Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.49 MB, 44 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
<b>KHOA LUẬT KINH TẾMôn: LUẬT LAO ĐỘNG.</b>
<b>Lớp: 231LD0205</b>
<b>Giảng viên: ThS. Trần Nguyễn Quang Hạ.</b>
<b>Đề tiểu luận: Khung pháp lý về người lao động khuyết tật</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>5</b> Bùi Thị Thúy Kiều
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>3.2. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu...6</b>
<b>4. Kết quả nghiên cứu...6</b>
<b>B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI...8</b>
<b>CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT....8</b>
<b>1.1. Người khuyết tật...8</b>
<b>1.2. Lao động là người khuyết tật...9</b>
1.2.1. Khái niệm:...9
1.2.2. Tính đặc thù của người lao động khuyết tật:...10
<b>1.3. Khung pháp lý điều chỉnh về lao động là người khuyết tật...11</b>
1.3.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh pháp luật về lao động là người khuyết tật:...11
1.3.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về lao động là người khuyết tật...12
<b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...14</b>
<b>2.1. Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam...14</b>
2.1.1. Khái quát sơ lược về quá trình phát triển những quy định của Pháp luật đối với người lao động khuyết tật:...14
2.1.2. Chính sách chung của Nhà nước đối với lao động là người khuyết tật:...16
<b>2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam...19</b>
2.2.1. Đảm bảo quyền lao động cho người khuyết tật:...19
2.2.2. Đảm bảo bình đẳng và khơng phân biệt đối xử về khuyết tật:...22
2.2.3. Bảo hộ lao động đối với lao động là người khuyết tật:...25
2.2.4. Cơ chế đảm bảo thực thi quy định pháp luật về điều chỉnh về lao động là người khuyết tật:...26
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>2.3. Đánh giá thực trạng và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về lao động là người </b>
<b>khuyết tật ở Việt Nam...27</b>
2.3.1. Thực trạng về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam:...27
2.3.2. Đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về người lao động khuyết tật:...28
2.3.3. Đánh giá việc thực hiện pháp luật về người lao động khuyết tật tại Việt Nam trong thực tiễn:...32
<b>CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM...35</b>
<b>3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật...35</b>
3.1.1. Về mặt khách quan:...35
3.1.2. Về mặt chủ quan:...35
<b>3.2. Các đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam</b> ...36
<b>LỜI CẢM ƠN</b>
Qua việc nghiên cứu đề tài trên, nhóm đã có những cái nhìn cụ thể, khách quan hơn về khung pháp lý về người lao động khuyết tật. Trong q trình nghiên cứu đề tài, nhóm khơng thể tránh khỏi những sai sót, kính mong Thầy có thể cho nhóm những góp ý chân thành nhất để nhóm có thể rút kinh nghiệm cho những bài tiểu luận sau.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Quang Hạ - giảng viên môn Luật lao động đã đem lại nhiều kiến thức mới mẻ, đồng thời đã tạo điều kiện cho chúng em làm bài tiểu luận này. Đây chính là cơ hội cho chúng em có cái nhìn tổng quan nhất về quy định pháp luật liên quan đến đề tài. Những kiến thức hữu ích này sẽ là hành trang vững chắc để chúng em có thể học tốt những mơn học sau.
Chúng em một lần nữa gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy. Chúc Thầy và gia đình ln ln mạnh khỏe, đạt được thật nhiều thành công và may mắn trong công việc cũng như cuộc sống. Chúng em mong có cơ hội lại được Thầy giảng dạy và hướng dẫn lần nữa.
Xin trân trọng cảm ơn Thầy!
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>A. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI1. Tính cấp thiết</b>
Có thể thấy trong sự phát triển của nền kinh tế của một quốc gia thì người lao động đóng một vai trị rất quan trọng dù trong thời kỳ hay trong bối cảnh xã hội nào. Bởi lẽ, họ là đối tượng chủ yếu của hoạt động sản xuất và tạo ra của cải vật chất để phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt đời sống cho các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy quyền lợi và các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi của họ luôn là một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt.
Trong một xã hội sẽ luôn tồn tại nhiều cá thể riêng biệt khác nhau. Sự khác biệt có thể xuất phát từ tính cách, ngoại hình, địa vị xã hội, nghề nghiệp hoặc cũng có thể xuất phát từ tình trạng vật lý, cơ thể của họ. Đó có thể những người khuyết tật do bẩm sinh hoặc xảy ra bởi một tai nạn trong quá trình sinh hoạt, học tập và làm việc của họ, tuy nhiên đó sẽ khơng phải là một cản trở về mặt pháp lý hay xã hội nếu họ muốn thực hiện những hoạt động của cuộc sống như những người xung quanh và trong quan hệ lao động cũng không ngoại lệ. Một người khuyết tật có khả năng lao động thì họ hồn tồn được tham gia vào q trình sản xuất, tạo ra của cải vật chất cho bản thân, gia đình hay cộng đồng.
Song tình hình xã hội và kinh tế của Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang có nhiều biến động theo chiều hướng tiêu cực khi mà đã có hàng loạt cuộc sa thải, cắt giảm nhân sự diễn ra và nhiều người phải rơi vào tình trạng thất nghiệp thì các quy định Pháp luật về lao động và giải quyết việc làm cho người lao động lại vẫn còn nhiều điểm hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Bên cạnh đó, trong q trình hồn thiện Pháp luật lao động không thể bỏ qua đối tượng là người lao động khuyết tật vì họ vẫn đang chịu những thiệt thịi về vị trí nghề nghiệp, tiền lương, điều kiện lao động,.. những điều đó sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng và vị trí của họ trong xã hội nói chung và quan hệ lao động nói riêng. Việc hoàn thiện khung pháp lý về người lao động khuyết tật là một trong những vấn đề cấp thiết vì điều này sẽ giúp đảm bảo đầy đủ các quyền của một người khuyết tật khi tham gia vào các quan hệ xã hội không chỉ là quan hệ lao động cũng như giúp tạo ra sự bình đẳng trong xã hội, việc một người khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể sẽ không tước đi quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc của họ.
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm quyết định chọn đề tài “Khung pháp lý về người lao động khuyết tật” để nghiên cứu và phân tích để đưa ra các góc nhìn khách quan và chặt chẽ về vấn đề được nêu trên.
