Việt Nam” (2020) khẳng định MXH trở thành không gian ảo để tương tác, kết nối và là nguồn thông tin lựa chọn cho các nhu cầu của giới trẻ [24, tr.18-20].
Cập nhật mới nhất là báo cáo “Digital 2022” của Việt Nam ghi nhận 76,95 triệu người dùng MXH, tương đương 78,1% tổng dân số, gia tăng tới 5 triệu người trong vòng một năm qua. Lý do lớn nhất sử dụng MXH là giữ liên lạc với bạn bè, gia đình (62,2%), đơn giản do 50,2% chủ yếu theo dõi bạn bè, gia đình, những người họ quen biết; sau đó sử dụng MXH nhằm đọc các câu chuyện, tin tức mới (57,1%) [70].
2.1.2. Thực trạng thông tin về dịch Covid-19 trên mạng xã hội 2.1.2.1. Tiếp cận thông tin dịch Covid-19 trên mạng xã hội
MXH trở thành một trong những kênh truyền thơng giữ vai trị hình thành, lan tỏa thơng tin đại dịch Covid-19 đến với nhiều người khi số lượng tham gia tăng vượt bậc qua các năm. Do vậy, chủ đề về tiếp cận thông tin dịch Covid-19 trên MXH được quan tâm và tiến hành nghiên cứu ở nhiều quốc gia.
Một khám phá về nhóm SV Indonesia đã lựa chọn MXH là nguồn tìm kiếm thơng tin sức khỏe, y tế về đại dịch Covid-19 chủ yếu (78,3%) bởi dễ dàng truy cập, dễ hiểu và là kênh họ thường xuyên sử dụng. Hầu hết tìm kiếm vì tị mị về Covid-19 hay để cập nhật tin tức, quan tâm đến việc truyền nhiễm do Covid-19. Gần 1/2 người tham gia tin tưởng vào thông tin liên quan đến đại dịch trên MXH, số còn lại bày tỏ sự nghi ngờ và đã từng bắt gặp những thông tin không hợp lệ (62,8%) [85].
Tại Hoa Kỳ, 1003 người trưởng thành tham gia khảo sát về cách tiêu thụ thông tin y tế trong đại dịch cho thấy truyền thông xã hội trở thành nguồn thông tin y tế, sức khỏe chính cho người dân. Sự phụ thuộc vào MXH là khá lớn, 76% khẳng định dựa vào thông tin trên MXH để cập nhật về Covid-19, 59,2% đọc tin về Covid-19 trên MXH ít nhất một lần/tuần, 32,2% đọc mỗi ngày. Tuy vậy, chỉ có 1/3 tin tưởng vào tính chính xác của tin Covid-19 trên MXH [61].
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Hay cuộc điều tra trực tuyến tại tâm dịch Covid-19 đầu tiên – Vũ Hán, Trung Quốc báo cáo rằng 37,16% người dân tuổi trưởng thành và 33,2% chuyên gia y tế được khảo sát đã dành trên 2 giờ/ngày để xem tin tức dịch bệnh qua MXH, phân tích cũng nhấn mạnh mối liên hệ của việc xem tin Covid-19 trên MXH với chứng lo âu, trầm cảm gia tăng [71]. Tương tự với Irag, nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội tới sự hoảng loạn trong đại dịch chỉ ra, đa số người tham gia sử dụng Facebook để thu thập thông tin về Covid-19 (82,6%), 76,4% đã nghe/ xem/ đọc chủ đề về sức khỏe dưới sự tác động của khủng hoảng đại dịch [45].
Như vậy, có thể khẳng định mức độ tiếp cận tin tức qua MXH của công chúng nhiều hơn đáng kể từ khi bắt đầu khủng hoảng Covid-19. Tình trạng ấy kéo theo khả năng dễ tiếp cận tin giả về dịch bệnh trong bối cảnh “rối loạn thông tin” hiện nay.
2.1.2.2. Tiếp cận tin giả về dịch Covid-19 trên mạng xã hội
Nghiên cứu nội dung tin giả ở Brazil, các tác giả xác định 100% thông tin sai lệch đại dịch Covid-19 thuộc mẫu khảo sát đều được công bố trên MXH, chứng tỏ sức mạnh của phương tiện truyền thông mới trong việc lan truyền thông tin, đặc biệt tin giả [50]. Khảo sát tại bang Lagos, Nigeria, MXH WhatsApp và Facebook là hai nguồn cung cấp tin giả nhiều nhất [62]. Cùng kết quả, gần tuyệt đối các chuyên gia Thư viện từ Ấn Độ nhận định hai ứng dụng trên dẫn đầu trong việc lan truyền thông tin sai lệch về Covid-19 [63].
Hay nghiên cứu tin giả và dịch bệnh ở Tây Ban Nha nổi bật khi có tới 92% lựa chọn MXH tạo ra lượng tin giả lớn nhất về Covid-19; 66% NTL nhớ đã nhận được tin giả cung cấp thông tin về cách tránh lây nhiễm Covid-19, sau đó là nội dung liên quan các phương pháp tại nhà để nhận biết có bị nhiễm bệnh không, tin giả về các tuyên bố của chuyên gia y tế, nhân viên an ninh (60%), 57% là cách thức lây lan của vi-rút, 49% nhận được tin giả về các loại thuốc điều trị,... [57].
Một số nghiên cứu tại Việt Nam được cập nhật thời gian qua cho kết quả khá tương đồng các nghiên cứu nước ngoài. Khảo sát SV năm nhất Đại học Y
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Hà Nội về thói quen tìm kiếm thơng tin Covid-19, có 69,21% SV được khảo sát lựa chọn MXH là nguồn thông tin phổ biến nhất mà họ tiếp cận, với lý do chủ yếu là dễ theo dõi/sử dụng được 53,66% trong số trên cho hay [8]. Hay bài viết của Lê Hoàng Việt Lâm và cộng sự (2020) đánh giá Facebook là MXH cung cấp nhiều thông tin liên quan đến Covid-19 không chính xác nhất, cịn Zalo cung cấp nhiều thơng tin chính xác hơn. 24,2% thường xuyên, 42,2% thỉnh thoảng nhận được các thơng tin khơng chính xác về tình hình dịch bệnh của các cơ quan thơng tấn báo chí khơng uy tín hay đưa những bài viết, quan điểm, ý kiến cá nhân về tình hình dịch; gây ra nhiều hậu quả như hoang mang, lo lắng, tạo cơ hội đầu cơ, tích trữ hay suy giảm niềm tin với Chính phủ. Tuy nhiên, vẫn có đến 62,1% người dùng cho rằng MXH họ đang sử dụng cung cấp thông tin về dịch bệnh là tin cậy và 13,6% là rất tin cậy [23].
Cụ thể với SV HVBCTT qua khảo sát của TS. Lưu Thúy Hồng, 1/2 SV được hỏi cho rằng tin giả về Covid-19 chiếm 40% số tin trên MXH, đa phần là tin giả về lĩnh vực y tế, sau đó là tin giả về xã hội, đặc biệt trong giai đoạn đợt giãn cách thứ tư Hà Nội phổ biến các tin giả về chính trị – kinh tế [12, tr.663]. Nội dung tin giả là đa dạng, nhiều ví dụ điển hình về tin giả trong thời gian của đại dịch Covid-19 đã được xác định.
Phải khẳng định, MXH đã đem đến không gian cho công chúng tiếp nhận thơng tin nhanh chóng, di động và vơ cùng tiện lợi tuy nhiên đây không phải là nguồn thông tin công chúng tin tưởng tuyệt đối khi tiếp nhận tin tức về dịch bệnh Covid-19.
2.2. Hướng nghiên cứu về hành vi ứng xử đối với tin giả Covid-19 trên mạng xã hội
Giữa cuộc khủng hoảng dịch bệnh Covid-19, cảnh báo về “đại dịch” tin giả nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Lượng lớn công chúng tiếp cận thông tin dịch bệnh qua MXH, đây cũng là nguồn lan truyền tin giả nhiều nhất. Đi sâu tìm hiểu về hành vi ứng xử của các nhóm xã hội với tin giả, bối cảnh về khủng hoảng dịch bệnh chưa được nhắc nhiều trong các nghiên cứu liên quan trước đó cho đến khi bùng phát Covid-19.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Dịch bệnh Covid-19 trở thành yếu tố môi trường xã hội tác động mạnh mẽ tới ứng xử của công chúng trước các tin tức giả mạo, bao gồm thái độ “bình thường hóa”, các hành vi kiểm chứng, tương tác và kiểm soát nhằm ngăn chặn tin giả Covid-19 trên MXH.
2.2.1. Xu hướng “bình thường hóa” trước tin giả Covid-19
Tìm hiểu hơn 50 tin giả khởi phát trên MXH đối với công chúng Việt Nam từ 2016 đến 2018, tác giả Hoàng Hà My phân tích thái độ bình thường hóa của đối tượng đã đi làm, thờ ơ dù biết đó là tin giả hoặc biết bạn bè, người quen trên MXH tiếp cận nó. Họ chỉ khun khơng nên tin, sau đó bỏ qua hoặc hủy kết bạn, vơ tình khiến tin giả có cơ hội phát tán [31, tr.72-80].
Cịn cụ thể trong tình hình dịch bệnh Covid-19, công chúng ở bang Lagos, Nigeria mặc dù coi tin giả là tin đáng báo động, nên bị xử lý nhưng họ lại không đồng ý với các nhận định rằng “thấy tin giả nên bỏ qua”, “tin giả không đáng lo ngại” [62]. Hay nghiên cứu tại Tây Ban Nha, tuy 89% người dùng Tây Ban Nha coi tin giả nguy hiểm cho xã hội, nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng nhưng vẫn còn 10% tin rằng phạm vi của tin giả Covid-19 là vừa phải, chấp nhận được và 1% coi nó chỉ gây ra hậu quả nhẹ [57].