<b>2. Phương pháp nghiên cứu </b>
Phương pháp phân tích tổng hợp: Tổng hợp những bài nghiên cứu hoặc những mơ hình lý thuyết trước đó về “Khung pháp lý về người lao động khuyết tật”, sau đó thực hiện phân tích và lựa chọn lý thuyết phù hợp nhất với bài tiểu luận.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Phương pháp sử dụng dữ liệu thứ cấp: Sử dụng các bài viết, phân tích dưới nhiều góc nhìn, góc tiếp cận khác nhau để tìm góc nhìn phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị - xã hội của Việt Nam.
Phương pháp phân tích luật viết: Tìm hiểu quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến người lao động khuyết tật, thơng qua đó, nghiên cứu và phân tích đề tài.
<b>3. Tình hình nghiên cứu</b>
Trong q trình nghiên cứu đề tài “Khung pháp lý về lao động khuyết tật”, nhóm đã tiến hành tìm hiểu, phân tích những nghiên cứu liên quan đến các quy định về lao động khuyết tật tại Việt Nam, từ đó đưa ra những đánh giá khái quát về tình hình nghiên cứu.
<b>3.1. Một số nghiên cứu</b>
- Hà Thị Lan (2014), Bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp:
Đề tài này đã nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thi hành các quy định về lao động liên quan đến việc bảo đảm các quyền cho lao động là người khuyết tật tại Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chỉ mới đi sâu vào phân tích các cơ chế để bảo vệ quyền lợi mà Nhà nước, pháp luật quy định dành cho đối tượng này chứ chưa làm rõ vấn đề đánh giá sự hợp lý trong các quy phạm pháp luật hiện hành đối với lao động là người khuyết tật.
- Phạm Thị Thanh Việt (2009), Pháp luật về lao động tàn tật của Việt Nam: Nghiên cứu phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật đối với lao động là người tàn tật. Từ đó, rút ra những kết luận cần thiết trong vấn đề pháp lý đối với lao động tàn tật, cũng như áp dụng có hiệu quả chúng trong thực tiễn đời sống.
- Trần Thị Tú Anh (2014), Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam hiện nay:
Đây là cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực giải quyết việc làm cho lao động là người khuyết tật. Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm dành cho đối tượng lao động này, đồng thời đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn trong vấn đề việc làm của lao động là người khuyết tật. Tuy nhiên, cơng trình khoa học này chỉ mới đề cập đến quá trình đánh giá, giải quyết nhu cầu có việc làm cho người khuyết tật. Đề tài không nghiên cứu vấn đề đảm bảo các quyền cho người lao động khuyết tật trong quá trình lao động, giải quyết các mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và lao động là người khuyết tật trong quan hệ lao động.
- Đỗ Thị Tố Trinh (2016), Pháp luật về lao động là người khuyết tật:
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Đề tài đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về lao động là người khuyết tật và pháp luật điều chỉnh, đánh giá thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật, góp phần hồn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về lao động là người khuyết tật.
- Đặng Đức San, Hỏi - Đáp Chính sách pháp luật về người khuyết tật, NXB. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2012:
Cuốn sách giới thiệu các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách của Nhà nước và thành phố Hà Nội đối với người khuyết tật liên quan đến các lĩnh vực như giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hoá, thể dục, thể thao,, tuyên truyền, bảo trợ xã hội, v.v…
- Nguyễn Thị Quế (2015), Quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam: Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền làm việc của người khuyết tật ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng cũng như thực tiễn áp dụng, làm sáng tỏ những bất cập, đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam.
- Phạm Thị Thanh Tâm (2019), Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay:
Đề tài đã làm sáng tỏ, bổ sung thêm ý nghĩa của hệ thống lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật về lao động là người khuyết tật và thực tiễn thực hiện các quy định đó, đưa ra những giải pháp góp phần hồn thiện về mặt pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.
<b>3.2. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu</b>
Các cơng trình trên được nghiên cứu kỹ lưỡng, có hệ thống về các khía cạnh khác nhau trong pháp luật về lao động đối với người khuyết tật. Tuy nhiên, mỗi đề tài chỉ phân tích chuyên sâu, làm rõ nội dung của một hoặc một số vấn đề trong chế định pháp luật dành cho người lao động khuyết tật mà chưa có sự đánh giá một cách khái quát, tổng quan về hệ thống pháp luật áp dụng đối với lao động là người khuyết tật, các hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, nhóm lựa chọn đề tài “Khung pháp lý về lao động khuyết tật” nhằm tổng hợp những ý kiến, quan điểm về quy định lao động là người khuyết tật, đồng thời đưa ra những đề xuất giúp hoàn thiện pháp luật về lao động người khuyết tật tại Việt Nam.
<b>4. Kết quả nghiên cứu</b>
Qua quá trình khảo sát về tình hình nghiên cứu, nhóm đã nhận thấy vấn đề về khung pháp lý về người lao động khuyết tật được quan tâm và được một số tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ về kinh tế, xã hội và pháp lý khác nhau, tuy nhiên số lượng vẫn cịn chưa nhiều và thực tiễn tình trạng lao động khuyết tật tại Việt nam hiện nay vẫn chưa có sự khác biệt vượt bậc so với trước đây. Có vẻ như vẫn chưa có một sự nghiên cứu một cách chuyên sâu và
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">đầy đủ về vấn đề khung pháp lý cho người lao động Việt Nam, cũng như chưa có sự so sánh về pháp luật nước ngồi với Việt Nam để nhìn nhận và học hỏi.