Các tác giả Đại học Mở TP.HCM (2020) thì nhận thấy: dù người dùng thể hiện thái độ không/rất không đồng tình (92,2%) đối với những tin sai trái, bịa đặt liên quan đến dịch Covid-19 thì hành vi của họ xu hướng đi ngược lại với thái độ phản đối trên như thờ ơ, ít phản đối, lên tiếng với cơ quan chức năng để xử lý những người đăng tải/chia sẻ tin giả bởi tâm lý sợ bị “ném đá”, trả thù, ảnh hưởng đến cuộc sống [23]. Ngồi ra, nghiên cứu nhóm SV trường Đại học Giáo dục nhận diện tin giả như thế nào trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, số SV cảm thấy bình thường chiếm tỷ lệ cao nhất 37,2%, không ảnh hưởng cá nhân 34,5%, sau đó mới là cảm thấy hoang mang hay lo lắng, bất an và mất niềm tin, hình thành xu hướng bình thường hóa khi tiếp cận tin giả trên MXH [27, tr.163-164].
2.2.2. Kiểm chứng và tương tác với tin giả Covid-19
Ngồi thái độ “bình thường hóa”, hành vi kiểm chứng, tương tác với tin giả cũng là một yếu tố quyết định sự tiếp tục lan truyền của tin giả. Theo đó,
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Talwar và cộng sự (2020) khám phá hành vi chia sẻ tin tức giả trên các nền tảng truyền thông xã hội, phát hiện khả năng chia sẻ tin giả mà khơng xác thực có hai lý do được đề cập: thiếu thời gian để kiểm tra sự thật, xác minh qua các nguồn tin cậy và do sức hấp dẫn, niềm tin tôn giáo [66].
Hay với thanh niên Tây Ban Nha, cứ 10 người thì 4 người có thói quen ln kiểm tra xem tin tức họ đọc là thật hay giả, 55,7% thỉnh thoảng mới kiểm tra và 4,8% không bao giờ. Cách thức mà họ sử dụng để xác minh chủ yếu là thơng qua bạn bè/ gia đình (49,9%), liên hệ với nữ giới, độ tuổi 18 và trình độ học vấn thấp hơn. Đặc biệt với số rất ít được xác nhận là có phát tán tin giả, lý do chính là là muốn cảnh báo người khác, tỷ lệ nhỏ còn lại tung tin giả vì sở thích, do buồn chán hay như một cái cớ để liên hệ với mọi người [67].
Còn tiến hành trong bối cảnh Covid-19, dự đoán ứng xử của người dùng MXH ở Nigeria qua việc chia sẻ tin giả giữa các tài khoản cá nhân chỉ ra những hành động tích cực hỗ trợ thông tin cho người khác là yếu tố được dự báo tác động lớn nhất làm gia tăng sự lan truyền tin giả về Covid-19 qua việc cố gắng chia sẻ thông tin mà không xác định nguồn hay khơng đọc tồn bộ bài viết [46]. Đây là điều kiện thuận lợi để tin giả lan truyền dễ dàng hơn, tiếp tục ghi nhận với người dùng WhatsApp Ấn Độ, hơn 13% chưa bao giờ kiểm tra sự thật của các tin về dịch bệnh trên ứng dụng trước khi chuyển tiếp tin nhắn và 14,43% đã chuyển tiếp ba tin nhắn về Covid-19 trở lên mỗi ngày [51].
SV Bangladesh có ý kiến tương tự, hầu hết cho rằng tin giả Covid-19 lan truyền nhanh trên MXH vì người dùng chia sẻ không kiểm tra độ tin cậy của tin tức đấy hoặc không xác thực dựa trên nguồn đáng tin cậy. Bản thân họ có xu hướng thường xuyên kiểm tra tính xác thực, độ tin cậy của mọi tin tức trước khi chia sẻ (4,26/5 điểm trung bình (ĐTB)); tiếp theo ln đánh giá nghiêm túc và phân tích sâu; tần suất chấp nhận mọi tin tức nhận được trên MXH tương đối thấp (2,65/5 điểm) [47].
Nghiên cứu nhận thức về tin giả của Nidhi Chaudhry (2020) cho tín hiệu tích cực trong tỷ lệ xác thực thơng tin: 60,8% trả lời có xác minh tin tức trước khi chuyển tiếp cho người khác, 26,5% thỉnh thoảng và chỉ 7,8% cho biết không
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">xác minh tin tức trong khi gửi, tuy nhiên vẫn cịn 4,9% người khảo sát khơng biết cách xác thực thơng tin [55, tr.140].
Cũng có đến 70% người dùng Tây Ban Nha không chia sẻ tin giả Covid-19; tuy nhiên 23% còn lại đã chia sẻ tin giả một cách vơ thức, sau đó mới nhận ra là trị lừa bịp; thậm chí một số người đã tiếp tục chia sẻ dù biết là tin giả với nhiều lý do như thích nói đùa, tạo ra sự sợ hãi hay do không chắc chắn, muốn quan sát phản ứng của người nhận với trị lừa bịp hoặc để làm mất uy tín của một tổ chức, cá nhân (2%) [57]. Như người dùng ở Úc, 38,3% đã từng chia sẻ tin giả nhưng do họ muốn có thêm ý kiến của người khác để cùng kiểm chứng tính chính xác của thơng tin, hành vi tương tác này có thể đánh giá là tích cực, tạo khơng gian mạng cơng chúng tiếp cận “sạch” hơn, nhưng cũng có tới khoảng 37% cảm thấy thú vị với tin giả về dịch Covid-19 nên cố ý lan truyền và 12,4% chia sẻ tin giả vì thấy giải trí [65].
Bên cạnh tỷ lệ người dùng MXH có hay không xác thực, kiểm chứng thơng tin thì dữ liệu từ cuộc khảo sát Covid-19 năm 2021 của Trung tâm An ninh mạng Florida phân tích tương tác trên MXH thể hiện kênh thông tin mà người dân tại đây lựa chọn kể từ khi đại dịch bùng phát, như một cách xác minh thơng tin. Trong đó, 1/3 kiểm tra với bác sĩ/chuyên gia chăm sóc sức khỏe về độ chính xác của nội dung họ thấy trên MXH; 68,4% nói chuyện với bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và 22% đã thực hiện tìm hiểu, nghiên cứu trên Internet để xác minh thông tin; họ cũng có xu hướng theo dõi các tổ chức thể chế trên MXH hoặc theo dõi trang cá nhân các chuyên gia y tế [61].
Giữa đại dịch tại Malaysia, bài viết phân tích khi người dùng phát hiện một tin tức đáng ngờ, dù tỷ lệ cao nhất là phớt lờ (32,6%) và 2,2% chia sẻ/chuyển tiếp ngay lập tức nhưng số cịn lại có ứng xử được cho là tích cực hơn qua việc trao đổi nhằm xác minh với gia đình/bạn bè (12,9%), hoặc 28,2% sử dụng các trang web có tính năng kiểm tra sự thật, Google cũng là lựa chọn tiêu biểu với 24,1%. Ngồi ra, để tài cịn xác định các yếu tố về giải trí, động thái phớt lờ, khả năng hiểu biết thấp và hành vi hướng đến lợi ích người khác là các động cơ, lý do dẫn tới hành vi chia sẻ tin giả trong mẫu nghiên cứu [52].
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Nghiên cứu của Lê Hoàng Việt Lâm và cộng sự (2020) với người dùng Việt Nam, thực trạng ít hoặc khơng trao đổi các thơng tin khơng chính xác về Covid-19 với bạn bè, người thân chiếm tỷ lệ cao hơn (22,6% và 21,3%). Số còn lại có chia sẻ, bàn luận thì phần lớn bạn bè của họ sẽ cùng lên tiếng phản đối những thơng tin cho rằng khơng chính xác (51,8%), tạo động lực để người dùng ứng xử tích cực hơn trước tin giả trên MXH [23].
Còn SV Đại học Giáo dục có tới 27,5% cho rằng sẽ khơng quan tâm và lướt ngay qua thông tin dạng tin tức, văn bản; 25% sẽ chia sẻ như một hưởng ứng trên trang cá nhân và 23,2% lập tức chia sẻ thơng tin. Ngồi ra, việc sở hữu số lượng bạn bè, người thân trên MXH góp phần lan tỏa tin giả, ảnh hưởng đến việc chia sẻ tin giả đã đọc được, sự phản ứng cá nhân trước tin giả trong thời gian Covid-19 [27, tr.163-164].
Nâng cao năng lực nhận biết và ứng phó với tin giả trên MXH trong bối cảnh đại dịch là mục đích nghiên cứu của tác giả Lưu Thúy Hồng khi khảo sát SV HVBCTT, trong đó tỷ lệ rất cao SV chưa tin, chờ kiểm chứng khi nhận thông tin mới, tin xúc động về Covid-19 (97%), chỉ 0,3% tin ngay và chia sẻ trên trang cá nhân, 17% không thể phân biệt được tin giả và tin thật [12, tr.662].
2.2.3. Kiểm soát, ngăn chặn tin giả Covid-19
Ngoài việc khám phá phản ứng trước bất kỳ tin giả Covid-19, sự tương tác trong mạng lưới xã hội trên MXH và cách người dùng kiểm chứng tin giả như thế nào thì các nghiên cứu trong và ngồi nước cũng tìm hiểu hành vi của người dùng MXH hướng đến kiểm soát, ngăn chặn tin giả Covid-19.