Các cơng trình được nghiên cứu cơng phu, có hệ thống chặt chẽ, tuy nhiên mỗi cơng trình chỉ tập trung vào một hoặc một số đề tài về người lao động khuyết tật theo pháp luật mà chưa có sự đánh giá việc áp dụng đối với thực tiễn và so sánh với hệ thống pháp luật nước ngồi. Tóm lại, người lao động khuyết tật là một phần trong cơ cấu lực lượng lao động cả nước, vậy nên giải quyết vấn đề khung pháp lý về người lao động khuyết tật mang tính cấp thiết và cần nhận được sự quan tâm. Vậy nên, nhóm đã thực hiện đề tài “Khung pháp lý về người lao động khuyết tật” một cách tổng quan và đánh giá việc áp dụng pháp luật về người lao động khuyết tật trong thực tiễn Việt Nam, những hạn chế còn tồn đọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động khuyết tật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI</b>
<b>CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT</b>
<b>1.1. Người khuyết tật</b>
Khi nhắc đến người khuyết tật thì chúng ta có thể nơm na hiểu rằng họ sẽ khiếm khuyết một hoặc một vài phần trên cơ thể liên quan đến các gian quan hoặc khuyết tật về trí tuệ, thần kinh mà điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện các hoạt động sinh hoạt trong đời sống của họ. Pháp luật Việt Nam cũng tiếp cận theo hướng căn cứ theo tình trạng vật lý, cơ thể của một người để đưa ra định nghĩa về người khuyết tật tại khoản 1, Điều 2 Luật Người khuyết tật, cụ thể như sau “người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện duới dạng tật khiến cho lao đô eng, sinh hoạt, học tâ ep gă ep khó khăn” và cũng theo Điều 2 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật thì khuyết tật bao gồm: khuyết tật vận động, khuyết tật nghe, nói, khuyết tật nhìn, khuyết tật thần kinh, tâm thần, khuyết tật trí tuệ và khuyết tật khác. Có thể thấy, mỗi dạng khuyết tật sẽ mang những đặc thù riêng và có ảnh hưởng khác nhau liên quan đến việc sinh hoạt, lao động, học tập, làm việc của một cá nhân, ví dụ như một người khuyết tật vận động thì họ sẽ bị hạn chế về việc thực hiện các hoạt động tay chân hay các hoạt động đi lại thường ngày, người khuyết tật nghe nói thì họ sẽ gặp những cản trở về việc giao tiếp xã hội với mọi người xung quanh khi mà việc tiếp nhận và trao đổi thông tin của họ cần có những thiết bị hỗ trợ để có thể thực hiện chức năng giao tiếp,...
Khái niệm về sự khuyết tật là một khái niệm mở và được phát triển, cập nhật theo thời gian và tình hình xã hội, do đó hầu hết các nước trên thế giới tham gia Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật đều có chung tinh thần rằng sự khuyết tật là một khái niệm luôn tiến triển và sự khuyết tật xuất phát từ sự tương tác giữa người có khuyết tật với những rào cản về môi trường và thái độ, những rào cản này phương hại đến sự tham gia đầy đủ và hữu hiệu của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác . Nếu như Luật Người khuyết tật sẽ<small>1</small> tiếp cận khái niệm người khuyết tật dưới góc độ y tế thì trong cơng ước quốc tế sẽ tiếp cận dưới góc độ xã hội. Theo đó thì người khuyết tật người được tiếp cận kết hợp giữa sự khiếm khuyết và các yếu tố môi trường trong tương quan quyền của người khuyết tật, quan điểm khuyết tật theo quan điểm xã hội là một trong những yếu tố quan trọng giúp tìm ra phương pháp, cách thức để giải quyết các nguyên nhân, vấn đề dẫn đến việc phân biệt đối xử, tách biệt người khuyết tật ra khỏi cộng đồng trong khi họ vốn dĩ là một cá thể tồn tại độc lập trong xã hội.
1 Khoản e Lời nói đầu Cơng ước về quyền của người khuyết tật ngày 13/3/2007
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>1.2. Lao động là người khuyết tật</b>
1.2.1. Khái niệm:
Lao động được hiểu nguyên gốc với nghĩa là làm việc, bao gồm cả lao động tay chân và làm việc trí óc, bao gồm tất cả hoạt động làm việc của con người có hay khơng có mục đích nhằm mang lại hay khơng mang lại lợi ích vật chất. Ngày nay, con người lao động không chỉ tạo ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu mà cịn sử dụng nó như một công cụ tạo ra thu nhập ổn định đời sống vật chất, tinh thần. Tuy nhiên, với cách hiểu này thì khái niệm lao động lại quá rộng, cần xem xét và chọn lọc để chỉ xác định và xây dựng các khung nguyên tắc, trường hợp lao động cụ thể.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật việc làm 2013: “ Người lao động là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc”. Và Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định:"Người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động”. Từ đó, khơng phải bất cứ một người nào cũng được xem là người lao động mà phải đáp ứng đủ các điều kiện theo pháp luật quy định về năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động.
Theo Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948 của Đại hội đồng Liên hợp Quốc: “ Mỗi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp”. Do đó với khái niệm người khuyết tật đã đề cập ở trên, họ vẫn được nhìn nhận là một cá nhân vẫn được nhận các quyền này một cách chính đáng đặc biệt là trong khía cạnh về lao động. Đơn giản để trở thành một người lao động khuyết tật, họ cũng phải thỏa các yêu cầu, trước tiên là đầy đủ các yếu tố của một người lao động bình thường. Tuy nhiên, đối tượng này sẽ mang một số đặc điểm riêng biệt đối với người bình thường nên chúng ta cần có khái niệm một cách rõ ràng, khái quát hơn về người lao động khuyết tật.
Thứ nhất, về độ tuổi. Theo quy định của Bộ luật lao động 2019 và Nghị định 148/2018/NĐ-CP, người khuyết tật để trở thành một người lao động, được thực hiện các quyền như tham gia ký kết hợp đồng lao động thì phải thỏa mãn các điều kiện: (i) Người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên; (ii) Người lao động chưa thành niên từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi và có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện pháp luật của người lao động; (iii) Người lao đơmhj được những người lao động trong nhóm ủy ủy quyền hợp pháp giao kết hợp đồng.
Thứ hai, phải có khả năng lao động. Căn cứ theo Điều 3 Luật Người khuyết tật 2010 được hướng dẫn sửa đổi theo điều 18 Nghị định 140/2018 NĐ-CP thì dựa vào mức độ khuyết tật, người khuyết tật được chia thành 3 nhóm: người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng và người khuyết tật nhẹ. Vì vậy cứ khơng phải nhắc đến người khuyết tật là
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">cho rằng họ bị mất hết khả năng lao động mà tùy vào từng nhóm mà họ chỉ bị khuyết một hay một số bộ phận nào đó, tuy nhiên nó khơng ảnh hưởng hoàn toàn đến khả năng lao động cũng như chỉ hạn chế một phần nào đó trong việc sinh hoạt, làm việc trong đời sống hằng ngày. Điều này đồng nghĩa với việc ngoại trừ những người khuyết tật được cơ quan có thẩm quyền xác định có mức độ khuyết tật làm suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên thì vẫn có đầy đủ quyền tham gia lao động.
Thứ ba, tham gia vào quan hệ lao động. Điều này được thể hiện thông qua việc ký kết hợp đồng lao động hợp pháp giữa người sử dụng lao động và người lao động. Từ đó người lao động thực hiện công việc một cách hiệu quả và người sử dụng lao động trả cho họ một khoản tiền công tương ứng.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra một kết luận: “Người lao động khuyết tật là người từ đủ 15 tuổi trở lên, khiếm khuyết một hoặc một số bộ phận nhưng vẫn đảm bảo khả năng lao động, làm việc và được trả lương theo hợp đồng dưới sự điều hành và quản lý của người sử dụng lao động”
1.2.2. Tính đặc thù của người lao động khuyết tật:
Lao động đặc thù là những lao động có đặc điểm riêng về thể chất, tinh thần, chức năng sinh học,... cũng như thái độ nhìn nhận của xã hội như người chưa thành niên, người khuyết tật, phụ nữ mang thai, người cao tuổi,... nhưng trong số các thành phần đặc thù đó thì người khuyết tật là đối tượng kém may mắn và gặp nhiều trở ngại, khó khăn nhất trong quan hệ lao động.
Thứ nhất, hạn chế về sức khỏe và khả năng lao động:
Việc bị hạn chế một số bộ phận cũng như chức năng của cơ thể đặc biệt là khi tham gia lao động, người khuyết tật rất hạn chế về khả năng lao động cũng như không thể đảm nhận các công việc nặng nhọc hoặc các công việc tiếp xúc với những chất độc hại ảnh hưởng nghiêm trọng đến các khiếm khuyết của bản thân. Do khả năng phục hồi sức khỏe của họ so với người bình thường ắt hẳn cần một khoảng thời gian dài hơn đáng kể, chưa kể việc làm trong các môi trường độc hại, cơng việc mang tính nặng nhọc nguy hiểm cũng dễ dẫn đến nguy cơ gây tai nạn nghề nghiệp và dẫn đến mất hoàn toàn khả năng lao động.
Thứ hai, yêu cầu về cơ sở vật chất và công nghệ đặc biệt:
Như đã đề cập ở phần khái niệm, người khuyết tật gặp khá nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình di chuyển, sinh hoạt. Thế nên, một số người lao động khuyết tật có thể cần cơ sở vật chất và công nghệ đặc biệt để hỗ trợ trong công việc hàng ngày. Điều này bao gồm việc có các thiết bị hỗ trợ, phương tiện đi lại thuận tiện, hoặc sự điều chỉnh về môi trường làm việc như các thiết bị hỗ trợ y tế: xe lăn, máy trợ thính,...
Thứ ba, cần sự hỗ trợ và đào tạo đặc biệt:
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Người lao động khuyết tật có thể cần sự hỗ trợ và đào tạo đặc biệt để làm việc hiệu quả. Điều này có thể bao gồm cả việc giáo dục cộng đồng về việc làm việc với người khuyết tật.
Thứ tư, quy định pháp luật và chính sách hỗ trợ:
Các quy định pháp luật và chính sách hỗ trợ cho người lao động khuyết tật có thể thay đổi tùy quốc gia, nhưng đơi khi có những điều kiện đặc biệt để bảo vệ quyền lợi và đảm bảo cơ hội bình đẳng trong lĩnh vực lao động.
Mặc dù người lao động khuyết tật phải đối mặt với những thách thức này, nhưng với sự hỗ trợ và chính sách thích hợp, họ vẫn có thể đóng góp tích cực vào xã hội và kinh tế.
<b>1.3. Khung pháp lý điều chỉnh về lao động là người khuyết tật</b>
1.3.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh pháp luật về lao động là người khuyết tật: Khi nhắc đến khái niệm lao động người khuyết tật, mọi sự tư duy, hiểu biết đều rất mờ nhạt và có thể xem là rất ít được nhắc đến trong xã hội. Vì thế cần có một khung pháp lý nhất định được đưa ra, một chính sách phúc lợi, nhân đạo đối với nhóm đối tượng này để họ được cơng nhận một cách bình đẳng, cơng bằng như những đối tượng lao động khác. Tuy vậy, những khiếm khuyết về thể chất, tinh thần hoặc giác quan của đối tượng này sẽ ít nhiều sẽ gây tác động, cản trở không nhỏ đến việc tham gia vào thị trường lao động của lao động là người khuyết tật nên việc điều chỉnh pháp luật về lao động là người khuyết tật là hết sức cần thiết. Điều này nhằm:
Thứ nhất, đảm bảo quyền được sống và làm việc trong một môi trường xã hội công bằng, bảo vệ người lao động khuyết tật. Quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ bởi hệ thống pháp luật. Và quyền lao động cũng là một trong những quyền cơ bản mà con người vốn dĩ nhận được. Theo quy định tại điều 35 Hiến pháp Việt Nam 2012 cho rằng: “1. Cơng dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc; 2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc cơng bằng, an tồn; được hưởng lương, chế đơ ‹ nghỉ ngơi; 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Như vậy, có thể thấy, mọi cơng dân đều có quyền được lao động, kể cả người khuyết tật. Tuy nhiên, thực tế có nhiều bằng chứng cho thấy người lao động khuyết tật gặp rất nhiều bất lợi trên thị trường lao động. Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp khá cao, vì thế có thể nói cơ hội làm việc đối với người khuyết tật là khả năng rất thấp, họ bị đứng ngồi vịng quay của việc tuyển dụng cũng như hoạt động trên thị trường lao động này bởi các nhà tuyển dụng thấy được những rào cản cũng như hạn chế mà người khuyết tật mang lại. Hơn nữa, chắc chắn đối với một bên yếu thế như người khuyết tật thì họ sẽ bị phân biệt đối xử, dễ bị xâm phạm đến các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Chính vì lẽ đó, việc ban hành một cơ chế pháp luật riêng biệt để bảo vệ lao động là người khuyết tật
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">là một điều vơ cùng cần thiết. Tại Việt Nam, ngồi những pháp luật riêng biệt nhằm bảo vệ quyền của người khuyết tật thì pháp luật lao động cũng có những quy định cụ thể để tìm kiếm việc làm một cách dễ dàng hơn. Bên cạnh đó cịn ban hành các quy định cấm đối với doanh nghiệp không được ngược đãi, phân biệt đối xử với người lao động là người khuyết tật. Các quy định này đều được đảm bảo thực hiện bởi quyền lực Nhà nước nhằm tăng cơ hội làm việc cũng như khả năng vươn lên làm chủ chính mình, tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho bản thân, giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Thứ hai, tạo ra hành lang pháp lý vững chắc bảo vệ người lao động là người khuyết tật, là cơ sở để cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động và cũng là một trong những chức năng quan trọng của nhà nước. Bởi vì một khi pháp luật quốc gia được xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà người khuyết tật đang phải gánh chịu, xóa bỏ các rào cản khiến người khuyết tật bị tách biệt ra bên ngoài xã hội, đồng thời tăng cường các cơ hội việc làm bình đẳng cho họ thì chính là đang được Nhà nước chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần.