Trước đó, tác giả Hồng Hà My (2018) trong nghiên cứu tác động của tin giả đến cơng chúng Việt Nam đã đưa ra một ví dụ tin giả và chỉ 16% người được khảo sát trực tuyến phát hiện đó là tin giả và chia sẻ lại cảnh báo người khác, ngoài ra 13,9% phản hồi lại với chủ tài khoản đã đăng tải/chia sẻ tin tức đó, phần lớn khơng nhận diện được ví dụ đó là tin giả. Người dùng sau khi biết mình chia sẻ tin giả thì 55,2% thơng báo cho người xung quanh, 23,9% đăng tin đính chính, 52,2% xóa tin giả trên trang cá nhân, giúp giảm lượng tương tác nhưng xuất hiện độ trễ thời gian và có tới 16,4% khơng làm gì cả [31, tr.72-80].
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Hay nghiên cứu tại Tây Ban Nha, 76,8% thanh niên từ 18 đến 25 tuổi coi trọng việc phải hiểu biết về phương tiện truyền thông giúp ngăn chặn thông tin sai lệch, đặc biệt 23,8% biết về một chương trình đào tạo phát hiện tin giả, tuy nhiên 4/5 trong số đó khơng tham gia vì họ khơng quan tâm, thiếu thời gian hoặc tin rằng bản thân đã biết cách phát hiện tin giả. Tiếp đến, 45,1% ln khuyến khích người dùng/bạn bè/gia đình họ chỉ chia sẻ thơng tin khi họ đã xác minh; 55,1% luôn cảnh báo người gửi tin rằng đó có thể là tin giả và 75% đã loại bỏ tin tức khỏi MXH khi biết đó là tin giả; các tác giả cũng tìm thấy mối liên hệ với đặc điểm là nữ giới, học sinh cấp ba [67].
Còn trong bối cảnh Covid-19, 87,33% SV Bangladesh đánh giá bản thân họ tự tin khi xác định tin giả và cho rằng nên phát triển các công cụ để xác định tin giả (64%), nâng cao nhận thức về tác hại của tin giả (59,8%), đảm bảo trừng phạt những kẻ cố ý phát tán (59,1%),... để kiểm soát sự lan truyền tin giả trên MXH nói chung [47]. Giải pháp giúp ngăn chặn tin giả cũng được đề cập trong khảo sát các chuyên gia Thư viện tại Ấn Độ về phát tán thông tin sai lệch Covid-19: 100% đồng ý cần kiểm tra chéo thông tin từ các nguồn xác thực trước khi chia sẻ với người khác; ngồi ra nên cập nhật thơng tin đầy đủ về dịch bệnh, tránh các tin chưa được kiểm duyệt hay phải báo cáo bất kỳ tin giả nào đều được họ ưu tiên lựa chọn; từ đó thể hiện vai trị tích cực ngăn chặn sự lan truyền tin giả về Covid-19 [63].
Với những người đăng ký bản tin CoronaCheck thuộc tổ chức kiểm tra sự thật của Úc, 50% lựa chọn lý do đăng ký bản tin này vì muốn tìm kiếm thơng tin Covid-19 chính xác và họ lo ngại về tin giả. CoronaCheck được xem là cách cơng chúng Úc tìm đến một nguồn thông tin nhằm xác thực tin giả và là giải pháp cần được cân nhắc nhằm ngăn chặn vấn nạn tin giả hiện nay [65].
Đẩy mạnh hành vi sửa chữa/điều chỉnh thông tin sai lệch trên MXH về đại dịch Covid-19 là khuyến nghị của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe Mỹ, họ đồng ý rằng cần làm quen và đối chiếu với các nguồn thông tin hay học cách sử dụng MXH chuyên nghiệp, có thể kết nối với những người cố vấn/tin cậy, tỷ lệ cao nhất là phải phổ biến sự thật trên MXH. Động lực về nghề nghiệp là thứ
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">thúc đẩy họ đính chính thơng tin giả về sức khỏe nhiều nhất, tuy nhiên cũng không tránh khỏi các rào cản hành vi này như lo sợ quấy rối, bắt nạt, thiếu thời gian, họ không nhận được kết quả tích cực, hay cảm thấy khó khăn do thiếu sự hỗ trợ của tổ chức, đào tạo sử dụng hiệu quả MXH,... [53].
Về việc sẵn sàng sửa chữa cho bạn bè hay những người có thể chia sẻ thơng tin sai lệch về Covid-19 trực tuyến, 726 người trưởng thành Brazil tham gia đánh giá hành vi hiệu chỉnh cho cá nhân với số ĐTB đồng ý cao nhất (3,9/5 điểm), gồm thông báo cho họ ngay lập tức hoặc cung cấp thơng tin chính xác cho họ một cách riêng tư; sau đó là hành vi chỉnh sửa cho nhóm và số ít đồng tình với hành vi bị động hoặc không sửa chữa như thông báo cho người gửi sau khi đợi một thời gian, khơng thơng báo cho họ hoặc khơng có hành động nào. Đáng chú ý, nghiên cứu còn quan tâm đến sự khác biệt về đặc điểm nhân khẩu học: người trẻ tuổi không tham gia sửa chữa; trình độ Đại học thì ngược lại, họ có xu hướng sửa sai cho người gửi; cuối cùng là giới tính liên quan đến hiệu chỉnh theo nhóm, trong đó nam tích cực hơn nữ [68].
Có thể thấy, các nghiên cứu tập trung ở một hay một vài khía cạnh/chỉ báo của hành vi ứng xử trước tin giả Covid-19 nói riêng và thơng tin dịch bệnh nói chung, đặc biệt chưa chú trọng đến phân tích các yếu tố cá nhân có thể ảnh hưởng đến thái độ, phản ứng, hành vi của cơng chúng. Do đó, đề tài “Hành vi ứng xử của SV HVBCTT đối với tin giả về dịch bệnh Covid-19 trên MXH” hướng đến khám phá các đặc điểm cá nhân của khách thể, cụ thể là nhóm SV nhằm nhận diện và đánh giá xu hướng hành vi ứng xử trước tin giả về dịch bệnh Covid-19.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu những vấn đề lý luận về MXH và tin giả, nghiên cứu hành vi ứng xử của SV HVBCTT đối với tin giả về dịch bệnh Covid-19 trên MXH; đồng thời phân tích các yếu tố của SV ảnh hưởng đến hành vi ứng xử trên. Từ đó, đề xuất một số khuyến nghị nâng cao cách ứng xử tích cực của SV trước những tin giả trên MXH.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số khái niệm gồm tin giả, hành vi ứng xử, mạng xã hội, sinh viên và lý thuyết mạng lưới xã hội để thiết kế nghiên cứu, lựa chọn phương pháp nghiên cứu về hành vi ứng xử của SV trước tin giả Covid-19.
- Mô tả, làm rõ thực trạng hành vi ứng xử của từng nhóm SV theo các đặc điểm cá nhân, từ đó rút ra đặc điểm nhận diện trong cách ứng xử của SV HVBCTT trước tin giả Covid-19 trên MXH.
- Phân tích số liệu tìm hiểu mối quan hệ giữa đặc điểm về sử dụng MXH, tiếp cận thông tin Covid-19 trên MXH với hành vi ứng xử của SV trước tin giả Covid-19.
- Từ đó đưa ra các gợi ý khuyến nghị về truyền thơng dịch bệnh, góp phần nâng cao hiệu quả phịng chống dịch và tạo khơng gian mạng lành mạnh.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hành vi ứng xử của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền đối với tin giả về dịch bệnh Covid-19 trên mạng xã hội.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên hệ chính quy từ năm nhất đến năm tư, tương đương từ K41 – K38 thuộc Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: 12/2021 – 5/2022
- Phạm vi khơng gian: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Từ các quan điểm, nguyên tắc của Triết học, nghiên cứu được xây dựng dựa trên các nguyên lý, quy luật của phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử. Đây được coi là nền tảng nhằm xác định và lựa chọn nghiên cứu hành vi ứng xử và xem xét mối liên hệ bối cảnh kinh tế – văn hóa – xã hội, các yếu tố về môi trường học tập, đặc điểm của công chúng,... với ứng xử của họ trước một vấn đề xã hội. Đồng thời, đề tài tìm hiểu các quan điểm, chủ trương, chính sách của
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Đảng và Nhà nước về phòng, chống tin giả và vận dụng lý thuyết mạng lưới xã hội nhằm phân tích ứng xử, vai trò của các cá nhân khi tham gia vào mạng lưới trực tuyến.
5.2. Phương pháp nghiên cứu Xã hội học 5.2.1. Phương pháp định lượng
Nghiên cứu sử dụng phương pháp Ankét với dung lượng mẫu 382 SV, công cụ nghiên cứu là bảng hỏi nhằm thu thập thông tin thông qua các câu hỏi được cụ thể hóa từ các biến số nghiên cứu. Số liệu thu được giúp tác giả phân tích tần suất, tương quan, hồi quy nhằm chứng minh các giả thuyết về thực trạng hành vi ứng xử trước tin giả Covid-19 trên MXH và khám phá mối quan hệ giữa các biến số độc lập với hành vi ứng xử của SV HVBCTT.
5.2.2. Phương pháp định tính 5.2.2.1. Phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu dựa trên các cơng trình nghiên cứu, các bài viết được đăng tải trên các tạp chí, báo cáo khoa học của các cá nhân, tập thể; các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan tới phòng chống tin giả được sưu tầm, tổng hợp và hệ thống hóa, tạo tiền đề cho nghiên cứu thực tiễn ứng xử trước tin giả và làm căn cứ để bổ sung, so sánh với kết quả nghiên cứu của đề tài.
5.2.2.2. Phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu (PVS) là phương pháp thu thập thông tin từ 14 trường hợp trong số 382 SV đã tham gia khảo sát bảng hỏi. Kết quả nghiên cứu sẽ được lý giải, minh chứng sâu sắc hơn nhằm bổ sung dữ liệu cho phương pháp Ankét.