1.3.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về lao động là người khuyết tật Thứ nhất, đảm bảo quyền lao động cho người khuyết tật:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 159 Bộ luật Lao động 2019 quy định “Người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của người lao động là người khuyết tật khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ”. Người khuyết tật dưới góc độ quyền con người có các quyền cơ bản: quyền được sống, được hưởng thụ các quyền cơ bản như nhau. Nói chung người lao động khuyết tật hồn tồn có khả năng học tập, lao động, cống hiến cho xã hội, xứng đáng nhận lại những lợi ích mà họ đáng được có. Ở đây, tuy họ khác với những người bình thường về nhiều mặt như trí lực, thể lực và nhiều đặc điểm khá nhưng họ đều có giá trị và tầm quan trọng như nhau, cần được quan tâm và tơn trọng như nhau. Vì vậy pháp luật Việt Nam đặt ra quy định rằng người sử dụng lao động phải dựa trên tinh thần ý chí như nguyện cũng như đặt lợi ích của những người khuyết tật này lên trên. Tuy nhiên, đâu đó vẫn cịn diễn ra tình trạng chèn ép người lao động khuyết tật. Do đó nhiều quốc gia nói chung cũng như Việt Nam nói riêng hiện nay đã có nhiều biện pháp, công cụ như hỗ trợ việc làm, hỗ trợ tài chính, cung cấp các dịch vụ miễn phí, ưu đãi việc làm thơng qua áp dụng chính sách định mức,... nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất có thể để người lao động khuyết tật được đảm bảo các quyền về lao động.
Thứ hai, bảo hộ lao động đối với lao động là người khuyết tật:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 159 Bộ luật Lao động 2019 quy định: “Người sử dụng lao động phải bảo đảm về điều kiện lao động, cơng cụ lao động, an tồn, vệ sinh lao động và tổ chức khám sức khỏe định kỳ phù hợp với người lao động là người khuyết tật”. Theo đó, các
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">nội dung liên quan đến bảo hộ lao động đối với lao động là người khuyết tật như an toàn, sức khỏe nghề nghiệp, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi và mơi trường làm việc nhằm mục đích ngăn ngừa tai nạn bằng cách giảm đến mức tối thiểu những nguyên nhân của các mối nguy hiểm vốn có nơi làm việc. Ngoài ra các quy định về an toàn lao động và môi trường làm việc như các lao động bình thường thì cần có các quy định bảo vệ riêng đối với người khuyết tật khi làm việc, phá bỏ những rào cản do môi trường thiếu hụt cơ sở vật chất và xã hội tạo ra. Điểm I khoản 1 Điều 27 Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2007 cũng có uy định cụ thể trách nhiệm của người sử dụng lao động là phải đảm bảo tạo điều kiện hợp lý cho người khuyết tật nơi làm việc bao gồm cả thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Chủ thể sử dụng lao động không nên áp dụng giờ làm việc của người khuyết tật như những người bình thường mà cần linh hoạt hơn như quy định thời gian làm việc thấp hơn người bình thường. Đối với người bình thường là tối đa 8 tiếng một ngày hoặc 48 tiếng một tuần thì đối với người lao động có thể là không quá 7 tiếng một ngày hoặc 42 tiếng một tuần.
Thứ ba, các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật: Các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật được quy định tại Điều 160 Bộ luật Lao động năm 2019 như sau:
“1. Sử dụng người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trừ trường hợp người lao động là người khuyết tật đồng ý.
2. Sử dụng người lao động là người khuyết tật làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành mà khơng có sự đồng ý của người khuyết tật sau khi đã được người sử dụng lao động cung cấp đầy đủ thơng tin về cơng việc đó”.
Bên cạnh việc đưa ra các quy định đảm quyền lợi cũng như bảo vệ người lao động khuyết tật thì pháp luật Việt Nam còn đưa ra cụ thể các điều cấm nhằm tối đa hóa tính điều chỉnh pháp luật đảm bảo đối với người lao động là người khuyết tật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜIKHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.2.1. Thực trạng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam </b>
2.1.1. Khái quát sơ lược về quá trình phát triển những quy định của Pháp luật đối với người lao động khuyết tật:
<b> Giai đoạn từ 1945 đến 1954: Những năm đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ</b>
cộng hòa non trẻ, cùng với sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm rất sớm đến vấn đề lao động là người tàn tật, cụ thể là trong bản Hiến pháp năm 1946 (Điều 7 và Điều 14); Sắc lệnh số 20 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa ngày 16 tháng 2 năm 1947, trong đó quy định hưu bổng thương tật được căn cứ vào tật bệnh nặng hay nhẹ. Số tiền hưu bổng thương tật theo độ tật bệnh và theo chức vụ (binh và sỹ; úy và tá; tướng). Bệnh tật xếp thành các độ, từ 5% đến 100%, độ trên cách độ dưới 5%. Nghị định hướng dẫn thi hành số 49/TB-QĐ-TC (19/11/1948) quy định tiêu chuẩn thương tật được xếp theo các mức độ từ 5 % - 100%.
<b> Giai đoạn từ 1955 đến 1985: Tháng 1 năm 1955, thương binh được chuyển sang</b>
tiêu chuẩn thương tật 6 hạng. Tiêu chuẩn này được quy định bằng Nghị định số 18 ngày 17/11/1954. Sang đến thời kỳ 1964 đến 1985 đối tượng hưởng chính sách này khơng chỉ ngun qn nhân bị thương mà cịn bao hàm cả đối tượng hưởng chính sách như thương binh thể hiện tập trung ở các văn bản: Điều lệ tạm thời về chế độ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964, Nghị định 111/CP ngày 20/7/1967 của Hội đồng Chính phủ, Nghị định 08/NĐ-1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hiến pháp 1959 (tại Điều 30 và Điều 32) và Hiến pháp 1980 (Điều 74) đã có những quy định về quyền làm việc của mọi cơng dân và có chính sách đối với người tàn tật.
<b>Giai đoạn từ 1986 đến trước ngày ban hành Bộ luật lao động năm 1994</b>: Vấn đề lao động tàn tật mới được đề cập trong một số văn bản, đó là: Pháp lệnh về bảo hộ lao động (10/9/1991); Nghị định số 233/HĐBT (22/6/1990) ban hành Quy chế lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến Hiến pháp 1992, Điều 67 khẳng định: “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định. Những người và gia đình có cơng với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn tật, trẻ mồ cơi khơng nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”. Như vậy trong giai đoạn này, ngay từ những năm mới thành lập, Nhà nước đã chú ý đến việc ban hành quy định riêng phù hợp với người tàn tật, tuy nhiên các chính sách này chỉ dành cho các cơ sở sản xuất kinh doanh tập trung của người tàn tật và mới chỉ tập trung vào đối tượng là thương binh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><b> Giai đoạn từ khi có Bộ luật lao động năm 1994 đến nay: Đây là giai đoạn quan</b>
trọng nhất có tính chất đánh dấu cho sự phát triển của pháp luật dành cho người tàn tật. Đó là sự ra đời của Pháp lệnh ưu đãi người có cơng (ngày 29/5/1994) và Bộ luật lao động của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 23 tháng 6 năm 1994. Bộ luật lao động là văn bản đầu tiên có quy định chung về lao động là người tàn tật. Bộ luật lao động thể chế hố các chính sách của Nhà nước và hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các quy định của Hiến pháp 1992 liên quan đến lao động, quản lý và sử dụng lao động. Bộ luật đã có 1 mục riêng (mục III) trong chương XI quy định một số điều đối với lao động là người tàn tật, từ Điều 125 đến Điều 128. Những quy định trong Bộ luật lao động đối với lao động tàn tật đã được cụ thể hoá và hướng dẫn trong các Nghị định và Thơng tư.
Ngồi ra, hội nhập và hợp tác sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực là đặc trưng của q<b> </b>
trình tồn cầu hóa trên thế giới ngày nay. Việt Nam cũng như các quốc gia khác đều ít nhiều chịu những ảnh hưởng của quá trình này. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia diễn đàn Á – Âu (ASEM); tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC); gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN); khu vực Mậu dịch tự do Asean (AFTA); là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... Q trình tồn cầu hóa địi hỏi các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng phải xây dựng một môi trường pháp lý minh bạch, hồn thiện, linh hoạt tương thích với các Cơng ước quốc tế, và tạo cơ sở để các tiêu chuẩn, quy định nội bộ được thực thi trên thực tế.
Nhằm bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới thì việc nội luật hố các công ước quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia là điều hết sức cần thiết, trong đó bao gồm cả vấn đề nội luật hóa các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực lao động liên quan đến lao động là người khuyết tật. Do là một quốc gia có hệ thống pháp luật cịn khá non trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm trong kỹ thuật lập pháp so với các nước phát triển khác nên yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam hiện nay đó là cần phải tiếp tục hồn thiện, điều chỉnh pháp luật về người lao động khuyết tật để tạo ra một hành lang pháp lý phù hợp với tình hình trong nước và tương thích với pháp luật quốc tế, giúp người lao động khuyết tật được tham gia bình đẳng vào quan hệ lao động.
Trải qua quá trình dài như vậy, qua nhiều lần thay thế, sửa đổi bổ sung các văn kiện pháp lý thì chúng ta đã có sự tiệm cận nhất định với pháp luật quốc tế và Bộ luật Lao động mới nhất năm 2019 cùng một số văn bản liên quan như Luật Người khuyết tật 2010; Luật Dạy nghề 2006; Luật Việc làm 2013 và các Nghị định hướng dẫn thi hành… là cơ sở pháp lý hiện hành điều chỉnh về quan hệ lao động dành cho người khuyết tật. Qua đó khẳng định được tầm quan trọng, cũng như vai trò của người khuyết tật đối với xã hội nói chung và thị trường lao động nói riêng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">2.1.2. Chính sách chung của Nhà nước đối với lao động là người khuyết tật: Thứ nhất, không phân biệt đối xử giữa người khuyết tật và lao động khác:
Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Lao động năm 2019 đặc biệt nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử trong lao động, trong đó có cả hành vi phân biệt, loại trừ hoặc ưu tiên dựa trên tình trạng khuyết tật. Theo đó, người lao động cũng phải được tạo điều kiện làm việc, đảm bảo quyền lợi như bao người lao động khác. Nếu có hành vi phân biệt đối xử giữa người lao động khuyết tật với những người lao động khác, người sử dụng lao động sẽ bị phạt từ 05 - 10 triệu đồng theo điểm a khoản 2 Điều 8 Nghị định 12/2022/NĐ-CP.
Thứ hai, Tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho lao động khuyết tật:
Theo khoản 1 Điều 159 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động phải đảm bảo về điều kiện lao động, cơng cụ lao động, an tồn, vệ sinh lao động, đồng thời còn phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho người lao động là người khuyết tật. Căn cứ Điều 21 Luật An toàn, vệ sinh lao động, hằng năm, người sử dụng lao động phải tổ chức khám sức khỏe cho người lao động khuyết tật ít nhất 06 tháng/lần. Nếu không tổ chức khám sức khỏe định kỳ, người sử dụng lao động sẽ bị phạt từ 01 - 03 triệu đồng/người lao động khuyết tật nhưng với số tiền phạt tối đa là 75 triệu đồng.
Thứ ba, các quy định cấm trong sử dụng lao động là người khuyết tật:
Bộ luật lao động năm 2012 nghiêm cấm việc sử dụng lao động là người khuyết tật làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm hay làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm Quy định. trên được đặt ra với mục đích bảo vệ lao động là người khuyết tật, nhưng lại chưa phù hợp với nguyên tắc không phân biệt đối xử trên tất cả các khía cạnh. Thực tế cho thấy, quy định trên đã vơ tình hạn chế khả năng tiếp cận việc làm của người khuyết tật. Khắc phục hạn chế đó, Bộ luật lao động năm 2019 quy định, lao động là người khuyết tật có quyền quyết định làm thêm giờ, làm vào ban đêm hay làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và người sử dụng lao động có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ thơng tin về cơng việc đó để lao động là người khuyết tật
cân nhắc và quyết định.