5.2.3. Phương pháp chọn mẫu
5.2.3.1. Chọn mẫu với phương pháp định lượng
Theo số liệu từ phịng Đào tạo, số SV hệ chính quy đang theo học tại HVBCTT tính đến tháng 3/2022 là 8378 SV các khóa K41 – K38. Dựa trên cơng thức tính cỡ mẫu của Taro Yamane, cỡ mẫu dự kiến cần khảo sát là 382 SV và được phân thành 8 tầng (tổ) theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng và tính tốn được số lượng mẫu cụ thể ở mỗi tầng như bảng 1:
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Do tình hình dịch bệnh khơng thể khảo sát trực tiếp và khó khăn trong tiếp cận danh sách toàn bộ SV đang theo học, nghiên cứu tiến hành theo các bước sau nhằm đảm bảo kích cỡ mẫu lấy từ mỗi tầng thống nhất với từng tầng so với tổng thể, mang tính đại diện cao.
- Bước 1:
Đối với khóa K41: Liên hệ qua Zalo, Facebook cá nhân trong danh sách thông tin liên lạc của ban cán sự, chọn ngẫu nhiên 6 lớp tham gia.
Đối với khóa K40 – K38: Sử dụng 3 danh sách mã số SV khóa K40, K39, K38 được đăng công khai trên Cổng thông tin HVBCTT tại mục “Thông báo đào tạo đại học” và “Thơng báo hệ chính quy tập trung”.
- Bước 2: Chia thành các tầng (tổ) đáp ứng yêu cầu như bảng 1, lập danh sách toàn bộ SV ở từng tầng và thực hiện chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản tại mỗi tầng cho đến khi đủ số lượng lấy mẫu. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất trong quá trình phát bảng hỏi trực tuyến là khả năng hỗ trợ từ nhiều SV còn hạn chế, tác giả thiết kế một danh sách dự phịng gồm các SV có tiêu chí tương tự để thay thế và không làm thay đổi yêu cầu của mỗi tầng.
- Bước 3: Lập danh sách mẫu chính thức, dự phịng và gửi bảng khảo sát Google Form qua phần mềm Teams dựa trên mã số SV có sẵn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">5.2.3.2. Chọn mẫu với phương pháp định tính
Nhằm có thêm thơng tin bổ sung cho nghiên cứu, chọn 14 SV đã tham gia trả lời khảo sát dựa trên tiêu chí về giới tính, khối học, năm học và đảm bảo 100% đã tiếp xúc tin giả về dịch bệnh Covid-19 trên MXH.
5.2.4. Phương pháp xử lý thông tin
Thông tin định lượng thu thập từ điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi được xử lý qua phần mềm SPSS 20.0 dưới các dạng tần suất, điểm trung bình, các tương quan, kiểm định Chi-square, hồi quy,... nhằm đánh giá hành vi ứng xử với tin giả Covid-19 của SV ở nhiều khía cạnh theo các yếu tố, môi trường xã hội tác động. Cịn đối với thơng tin thu được từ PVS sẽ được phân chia theo các nhóm chủ đề để phục vụ mục đích nghiên cứu, bổ sung và làm sáng tỏ, có thể đưa ra góc nhìn mới mà số liệu định lượng không đề cập hết.
6. Khung lý thuyết, giả thuyết nghiên cứu 6.1. Khung lý thuyết
Đặc điểm cá nhân SV
Hành vi ứng xử của sinh viên HVBCTT đối với tin giả về Covid-19 trên MXH Bối cảnh kinh tế – chính trị – xã hội
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">6.2. Các biến số nghiên cứu 6.2.1. Biến độc lập
- Đặc điểm cá nhân SV bao gồm giới tính; độ tuổi; năm học; ngành học; khối học; hoạt động trong các chi đoàn, tổ chức HVBCTT; đặc điểm liên quan
+ Tiếp cận thông tin dịch bệnh Covid-19 trên MXH: tần suất, kênh, mức độ tin cậy với thông tin về Covid-19 và phân loại tin giả Covid-19 tiếp cận, tần suất tiếp cận, cách thức, nguyên nhân lan truyền
6.2.2. Biến phụ thuộc
Hành vi ứng xử của SV HVBCTT đối với tin giả về dịch bệnh Covid-19 trên MXH thông qua việc đánh giá về:
- Phản ứng trước tin giả và ảnh hưởng của tin giả Covid-19 - Hành vi kiểm chứng thông tin Covid-19
- Tương tác với tin giả Covid-19
- Hành vi xử lý, kiểm soát tin giả Covid-19 6.2.3. Biến can thiệp
- Bối cảnh kinh tế – chính trị – xã hội - Truyền thông về dịch bệnh
- Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tin giả 6.3. Giả thuyết nghiên cứu
(1) Đa số SV có hành vi ứng xử tích cực với tin giả Covid-19 trên MXH. (2) SV ít có hành động ngăn chặn thực tế do sợ bị ảnh hưởng đến cuộc sống hoặc khơng có thời gian.
(3) SV thuộc khối Nghiệp vụ hoặc tham gia các chức vụ, tổ chức thuộc HVBCTT có xu hướng kiểm chứng thơng tin và ngăn chặn tin giả Covid-19 nhiều hơn nhóm khác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">(4) SV càng sử dụng nhiều MXH, có nhiều bạn bè hoặc tham gia nhiều nhóm/fanpage trên MXH và tiếp cận lượng lớn thông tin Covid-19 thì càng dễ dàng tương tác với tin giả Covid-19.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 7.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần hệ thống hóa các khái niệm, quan điểm lý luận liên quan đến vấn đề ứng xử/tin giả nói chung và ứng xử với tin giả nói riêng trong nghiên cứu Xã hội học.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu cung cấp số liệu về thực trạng ứng xử của SV HVBCTT hiện nay trước tin giả trên MXH, nhận diện những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của họ; đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này và các tổ chức, cơ quan truyền thơng, chính quyền,... tham khảo nâng cao hiệu quả trong công tác phòng, chống tin giả.
8. Kết cấu của đề tài
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2. Thực trạng hành vi ứng xử đối với tin giả về dịch bệnh Covid-19 trên mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chương 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi ứng xử của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền đối với tin giả về dịch bệnh Covid-19 trên mạng xã hội
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Thao tác hóa các khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm tin giả
Tin giả theo tên Tiếng Anh là “fake news”, được sử dụng phổ biến khi nói về những tin tức, câu chuyện sai sự thật. Các nhà nghiên cứu đưa ra các khái niệm và có cách tiếp cận đa dạng về tin giả.
Xuất hiện từ lâu nhưng thuật ngữ “fake news” nổi bật trong các kỳ tranh cử tổng thống Mỹ hay các sự kiện chính trị quan trọng, gây tác động đến ý kiến của cơng chúng, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích của một quốc gia [13, tr.63]. Năm 2016, Allcott và Gentzkow cho hay, tin giả là các tin bài chủ ý viết theo hướng sai lệch và có thể kiểm chứng được là sai sự thật, đánh lừa người đọc; tập trung nhiều vào các bài báo giả mạo có mục đích lợi nhuận, chính trị [48, tr.213].
Còn tổ chức UNESCO cho rằng, cụm từ fake news “dễ bị chính trị hóa, như một vũ khí tấn cơng ngành cơng nghiệp tin tức” nên cần tiếp cận hai loại sau: tin xuyên tạc (disinformation) và tin sai (misinformation). Trong đó, tin sai (misinformation) là thông tin không đúng sự thật và người phát tán nhầm tưởng là thật; còn tin xuyên tạc (disinformation) cũng không đúng sự thật nhưng người phát tán biết rõ điều này, cố ý, có chủ đích, nhằm gây hại người khác [44, tr.45]. Ngoài ra, vấn đề tin giả còn thể hiện ở phạm trù khác là tin nguy hại (mal-information) – thông tin dựa trên thực tế nhưng được dùng để gây hại cho một cá nhân, tổ chức hay quốc gia [44, tr.46].
Dựa vào nội dung, tin giả được phân loại khác nhau: “(1) Nội dung mang tính chất châm biếm, chế giễu; (2) Thông tin không nhất quán, liên kết sai; (3) Nội dung sai lệch, gây hiểu lầm; (4) Thông tin bị đặt trong bối cảnh sai/không phù hợp; (5) Nội dung mạo danh; (6) Nội dung bịa đặt, ngụy tạo” [16, tr.13-14].
Nhóm tác giả HVBCTT xác định hướng phân chia tin tức giả thành hai loại: “(1) Những thơng tin hồn tồn khơng chính xác, sai sự thật được cố tình
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">đăng tải, lan truyền vì một mục đích, ý đồ nào đó; (2) Những thơng tin có một phần sự thật nhưng khơng hồn tồn chính xác, chưa được kiểm chứng, kiểm duyệt được đăng tải, chia sẻ trên mạng xã hội và các phương tiện truyền thông đại chúng” [39, tr.127].
Những nghiên cứu khác cũng đưa ra các định nghĩa bao quát về tin tức giả như “tin, bài được ngụ ý là sự thật nhưng thực chất đó là những tin tức được thành lập dựa trên tin đồn, phỏng đoán hoặc hồn tồn bịa đặt và bị cố tình lan truyền với mục đích kinh tế, chính trị hoặc xã hội” [25, tr.104] hay “là những thông tin bịa đặt, khơng chính xác, chưa được kiểm chứng, sai lệch về nội dung, được khuếch tán trên internet và các phương tiện truyền thông” [40, tr.42].
Mặc dù chưa đi đến một định nghĩa chung và rõ ràng nhưng các khái niệm tin giả cùng hướng đến nội dung: tin giả là những thông tin không đúng sự thật, chưa được kiểm chứng, khiến người khác hiểu sai, nhằm mục đích, động cơ nhất định. Đây chính là định nghĩa tin giả được sử dụng xuyên suốt trong nghiên cứu.
1.1.1.2. Khái niệm tin giả về dịch bệnh Covid-19 và cách nhận biết a. Tin giả về dịch bệnh Covid-19
Những nghiên cứu gần đây chỉ ra, tin giả liên quan đến dịch Covid-19 là “những thơng tin sai sự thật về tình hình dịch bệnh, cố tình truyền tin sai lệch với mục đích thu lợi chính trị hoặc thương mại, gây tâm lý hoang mang trong dư luận xã hội” [41, tr.105] hay “những thông tin bịa đặt, không có thật, được cố tình đăng tải trên các phương tiện truyền thông truyền thống hoặc MXH liên quan đến dịch bệnh Covid-19, gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến định hướng, chiến lược về cơng tác phịng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam hiện nay” [33, tr.193].
Tóm lại, tin giả về dịch bệnh Covid-19 trong đề tài được hiểu là những thông tin sai sự thật liên quan đến đại dịch Covid-19, chưa được đăng tải, kiểm chứng trên các phương tiện truyền thơng chính thống và được tạo ra nhằm mục đích, động cơ liên quan chính trị, kinh tế, xã hội,.. gây ra tác động tiêu cực đến hiệu quả công tác phòng, chống dịch Covid-19 tại Việt Nam, bao gồm các chủ đề, loại tin giả về Covid-19 [86; 41, tr.106; 17, tr.255] như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">- Diễn biến dịch bệnh tại các điểm nóng (ca bệnh, người mắc bệnh, tử vong, bị cách ly vì Covid-19,...)
- Chính sách phân bổ/sử dụng quỹ vaccine Covid-19 - Công dụng và hiệu quả vaccine phịng Covid-19
- Chỉ đạo, phát ngơn, quy định của Chính phủ, Nhà nước, các cơ quan trung ương trong phòng, chống dịch
- Phản ứng của chính quyền, cơ sở sản xuất, kinh doanh kiểm sốt trước dịch Covid-19 (đóng cửa, phong toả, cho nghỉ việc,...)
- Tác dụng của thuốc, vật tư y tế phòng, chống dịch bệnh
- Phương pháp điều trị (tự điều trị, chẩn đoán tại nhà, các bài thuốc chữa bệnh,... không thuộc chỉ dẫn của Bộ Y tế)
- Đặc điểm bệnh (hình thức lây truyền, tử vong, di chứng,...)
- Liên quan đến nhân phẩm, danh dự, đời tư của nhân viên y tế/ người tham gia phòng chống dịch/ người mắc bệnh/ người có nguy cơ lây nhiễm
- Phát ngơn người nổi tiếng, người có sức ảnh hưởng trong cộng đồng b. Cách nhận diện tin giả về dịch bệnh Covid-19
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn ra phức tạp, song hành là sự phổ biến của tin giả, lan truyền gây hoang mang, bức xúc dư luận, Liên đoàn các Hiệp hội và Tổ chức Thư viện Quốc tế (IFLA) đã khuyến cáo các bước để phát hiện tin giả phiên bản Covid-19: kiểm tra nguồn bài viết; đọc thật kỹ bài viết; xác định nguồn tin có được kiểm chứng chưa; thông tin tương tự xuất hiện ở các nguồn nào khác; phân biệt có phải là tin đùa không; cá nhân phải khách quan; hỏi chuyên gia; đọc kỹ trước khi chia sẻ [80].
Tác giả Trần V.T.Giang Lam, Đại học Cần Thơ (2021) có một bài viết về “Hiện tượng tin tức giả, một số phương thức nhận biết và ngăn chặn”, nhấn mạnh cơng chúng nên có thái độ thận trọng và hoài nghi khi theo dõi một tin tức/vụ việc mới, còn đang được tường thuật, dư luận xã hội trái chiều và nêu rõ 4 phương thức nhằm nhận biết tin giả như sau: (1) kiểm tra nguồn đăng tải, truyền phát các tin, bài xem đó có phải là những trang web, trang báo mạng điện tử, trang thông tin điện tử,... chính thống, uy tín, đáng tin cậy hay không; (2)
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">xem xét, đánh giá nội dung bài viết, xác định thông điệp tác giả muốn truyền tải và có đưa ra được những dữ liệu/ bằng chứng có thể kiểm tra hay chỉ nêu ý kiến, quan điểm cá nhân; (3) đối chiếu, kiểm tra được tính chân thực của thơng tin; (4) chú ý đến những đường dẫn liên kết, siêu liên kết, trích dẫn và nguồn tham khảo rõ ràng hay không [25, tr.107].
Trong chương 7. Truyền thông xã hội và “nhà báo công dân”, PGS.TS. Nguyễn Thị Trường Giang kế thừa và tổng hợp 11 gợi ý giúp cơng chúng nhận diện tính chính xác của tin tức: (1) Kiểm tra thẩm quyền/ danh tính của cá nhân, tổ chức phụ trách; (2) Xác định độ uy tín của nguồn thông tin, xuất phát từ website, thương hiệu như thế nào; (3) Đọc nội dung, khơng nên chỉ đọc tít, đọc lướt; (4) Tìm kiếm, đối chiếu chéo các kết quả từ nhiều trang web; (5) Đánh giá nội dung bài viết có nhất quán với mục tiêu trang web không; (6) Kiểm tra trang web có thơng tin liên lạc khơng, kiểm tra tác giả; (7) Xác định nguồn gốc của trang web; (8) Kiểm tra thời gian đăng tải; (9) Kiểm tra đường dẫn, liên kết; (10) Tìm lời khuyên, chỉ dẫn từ chuyên gia, các trang uy tín chuyên kiểm chứng sự thật; (11) Tham gia, đặt câu hỏi trên các diễn đàn, theo dõi thông tin sau sự việc [10, tr.485-487].
1.1.1.3. Khái niệm mạng xã hội và sự lan truyền tin giả trên mạng xã hội a. Mạng xã hội
Mạng xã hội với tên Tiếng Anh là “social network sites” hay còn gọi là “MXH trên internet, MXH trực tuyến, MXH ảo”, đều là khái niệm xuất hiện trong thập niên cuối của thế kỉ XX [26, tr.29]. Nhắc đến MXH hiện nay là nhắc đến các trang web, ứng dụng, nền tảng phổ biến như Facebook, Instagram, Youtube,... Tuy nhiên, định nghĩa về MXH được cụ thể hóa và có sự khác biệt theo nhiều hướng tiếp cận.
Tại khoản 22 Điều 3 Chương 1 Nghị định 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, xác định MXH “là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác” [5].
GS.TS. Trần Hữu Luyến tích hợp các khái niệm và cho rằng “MXH được cấu thành từ hai bộ phận là con người và những mối liên hệ giữa họ; là một dịch vụ kết nối các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau, với nhiều mục đích khác nhau”. Tác giả nhấn mạnh tính di động về không gian địa lý, đặc điểm nhân khẩu học, thời gian mà MXH đem lại và tốc độ lan truyền, thu hút nhiều đối tượng người tiêu dùng [26, tr.31].
Thuật ngữ này đã trở nên vô cùng phổ biến trong ngôn ngữ đời thường, “MXH chỉ những trang mạng cộng đồng hay những trang MXH số như Facebook, Twitter và được hiểu như là những nơi tập hợp những cá nhân có cùng sở thích hay mối quan tâm để cùng nhau gặp gỡ, chia sẻ, kết nối, tương tác, cấp nhật thông tin với nhau... MXH đã tạo nên một thế hệ mới những người tiêu thụ thông tin, nghĩa là những người luôn khao khát muốn biết nhanh, biết đúng và biết toàn diện” [42, tr.25-26].
Hiện nay tại Việt Nam, các trang MXH có nhiều người dùng nhất bao gồm Facebook, Youtube, Instagram, TikTok, Zalo tăng 5 triệu tài khoản so với năm 2021 [70]. Đây là một công cụ tiềm năng khơng giới hạn khơng gian nhưng mang tính chất hai mặt khi có thể tác động tiêu cực đến hành vi ứng xử của công chúng và gây nguy hiểm cho cuộc sống riêng tư.
b. Cơ chế lan truyền tin giả trên mạng xã hội
Phương tiện truyền thông mới dần chiếm lĩnh thị trường tiêu dùng thông tin về mọi vấn đề đời sống xã hội. Thông tin sai lệch dễ dàng xâm nhập thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, kỹ thuật số [59]. MXH là công cụ thường được sử dụng để chia sẻ tin tức với bạn bè, người thân, người quen nhưng đồng thời cũng là nơi tin giả lan truyền nhanh, diện rộng bởi tính năng thể hiện cảm xúc, chia sẻ, bình luận của các MXH [25, tr.106].
Hậu quả của một mơi trường có nhiều nhiều tin giả dẫn đến việc công chúng sẽ dèm pha, đồn thổi những hoài nghi và tin đồn theo cách khơng mang
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">tính xây dựng. Như vậy, tin giả lan truyền mạnh mẽ theo ba cơ chế chủ đạo là thiên kiến, cộng đồng chia sẻ và cơ chế nghe nhiều thành đúng [14, tr.71-72]:
(1) Thiên kiến: Công chúng dễ trở nên thiếu khách quan, chỉ tiếp thu những sự kiện/thông tin phù hợp với niềm tin bản thân, chì nhìn thấy những gì muốn thấy. Mạng xã hội và các thuật tốn cơng nghệ đã khiến những thiên kiến dễ xuất hiện. Chỉ cần một vài lần tìm kiếm, like, chia sẻ hay comment là những bài viết và nội dung tương tự sẽ hiển thị tần suất cao hơn.