Những quy định mới tại Điều 160 Bộ luật lao động năm 2019 (so với Bộ luât lao động năm 2012) không chỉ không làm mất cơ hội nghề nghiệp của người khuyết tật, bảo đảm sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận nghề nghiệp của người khuyết tật, mà cịn bảo đảm sự phù hợp với Cơng ước về quyền của người khuyết tật và Công ước số 159.
Ngoài các quy định cấm trong sử dụng lao động là người khuyết tật của Bộ luật lao động năm 2019, Luật người khuyết tật năm 2010 cũng quy định cấm cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật. Quy định của Luật người khuyết tật năm 2010 hoàn toàn phù hợp
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">với quy định, “Cấm phân biệt trên cơ sở sự khuyết tật trong mọi vấn đề liên quan đến việc làm, bao gồm điều kiện tuyển dụng, sự thuê mướn và tuyển dụng” trong Công ước về quyền của người khuyết tật và quy định “Ghi nhận bảo đảm sự bình đẳng thực sự về cơ hội và về đối xử giữa những người người khuyết tật với và người lao động nói chung trong việc làm và hòa nhập cộng đồng” trong Công ước số 159.
Thứ tư, cho người lao động khuyết tật nghỉ phép 14 ngày/năm:
Với chế độ nghỉ hằng năm, điểm b khoản 1 Điều 113 Bộ Luật Lao động năm 2019 đã nêu rõ:
1. Người lao động làm việc đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động như sau:
b) 14 ngày làm việc đối với người lao động chưa thành niên, lao động là người khuyết tật, người làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;Theo đó, người lao động khuyết tật làm việc đủ năm cho người sử dụng lao động thì sẽ được nghỉ quyền nghỉ phép 14 ngày/năm.Đặc biệt, nếu cứ làm việc đủ 05 năm cho một người sử dụng lao động, người lao động khuyết tật còn được cộng thêm tương 01 ngày nghỉ vào số ngày phép năm (theo Điều 114 Bộ luật Lao động).Trường hợp chưa làm đủ năm, người lao động khuyết tật sẽ được nghỉ phép với số ngày tỷ lệ tương ứng với số tháng làm việc.
Thứ năm, chỉ sử dụng lao động khuyết tật làm thêm giờ khi họ đồng ý:
Khoản 1 Điều 160 Bộ luật Lao động năm 2019 nghiêm cấm hành vi sau:“1. Sử dụng người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trừ trường hợp người lao động là người khuyết tật đồng ý.” Như vậy, những người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng chỉ phải làm thêm giờ, làm ban đêm nếu họ đồng ý.Nếu khơng có sự đồng ý của người lao động khuyết tật trên mà bố trí cho họ làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, người sử dụng lao động sẽ bị phạt từ 05 - 10 triệu đồng theo điểm b khoản 1 Điều 31 Nghị định 12/2022/NĐ-CP.Tuy nhiên với những người khuyết tật nhẹ suy giảm lao động dưới 51% thì doanh nghiệp vẫn có thể tự ý sắp xếp thời gian làm việc của họ vào ban đêm mà không bị phạt.
Thứ sáu, các quy định nhằm khuyến khích người khuyết tật tự tạo việc làm, tạo việc làm và sử dụng lao động là người khuyết tật:
Với mục đích thúc đẩy cơ hội việc làm cho người khuyết tật, Bộ luật lao động năm 2019 quy định, “có chính sách khuyến khích, ưu đãi phù hợp đối với người sử dụng lao động trong tạo việc làm và nhận người lao động là người khuyết tật vào làm việc theo quy định của pháp luật về người khuyết tật”. Cụ thể hơn, Điều 34 Luật người khuyết tật năm 2010 quy định các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động là người khuyết tật trở lên sẽ
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">được hưởng những ưu đãi của Nhà nước về hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp[1]. Tuy nhiên, thực tế không phải cơ sở sản xuất kinh doanh nào cũng có thể sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật để được hưởng những ưu đãi trên. Do đó, để khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận lao động là người khuyết tật vào làm việc, qua đó tạo cơ hội việc làm cho người khuyết tật, Điều 10 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP quy định doanh nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định được hưởng chính sách ưu đãi về kinh phí cải tạo điều kiện, mơi trường làm việc và vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất kinh doanh. Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định được hưởng chính sách kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc.
Sự ưu đãi, hỗ trợ đối với các đơn vị sử dụng lao động là người khuyết tật thực chất cũng chính là sự hỗ trợ cho người khuyết tật, bởi thơng qua đó, người khuyết tật có cơ hội có việc làm và có được việc làm ổn định. Điều này là hợp lý và phù hợp với một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật người khuyết tật đó là nguyên tắc hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý đối với người khuyết tật [2]. Việc đặt ra điều kiện để được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước là cần thiết, tránh việc các cơ sở sản xuất kinh doanh lợi dụng các chính sách tiến bộ, nhân văn của Nhà nước để được hưởng những lợi ích khơng chính đáng. Tuy nhiên, kết quả khảo sát của Uỷ ban Quốc gia về người khuyết tật Việt Nam năm 2018 tại 08 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Thành phố Hồ Chính Minh) cho thấy, số cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động là người khuyết tật đạt tỷ lệ từ 30% tổng số lao động trở lên là rất ít. Trong khi đó, lại có khá nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng lao động là người khuyết tật nhưng không đạt tỷ lệ 30% tổng số lao động là người khuyết tật; vì vậy, khơng thể tiếp cận được các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thực trạng trên cho thấy, quy định của pháp luật chưa thực sự khuyến khích được các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận lao động là người khuyết tật vào làm việc. Mặt khác, khoảng cách giữa 10 lao động và 30% tổng số lao động là người khuyết tật là khá xa (đối với đơn vị sử dụng nhiều lao động). Đây cũng là vấn đề cần phải xem xét nhằm bảo đảm sự công bằng cho các doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật cũng như trong việc khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật [3].