(2) Cộng đồng chia sẻ: Niềm tin của cá nhân ln có một hoặc nhiều cộng đồng khác cùng quan điểm (phổ biến là các nhóm được sinh ra trên mơi trường Internet). Cảm giác xung quanh tồn những người nói giống mình, nghĩ giống mình, có kẻ thù hệt như mình sẽ là một nguồn năng lượng rất lớn.
(3) Cơ chế nghe nhiều thành đúng: phần lớn các hoạt động thường ngày của chúng ta được hiệu quả hóa bằng thói quen. Những gì khiến ta cảm thấy thân quen sẽ vào đầu nhanh hơn và ở lại lâu hơn. Đó là lý do một thông tin dù sai, nếu nhắc đi nhắc lại sẽ trở nên thân quen và trở thành một thông tin đúng.
1.1.1.4. Khái niệm hành vi ứng xử a. Hành vi
Trong từ điển Tiếng Việt Hoàng Phê chủ biên, “hành vi là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định như hành vi lừa đảo, một hành vi khó hiểu” [34, tr.549].
Còn nhà Tâm lý học nổi tiếng người Mỹ – John Watson xác định “hành vi là những gì quan sát được khi một cơ thể đáp lại những tác động từ một kích thích nhất định” [18, tr.124].
Gordall Marshall cho rằng hành vi là “một phản ứng xác định của cơ thể đối với các kích thích từ bên trong hay bên ngồi và có thể đo lường được”. Trong Xã hội học, khái niệm hành vi thường được sử dụng với tên gọi “hành vi xã hội”. Hành vi xã hội là hành động có mục đích, có ý nghĩa và hướng tới người khác,... Để phân biệt hành động xã hội và hành vi xã hội, cần chú ý “nếu hành động xã hội có sự chủ động chờ đợi khả năng phản ứng lại từ phía người
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">khác thì hành vi xã hội khơng quan tâm tính tốn, chờ đợi phản ứng đáp lại từ phía người khác” [35, tr.113-114].
Hay một cách nhận diện khác, ở khái niệm hành động xã hội thì yếu tố “xã hội” thể hiện ở động cơ, mục đích, sự tính tốn cá nhân khi tham gia vào hành động còn với khái niệm hành vi xã hội, đặc trưng “xã hội” lại thể hiện ở các mặt thuộc về mơi trường xã hội có tác động đến hành vi con người. Tuy vậy, khó có thể tách biệt hồn tồn hai khái niệm trên, bất kỳ hành vi của các thành viên trong nhóm hay trong xã hội khơng những chịu tác động, ảnh hưởng từ mơi trường văn hóa xã hội mà còn bắt nguồn từ sự cân nhắc, quyết định từ phía cá nhân. Ngược lại, việc lựa chọn, tính tốn, động cơ tham gia hành động xã hội cũng có thể chịu ảnh hưởng từ mơi trường xã hội [19, tr.45].
Tương tự trong cuốn “Hành vi con người và môi trường xã hội”, các tác giả khẳng định “hành vi con người là hành vi xã hội, ln có mục đích, ln mang tính khách quan và ln bộc lộ, biểu hiện thái độ, xúc cảm, tình cảm của con người trước tác nhân kích thích”. Hành vi con người ln được xã hội hóa, phản ánh cách lối ứng của con người trong các điều kiện văn hóa – xã hội, giáo dục, gia đình, việc làm và vị thế xã hội khác của cá nhân đó đảm nhận. Hành vi con người luôn bị chế ước bởi các quy định, chuẩn mực xã hội, nhóm và cộng đồng nhất định [28, tr.17-18].
b. Ứng xử
Từ điển Tiếng Việt có ghi “ứng xử thể hiện thái độ, hành động thích hợp trước những việc có quan hệ giữa mình và người khác” như ứng xử khôn khéo, thông minh [34, tr.1398].
Trong Tâm lý học, tác giả Lê Thị Bừng giải thích “ứng xử là một từ ghép của hai từ ứng và xử. Ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người khơng chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có lựa chọn, có tính tốn, thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng – tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất” [3, tr11-12].
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Nhà giáo Trịnh Trúc Lâm khi viết về lĩnh vực sư phạm đã đưa ra khái niệm ứng xử trong xã hội “là cách hành động của các vai trị xã hội nào đó trước một chủ thể xã hội khác cũng có một vị trí xã hội. Như vậy ứng xử xã hội trước tiên là cách hành động của các vai trò xã hội với nhau và sau nữa là cách hành động của chủ thể đối với chính bản thân mình, với đồ vật, với môi trường tự nhiên” [29, tr.6].
Khái niệm này được nhắc nhiều trong văn hóa ứng xử. Như tác giả Trần Thị Thúy Hà khi nghiên cứu văn hóa ứng xử với mơi trường tự nhiên có đề cập: “ứng xử được xem là một trong những yếu tố cấu thành bản sắc văn hóa của mỗi cá nhân, mỗi xã hội và dân tộc... là thái độ, hành vi, lời nói trong quan hệ giao tiếp giữa người với người, giữa người với tự nhiên và xã hội; là phản ứng của con người trước sự tác động của người khác hay môi trường tự nhiên trong một tình huống cụ thể nhất định; là biểu hiện bản chất nhân cách của mỗi cá nhân thông qua ngôn từ, cử chỉ, thái độ, phong thái, hành vi trước sự tác động của yếu tố bên ngoài” [20, tr.34-35].
Ứng xử được luận giải theo các nhà Xã hội học như sau: “Liên hệ xã hội được thực hành và thực hiện bằng những hành động như thế nào đó giữa các cá nhân, giữa các nhóm với nhau. Hành động như thế nào đấy đối với nhau và cụ thể hóa, khách thể hóa mối liên hệ xã hội. Hành động và nói như thế nào đấy là ứng xử” [9, tr.23]. Cho thấy, trong các tình huống nhất định, sự phản ứng có lựa chọn, thể hiện qua lời nói/ hành vi của con người trước sự tác động của người khác được coi là ứng xử.
Cụ thể trong Xã hội học văn hóa, ứng xử bao giờ cũng tuân theo những khuôn mẫu ứng xử, được tuân thủ bởi nhiều người, thường xuyên lặp đi lặp lại, có thể là quy tắc chung cho các thành viên trong một nhóm hay của tồn xã hội và phải chứa đựng một ý nghĩa xã hội nào đấy, tức phải biểu thị cho kiến thức, tư tưởng hoặc tình cảm mà chủ thể đã đạt được [15, tr.182-183].
c. Hành vi ứng xử
Từ các cách hiểu về “hành vi” và “ứng xử”, nghiên cứu cho rằng hành vi ứng xử trước hết là hành vi xã hội chịu tác động từ môi trường văn hóa xã hội
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">và được thể hiện qua thái độ, phản ứng, hành động có lựa chọn nhằm lĩnh hội, truyền đạt vốn sống, kinh nghiệm, tri thức,... trong những tình huống nhất định của một nhóm hay tồn xã hội.
d. Hành vi ứng xử đối với tin giả về Covid-19
Từ các khái niệm công cụ trên, tác giả xác định nghiên cứu hành vi ứng xử đối với tin giả về Covid-19 là nghiên cứu về hành vi xã hội, thể hiện qua thái độ, phản ứng, hành động có lựa chọn của một nhóm xã hội nào đó trước những thơng tin sai sự thật liên quan đến đại dịch Covid-19, cụ thể tìm hiểu các khía cạnh như sau:
- Phản ứng trước tin giả và ảnh hưởng của tin giả Covid-19 - Hành vi kiểm chứng thông tin Covid-19
- Tương tác với tin giả Covid-19
- Hành vi xử lý, kiểm soát tin giả Covid-19 1.1.1.5. Khái niệm Sinh viên
Thuật ngữ “sinh viên”, bắt nguồn từ gốc Latinh “students” với nghĩa là những người đang tham gia học tập, nghiên cứu, lĩnh hội và khai thác tri thức tại các trường cao đẳng, đại học,... Tại Việt Nam, SV thông thường là những người từ 18 tuổi trở lên, sau khi hoàn thành chương trình trung học phổ thơng và thi đỗ vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học.
Khảo sát SV của HVBCTT trong nghiên cứu được giới hạn phạm vi hệ đào tạo chính quy tập trung gồm khối Nghiệp vụ và Lý luận từ khóa K41 đến K38 của Học viện. Họ được đào tạo và trang bị kiến thức cơ bản, chuyên sâu về chuyên ngành cũng như lý luận chính trị.
1.1.2. Lý thuyết mạng lưới xã hội
Khái niệm mạng lưới xã hội lần đầu xuất hiện trong tác phẩm của Georg Simmel, ông cho rằng Xã hội học cần trọng tâm nghiên cứu các hình thái xã hội và quan niệm để phân tích hình thái ấy thì đơn giản là luận giải tương tác xã hội của con người (“sociation”) [54, tr.3182]. Trong xã hội có nhiều cách thức tổ chức khác nhau và đều do con người xây dựng để đáp ứng nhu cầu của bản thân, họ liên kết với nhau theo các mạng lưới dựa trên tiêu chí nào đó để tự thỏa thuận
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">và thỏa mãn lẫn nhau. Nhiều nhà Xã hội học đã định nghĩa mạng lưới xã hội là “một khuôn mẫu các quan hệ xã hội trong một tập hợp dân số của các chủ thể hành động xã hội”, các hành động cá nhân được in dấu ấn vào mạng lưới hay mạng lưới được cấu trúc bởi các hành động cá nhân, do vậy các mối liên hệ xã hội nối liền các cá nhân có liên quan lại với nhau [36, tr.136-138].
Giải thích mối quan hệ mạng lưới ở cấp vi mô, Mak Granovetter chỉ ra, những người có mạng lưới xã hội dày đặc, khép kín trong đó mọi người đều quen biết và thân thiết với nhau có thể tạo ra sự hạn chế trong việc trao đổi thông tin và cản trở mở mang hiểu biết thế giới bên ngoài (thường lâu dài, tương tác bền vững giữa những người bạn thân thiết, gia đình,... với nhau). Ngược lại, một mạng lưới xã hội gồm các mối liên hệ yếu, lỏng lẻo, thưa thớt, ln ln mở lại tỏ ra có lợi cho sự trao đổi thông tin và tạo ra sự hội nhập với xã hội, đó là “sức mạnh của các mối liên hệ yếu” (không thường xuyên tương tác, khơng bền chặt). Đóng góp của ơng làm rõ “liên kết yếu” có ưu điểm khi các cá nhân hòa nhập tốt hơn trong xã hội rộng lớn hơn thơng qua ví dụ về tìm kiếm việc làm, nó đóng vai trị quan trọng trong việc cung cấp thơng tin; bên cạnh đó, ơng cũng khẳng định “liên kết mạnh” cũng có giá trị tạo động lực, sẵn sàng để giúp đỡ nhau [7, tr.31; 64, tr.438]. Thông qua mạng lưới xã hội, “các cá nhân cũng như các nhóm xã hội có thể trao đổi, chia sẻ (cho và nhận) các thông tin, từ đó làm tăng cường sức mạnh cho mỗi cá nhân, nhóm và tồn xã hội” [43, tr.94]
Như vậy, lý thuyết mạng lưới xã hội nhấn mạnh mối quan hệ xã hội, trong đó các cá nhân phụ thuộc nhất định vào mạng lưới họ tham gia. Vận dụng lý thuyết mạng lưới xã hội trong nghiên cứu ứng xử với tin giả Covid-19, chú trọng phân tích mạng lưới xã hội trên MXH có thể thúc đẩy các cá nhân xây dựng, duy trì và phát triển các quan hệ trực tuyến. Từ đó, tìm hiểu các nhóm SV thực hiện trao đổi, khai thác thông tin, tương tác với tin giả Covid-19 như thế nào, đặc biệt xác định quá trình tương tác ấy phát triển trong các liên kết mạnh hay yếu của SV. Lý thuyết cũng giải thích các hành vi ứng xử giống hoặc khác nhau giữa các cá nhân trong cùng mạng lưới xã hội trước vấn nạn tin giả Covid-19 và xác định
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">sự ảnh hưởng của các mối quan hệ xã hội tới ứng xử của SV trong cách kiểm soát, ngăn chặn tin giả.
1.1.3. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về ứng xử đối với tin giả trên mạng xã hội
Để đảm bảo công chúng ứng xử chuẩn mực liên quan đến tin giả trên MXH, các hành vi được quy định trong Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng thuộc Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14 [37] và gần đây nhất là Bộ quy tắc ứng xử trên MXH số 874/QĐ-BTTTT ngày 17/06/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông; nổi bật Điều 4. Quy tắc ứng xử cho tổ chức, cá nhân liên quan vấn đề tin giả như sau: “(1) Tìm hiểu và tuân thủ các điều khoản hướng dẫn sử dụng của nhà cung cấp dịch vụ MXH trước khi đăng ký, tham gia mạng xã hội; (2) Chia sẻ những thơng tin có nguồn chính thống, đáng tin cậy; (3) Có các hành vi ứng xử phù hợp với những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt Nam; khơng sử dụng từ ngữ gây thù hận, kích động bạo lực, phân biệt vùng miền, giới tính, tơn giáo; (4) Không đăng tải những nội dung vi phạm pháp luật, các thông tin xúc phạm danh dự, nhân phẩm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân khác; sử dụng ngôn ngữ phản cảm, vi phạm thuần phong mĩ tục; tung tin giả, tin sai sự thật; quảng cáo, kinh doanh dịch vụ trái phép,... gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.” [4]
Ngồi ra, trong mùa dịch Covid-19, Thơng tấn xã Việt Nam nêu rõ, cần tỉnh táo trước “bẫy tin giả” trên MXH thông qua 6 hành vi: “(1) Không đăng tải những thông tin bịa đặt, xuyên tạc, sai sự thật, chưa được kiểm chứng dưới bất cứ hình thức nào, với bất kỳ động cơ, mục đích gì; (2) Khơng quay, chụp, bấm like, chia sẻ những clip, hình ảnh, bài viết, dịng trạng thái,... có nội dung tiêu cực, đi ngược lại ý chí và lợi ích chung của Đảng và nhân dân; (3) Chủ động nghiên cứu, trang bị kiến thức, pháp luật như Luật An ninh mạng, Bộ luật Hình sự, Luật An tồn thơng tin mạng,...; (4) Khi tiếp nhận thông tin (nhất là trên MXH), cần bình tĩnh, tỉnh táo, thận trọng để không trở thành nạn nhân của tin giả; (5) Tin tưởng vào thơng tin chính thống, xác thực do cơ quan chức năng,
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">báo chí, truyền hình cung cấp; (6) Tích cực tham gia phát hiện, tố giác với cơ quan chức năng thơng qua các nhóm cộng đồng trên không gian mạng để cảnh báo về tin giả” [87].
Thấy rằng, hành vi ứng xử tích cực thể hiện qua việc cần có thái độ kiên quyết, hành vi cảnh giác và phù hợp chuẩn mực, quy tắc đề ra, trở thành loại “vaccine đặc biệt” với tin giả khi dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp, góp phần xây dựng khơng gian mạng an tồn, lành mạnh với cơng chúng.
Bên cạnh ứng xử phù hợp thì các hành vi tung tin giả, lan truyền thông tin sai sự thật, xuyên tạc về dịch bệnh Covid-19 trên MXH đều vi phạm pháp luật; được quy định tại Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử: phạt tiền từ 10 đến 30 triệu đồng tùy theo hành vi và mục đích thực hiện [6]. Hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự mới mức phạt cao nhất là phạt tù 7 năm tại Khoản 1 Điều 288 Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017 về Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thơng [38].
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Thông tin về địa bàn nghiên cứu và mẫu khảo sát
Học viện Báo chí và Tuyên truyền với truyền thống 60 năm phát triển tiến tới trở thành cơ sở hàng đầu về lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ tư tưởng – văn hóa, báo chí – truyền thông tại Việt Nam. Với sứ mệnh nâng cao nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực trên, SV HVBCTT được tiếp thu tri thức, đặc biệt phương diện về truyền thơng – báo chí, thực hành nghiên cứu khoa học, trở nên vững vàng trong bản lĩnh chính trị, ứng xử văn minh trước các vấn đề xã hội, trong đó có tin giả Covid-19 trên MXH.
Tác giả đã tiến hành phỏng vấn trực tuyến đối với 382 SV HVBCTT, các đặc điểm cá nhân của người học được rút ra từ kết quả khảo sát như sau:
Về giới tính, nữ SV chiếm 68,8% (tương ứng 263 NTL) phù hợp đặc điểm tổng thể SV tồn trường, cịn nam SV đạt 31,2% (tương ứng 119 NTL).
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Về năm học, số lượng SV ít dần qua các năm, trong đó khóa K38 chiếm 19,9% SV năm tư đang theo học, tăng dần đến 30,9% là SV năm nhất thuộc khóa K40.
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ năm học HVBCTT (%)
Về khối học, Học viện phân các ngành thành hai khối, gồm 50,5% lý luận và 49,5% nghiệp vụ.
Đánh giá sự tham gia các chức vụ, tổ chức HVBCTT của SV cho thấy 30,1% SV đã, đang tham gia ít nhất một vị trí (tương đương 115 NTL) như Đoàn Thanh niên HVBCTT (14,7%) hay trong Ban cán sự lớp (10,2%), Ban chấp hành Chi đoàn (9,9%) và Liên chi đoàn (9,2%).
Liên quan tới dịch bệnh Covid-19, 74,6% bản thân SV hoặc gia đình họ đều trải qua từ 4 trường hợp trở lên như là F1 có nguy cơ nhiễm bệnh, F0 mắc bệnh Covid-19, từng thực hiện cách ly/giãn cách xã hội hay đủ/không đủ điều kiện tiêm vaccine.
1.2.2. Sử dụng mạng xã hội và tiếp cận thông tin Covid-19 trên mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Sử dụng MXH ngày nay trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi người. Trong đó, Facebook là MXH được sử dụng nhiều nhất (98,2%), 23,1% NTL sử dụng ít nhất 2 MXH và 76,4% truy cập MXH hàng ngày [1]. Những con số tiếp tục tăng dần qua các năm, đến năm 2022 Việt Nam chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của MXH khi có tới 78,1% người dùng so với tổng dân số nước ta [70].
Không phải ngoại lệ, 100% SV HVBCTT tham gia khảo sát đều đang sử dụng các MXH và trung bình có hơn 4 tài khoản, Facebook nổi bật là trang được lựa chọn sử dụng nhiều nhất (99,7%). Trên nền tảng MXH hoạt động nhiều nhất,
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">SV sở hữu khoảng 500 bạn bè và tiếp cận thông tin thường xuyên trên dưới 10 hội nhóm/fanpage, giúp hình thành và duy trì những mối quan hệ xã hội, tương tác, trao đổi thông tin hàng ngày.
Số lượng sử dụng MXH đông đảo cùng với liên kết mạng lưới xã hội trên MXH rộng rãi thì việc tiếp cận thơng tin Covid-19 trực tuyến của SV HVBCTT trở nên vô cùng dễ dàng. Khảo sát cho thấy, trong 12 tháng qua 99,5% SV có tiếp cận thơng tin Covid-19 (tương ứng 380 SV) trên các nền tảng trực tuyến, trong đó hơn 1/2 tiếp cận tích cực ở mức rất thường xuyên.