Riêng về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài điều kiện sử dụng từ 30% số lao động bình quân trong năm là người khuyết tật, để được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, doanh nghiệp còn phải đáp ứng điều kiện có số lao động bình quân trong năm từ 20 người trở
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">lên[4]. Như đã phân tích, việc đặt ra các điều kiện để doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh khác được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước là cần thiết. Tuy nhiên, nếu các tiêu chuẩn, điều kiện được quy định quá cao (khó đáp ứng), thì sẽ khơng tạo ra động lực, khuyến khích các doanh nghiệp tiếp nhận, sử dụng lao động là người khuyết tật.
Cùng với quy định khuyến khích người sử dụng lao động tạo việc làm và nhận lao động là người khuyết tật vào làm việc, pháp luật Việt Nam cũng có quy định nhằm thúc đẩy cơ hội tự tạo việc làm và thăng tiến nghề nghiệp cho lao động là người khuyết tật theo tinh thần của Công ước về quyền của người khuyết tật. Cụ thể, để phát triển, nâng cao hiệu quả của hoạt động học nghề và dạy nghề đối với người khuyết tật, Điều 32 Luật người khuyết tật
năm 2010 quy định, “Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác”, “người khuyết tật học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật”. Đối với hoạt động tự tạo việc làm của người khuyết tật, Điều 33 Luật người khuyết tật năm 2010 quy định, “người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất, kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Chính phủ”<b>[5]</b>.
[1] Các ưu đãi cụ thể được quy định tại Điều 9 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2012 Quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 28/2012/NĐ-CP).
[2] TS. Trần Thị Thuý Lâm (2013), Việc làm đối với người khuyết tật-Từ pháp luật đến thực tiễn thực hiện, Tạp chí Luật học, đặc san pháp luật NKT, 10/2013, tr.68-74.
[3] TS. Trần Thị Thuý Lâm, tlđd.
[4] Khoản 4 Điều 4 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2013.
[5] Xem thêm: Điều 8 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP.
<b>2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam </b>
2.2.1. Đảm bảo quyền lao động cho người khuyết tật:
Mặc dù pháp luật Việt Nam có rất nhiều quy định để hỗ trợ và tạo điều kiện cho lao động là người khuyết tật, nhưng thực tế chúng ta có thể thấy rằng tình trạng khơng có việc làm và thu nhập của người khuyết tật là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của họ bị sa sút. Trong cuộc sống hàng ngày rất dễ để bắt gặp sự kì thị, xa lánh và hạn chế tiếp xúc xã hội giữa mọi người xung quanh dành cho người khuyết tật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Tổng cục Thống kê và UNICEF hôm 11/1/2019 đã công bố kết quả điều tra quốc gia về người khuyết tật tại Việt Nam. Đây là cuộc điều tra đầu tiên có quy mơ lớn sử dụng, tiêu chuẩn quốc tế để thu thập các thơng tin tồn diện về cuộc sống của người khuyết tật tại Việt Nam, do Tổng cục Thống kê tiến hành cuối năm 2016 và đầu năm 2017 với sự hỗ trợ kỹ thuật của UNICEF thực hiện tại 658/713 quận huyện của 63 tỉnh thành. Việt Nam trong giai đoạn từ 2016 – 2017 có 6.199.048 người khuyết tật từ 2 tuổi trở lên, chiếm 7% dân số cả nước.<small>2</small> Nhìn vào số liệu trên có thể thấy rằng số lượng lao động là người khuyết tật tại Việt Nam là không hề nhỏ, việc tạo cơ hội việc làm cho lao động là người khuyết tật là việc làm hết sức quan trọng góp phần vào việc thực hiện mục tiêu khơng ai bị bỏ lại phía sau trong q trình phát triển kinh tế-xã hội. Trên thực tế, một nghiên cứu của ILO đã chỉ ra rằng Việt Nam đã mất khoảng 3% GDP do không tận dụng lao động là người khuyết tật trong thị trường lao động. Theo Ủy ban Quốc gia về người khuyết tật Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết năm 2020 và phương hướng nhiệm vụ năm 2021 thì đến nay, cả nước hiện có 6.225,519 người khuyết tật từ 5 tuổi trở lên, trong đó có 671.659 trẻ khuyết tật từ 5-17 tuổi và 5.553.860 người từ 18 tuổi trở lên. Tỷ lệ người khuyết tật là nữ giới cao hơn, cụ thể người khuyết tật là nữ giới chiếm 58% so với năm giới là 42%. Cũng theo số liệu của Tổng cục thống kê cho thấy cả nước có 4.985.792 họ có ít nhất một người khuyết tật, chiếm hơn 20% số hộ của cả nước. Số
lượng người khuyết tật của 20% dân số nghèo nhất nhiều gấp 25 lần so với 20% dân số giàu nhất.<small>3</small>
Từ khi Luật người khuyết tật được thông qua, tỷ lệ người khuyết tật được đảm bảo việc làm đã tăng lên đáng kể. Nhờ sự hỗ trợ của các chính sách khuyến khích sử dụng lao động là người khuyết tật tại Điều 34 Luật người khuyết tật năm 2010 đã tạo ra hiệu ứng mạnh mẽ trong công cuộc tuyển dụng và tạo việc làm cho người khuyết tật. Đặc biệt phải kể đến quyết định số 899/QĐ-TTg "Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp - Việc làm và An toàn lao động giai đoạn 2016 - 2020 được Thủ Tướng Chính phủ ban hành ngày 20/06/2017 . Trong đó có nội dung “ Hỗ trợ tạo việc làm cho người khuyết tật” đây được xem là một nội dung quan trọng trong Dự án phát triển thị trường lao động là người khuyết tật được hưởng ưu đãi. Theo Quyết định này, Dự án phát triển thị trường lao động và việc làm sẽ được thực hiện nhằm hỗ trợ tạo việc làm cho người khuyết tật, đồng thời dự án cũng giúp mở rộng thêm tác động từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2012-2020. 2TB, “Công bố kết quả điều tra quốc gia về người khuyết tật tại Việt Nam”, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 11/01/2019, Nguồn từ: truy cập ngày 29/10/2023.
3 Phạm Cơng, “Việt Nam có 6,2 triệu người khuyết tật, chiếm hơn 7% dân số”, Báo Dân trí, ngày 30/12/2020, Nguồn từ:
</div>