Lượng lớn SV đã nghe, xem, đọc,... tin tức về dịch bệnh qua việc theo dõi trên các trang (fanpage) chính thống thuộc cơ quan chức năng, quản lý Việt Nam (75,5%). Một số các trang cá nhân, fanpage quốc tế hoặc người nổi tiếng, có sức ảnh hưởng khơng phải lựa chọn ưu tiên trong thời điểm dịch bệnh, cho thấy SV HVBCTT đang lựa chọn tiếp cận các nguồn tin chính thống, đáng tin cậy. Kết quả phân tích thể hiện trong biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 1.2. Kênh tiếp cận thông tin Covid-19 trên MXH của SV (%)
Ngồi ra, gia đình, người thân (66,3%) hay bạn bè, đồng nghiệp (51,6%) cũng giữ vị trí quan trọng trong kênh tiếp cận, đây được xem là các “liên kết mạnh” tương tác bền vững, thân thiết từ ngồi đời đến khơng gian ảo. Khẳng định MXH được đón nhận từ SV qua tỷ lệ đông đảo lựa chọn MXH tiếp cận thơng tin đại dịch và là nơi mọi người có thể tương tác, trao đổi cập nhật nhanh chóng, linh hoạt các tin tức Covid-19 từ đa dạng các mạng lưới trực tuyến. <small>Trang cá nhân, fanpage quốc tếThầy cơ, fanpage thuộc HVBCTTNhóm, fanpage trong nướcBạn bè, đồng nghiệpGia đình, người thânFanpage chính thống thuộc CQCNQL</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">1.2.3. Tiếp cận tin giả Covid-19 trên mạng xã hội của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
1.2.3.1. Khả năng tiếp cận và quan điểm về cách thức lan truyền tin giả Covid-19 trên mạng xã hội của sinh viên
MXH là một trong những kênh công chúng thu thập, theo dõi thông tin Covid-19. Đánh giá mức độ tin cậy của các thông tin Covid-19 tiếp cận trên MXH, 100% SV HVBCTT thể hiện sự tin tưởng nhất định vào thông tin dịch bệnh (gồm 380 NTL); trong đó hơn 40% là tỷ lệ SV chưa tin hẳn và vẫn cịn hồi nghi, chỉ khoảng 17% hồn tồn tin tưởng. Đây là tín hiệu tích cực của lối ứng xử cần thiết trong bối cảnh tin giả Covid-19 lan rộng trên không gian mạng. SV có tiếp cận thơng tin về Covid-19 trên MXH đã từng thấy tin tức về dịch bệnh được đăng tải trên MXH và sau đó phát hiện là giả chiếm 94,5% tổng sổ (tương ứng 361 NTL), đồng thời đạt mức 3,3/5 ĐTB (trong đó, 0: khơng bao giờ – 5: bắt gặp rất thường xuyên). Số liệu trên phản ánh phần nào khả năng tiếp cận tin giả Covid-19 của NTL trở thành thường lệ trong hơn 2 năm qua; đồng thời khẳng định sự lan truyền mạnh mẽ của tin giả Covid-19 trên MXH.
Do đó, khảo sát trang mạng có phổ biến tin giả, SV cho rằng họ nhận được tin giả về dịch bệnh trên Facebook là nhiều nhất chiếm 88,6%, tỷ lệ này ở Zalo xuất hiện chỉ với 0,6%, cuối cùng là Instagram 0% lựa chọn (biểu đồ 1.3).
Biểu đồ 1.3. Tần suất các MXH lan truyền tin giả Covid-19 (%)
Tỷ lệ chênh lệch lớn giữa Facebook với các nền tảng khác khi so sánh tần suất lan truyền tin giả Covid-19 phụ thuộc nhiều vào tính năng, số lượng người dùng, thời gian, mục đích,... Facebook hình thành sớm, được cơng chúng “ưu ái”
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">và đặc biệt những thuật toán của trang mạng này được thiết kế để xuất hiện nội dung quảng cáo mà người dùng có nhiều khả năng tương tác nhất, tạo không gian lý tưởng lan tỏa tin giả [82].
Do vậy, khi tìm hiểu về cách thức lan truyền tin giả Covid-19 trên MXH, 95,3% SV HVBCTT trong số người từng tiếp cận tin giả lựa chọn “người dùng like/ comment/ share/ nhắn tin/ tìm kiếm nội dung liên quan/ tương tự tin giả” sẽ khiến tin tức giả mạo đó phát tán. Trong khi truyền thông đại chúng có xu hướng truyền thơng một chiều, hiển thị những gì mà báo chí, phát thanh,... muốn công chúng phải được tiếp cận thì MXH “trưng bày” mọi thứ và người dùng có thể chọn những gì họ thích, đọc những gì họ muốn. Điều này dựa trên cơ chế “thiên kiến” của người dùng MXH, họ trở nên chủ quan, dần tiếp thu những thông tin bản thân cho rằng đúng và nó có thể xuất hiện thường xuyên trên trang cá nhân nhờ thuật tốn cơng nghệ, như chia sẻ của một bạn SV:
“Mình nghĩ trong máy điện thoại của ai từ người trẻ, trung niên, thậm chí là những cơ bác đã lớn tuổi đều có Facebook,... Chắc ai dùng Facebook thì đều ít nhất một lần gặp tin giả Covid-19 từ chính đối tượng tung tin hoặc qua các cá nhân, page chia sẻ lại, vì ngồi tiếp cận thơng tin từ những người tin cậy thì Facebook là nơi có rất rất nhiều luồng thơng tin khác nhau về dịch bệnh, thậm chí mình khơng kết bạn, theo dõi thì ví dụ bạn mình thích, theo dõi nó cũng hiện
(PV5_Nam_Năm 3_Nghiệp vụ) Ngoài ra, 87% SV đồng ý “nhiều ý kiến ủng hộ tin tức đó đúng, củng cố thêm niềm tin vào tin giả Covid-19” và 81,4% lựa chọn “là thành niên các hội nhóm, fanpage có khả năng đăng tải tin giả” tạo nên một trong ba cơ chế lan truyền mạnh mẽ của tin giả trên MXH – cơ chế “cộng đồng chia sẻ”. Trước tình hình dịch bệnh nghiêm trọng, tâm lý chung của người dân là muốn chia sẻ và được chia sẻ; tham gia các nhóm chat, thảo luận trên MXH có thể củng cố thêm niềm tin vào những thông tin sai lệch nếu thành viên trong nhóm đăng tải, đặc biệt là các nhóm được hình thành từ mối quan hệ khăng khít như gia đình, đồng nghiệp, đồng hương,... Đơn cử tin giả về cơng tác phịng, chống dịch của huyện
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Bình Chánh 2021 [78] trên trang Facebook xuất hiện nội dung “Bắc thang lên hỏi ơng trời chứ tiền hỗ trợ có địi được khơng” thu hút nhiều lượt tương tác, các tài khoản trong nhóm suy diễn, quy chụp; chính cơ chế “cộng đồng chia sẻ” đã tạo dư luận không tốt với cơ quan chức năng tại huyện, thành phố Hồ Chí Minh. Cuối cùng là một cơ chế có thể định hướng dư luận với 77,6% SV đồng ý cơ chế “nghe nhiều thành đúng”. Nếu như các thông tin liên quan/ tương tự tin giả Covid-19 trở nên quen thuộc và được tiếp cận như thói quen sẽ khiến việc phát tán tin giả vô cùng dễ dàng, một thông tin dù sai nhưng được nhắc đi nhắc lại thì có thể trở thành một thơng tin đúng, ăn sâu trong tiềm thức. Ví dụ khi tiếp cận thường xuyên thông tin trên các nền tảng MXH của tổ chức phản động như Việt Tân, Nhật ký yêu nước,... chắc chắn gia tăng tần suất hiển thị tin giả Covid-19 trên trang cá nhân, từ đó người dùng nếu khơng có tư tưởng chính trị vững vàng rất dễ bị dắt mũi theo hướng tiêu cực, không phân biệt được tin thật hay giả và đánh giá tình hình dịch bệnh hoặc vai trị của Đảng, Nhà nước ta sai lệch.
1.2.3.2. Sinh viên đánh giá nội dung, nguyên nhân xuất hiện tin giả Covid-19 trên mạng xã hội
Dịch bệnh Covid-19 là chủng mới, giai đoạn đầu thiếu cơ sở khoa học để có thể chứng minh tính đúng đắn của nhiều thông tin, tạo cơ hội phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc với bất kỳ mục đích ảnh hưởng đến cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, người học bắt gặp phần lớn là tin giả liên quan tới phương pháp điều trị không thuộc chỉ dẫn của Bộ Y tế (3,58 điểm) và diễn biến dịch bệnh tại các điểm nóng (3,37/5 điểm đánh giá mức độ thường xuyên tiếp xúc các nội dung tin giả) (xem thêm bảng 1.1 tại phụ lục 3).
SV HVBCTT nhấn mạnh “sự thiếu hiểu biết cách sử dụng, khai thác thông tin/ phương tiện truyền thông” dẫn tới tình trạng tin giả về dịch bệnh xuất hiện tràn lan với 79,4% lựa chọn (biểu đồ 1.4). Các MXH bên cạnh là khơng gian giải trí, tương tác với bạn bè, cập nhật xu hướng,... thì ln được nhắc nhở cần sử dụng một cách hiệu quả và thông minh. Việc thiếu kiến thức về cách khai thác thông tin trên nền tảng trực tuyến sẽ thúc đẩy tin giả được lan truyền theo cấp số nhân, nổi bật trong PVS của một SV:
</div>