Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

BÁO CÁO BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN THỨ NĂM – QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.67 KB, 32 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA LUẬT HÌNH SỰ</b>

<b>BÁO CÁO BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN THỨ NĂM –QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ</b>

<b>Môn học: Những quy định chung về dân sự, tài sản, thừa kếGiảng viên: ThS. Đặng Lê Phương Uyên</b>

<b>Nhóm: 6</b>

<b>Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2024</b>

<b>MỤC LỤC</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i>Nội dung...Trang</i>

<b>MỤC LỤC...1VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ...4</b>

<b>Câu 1.1: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá</b>

cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...5

<b>Câu 1.2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay</b>

thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới đó có phải là di sản khơng? Vì sao?...7

<b>Câu 1.3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất</b>

của người quá cố có cần phải đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...8

<b>Câu 1.4: Trong Bản án số 08, Tịa án có coi diện tích đất tăng 85,5m</b><small>2</small> chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản khơng? Đoạn nào của Bản án có câu trả lời?...9

<b>Câu 1.5: Nêu suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án</b>

trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...10

<b>Câu 1.6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m</b><small>2</small> đất, phần di sản của Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?...11

<b>Câu 1.7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng</b>

Phùng Văn K có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?...12

<b>Câu 1.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên</b>

quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K...13

<b>Câu 1.9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các</b>

con mà dùng số tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?...14

<b>Câu 1.10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G</b>

trong diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?...14

<b>Câu 1.11: Việc Tịa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G</b>

là 43,5m<small>2</small> có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng? Vì sao?...15

<b>Câu 1.12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m</b><small>2</small> được chia cho 5 kỷ phần cịn lại” có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng? Vì sao?...15

<b>VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN...17</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Câu 2.1: Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý</b>

di sản của ơng Đ và bà T? Việc xác định như vậy có thuyết phục khơng, vì sao?...18

<b>Câu 2.2: Trong Bản án số 11, ơng Thiện trước khi đi chấp hành án có là</b>

người quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...19

<b>Câu 2.3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H)</b>

quyền quản lý di sản có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời ...19

<b>Câu 2.4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền được</b>

tơn tạo, tu sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...20

<b>Câu 2.5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại</b>

cho người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...21

<b>Câu 2.6: Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý khơng có</b>

quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...22

<b>VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ...24Câu 3.1: Anh/chị hãy cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở</b>

Việt Nam...24

<b>Câu 3.2: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T được xác định là</b>

năm nào? Đoạn nào của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trà lời?...25

<b>Câu 3.3: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật</b>

Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?...26

<b>Câu 3.4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật</b>

Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được cơng bố có cơ sở văn bản nào khơng? Có thuyết phục khơng? Vì sao?...26

<b>Câu 3.5: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên...27VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU...29</b>

<b>Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp</b>

luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

năm 2020 đến nay. Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa mãn những thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết để trong dấu ngoặc kép, 3) Tên Tạp chí in nghiêng 4) Số và năm của Tạp chí, 5) Số trang của bài viết (ví dụ: từ tr.41 đến 51). Các bài viết được liệt kê theo alphabet tên các tác giả (không nêu chức danh).29

<b>Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên...30DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO, NGHIÊN CỨU...31</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ</b>

<i><b>Tóm tắt Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhândân thành phố Vĩnh n tỉnh Vĩnh Phúc.</b></i>

Ngun đơn: ơng Trần Văn Hịa.

Bị đơn: anh Trần Hồi Nam, chị Trần Thanh Hương.

Ơng Trần Văn Hòa và bà Cao Thị Mai là hai vợ chồng, trong thời kỳ hơn nhân có hai người con là anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương, khơng có con đẻ và con ni nào khác. Bà Mai mất, không để lại di chúc và do không thỏa thuận được nên ơng Hịa làm đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Mai để lại. Tài sản tranh chấp là nhà, đất tại phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên.

Tòa án xác định tổng giá trị tài sản chung của ơng Hịa và bà Mai là 6.151.614.500đ gồm <sup>1</sup><sub>2</sub><small> giá trị nhà và sân tường bao loan là 306.050.500đ; lán bán</small> hàng là 21.064.000đ; 84m<small>2</small> đất đã được cấp giấy chứng nhận là 3.528.000.000đ; 85,5m<small>2 </small>đất chưa được cấp giấy chứng nhận sau khi trừ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước là 1.966.500.000đ; tiền thuê nhà và lán bán hàng ơng Hịa quản lý là 300.000.000đ, chị Hương quản lý 30.000.000đ.

Số tài sản trên được hình thành trong thời gian hơn nhân và từ tài sản của hôn nhân nên được chia đôi cho ông Hòa và bà Mai, tương đương với số tiền là 3.075.807.250đ mỗi người. Bà Mai mất nhưng không để lại di chúc nên di sản của bà Mai để lại được chia theo quy định của pháp luật. Cụ thể, hàng thừa kế của bà Mai gồm bố, mẹ, chồng và con. Tuy nhiên, cả bố và mẹ bà Mai đều đã mất trước bà nên không được hưởng thừa kế tài sản của bà Mai. Vì vậy, phần di sản thừa kế của bà Mai được chia cho chồng là ơng Hịa và hai con là anh Nam và chị Hương, mỗi người được hưởng <sup>1</sup><sub>3</sub><small> di sản thừa kế của bà Mai để lại là 1.025.269.083đ.</small>

Cuối cùng, Tòa án đã quyết định: chia cho ơng Trần Văn Hịa số di sản với tổng trị giá 2.220.664.000đ và diện tích đất 38,4m<small>2</small> chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo chỉ giới 4, 5, 6, 7, 8, A, B, 4) thì ơng Hịa có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước; chia cho anh Trần Hoài Nam số di sản với tổng trị giá 4.207.001.000đ và diện tích đất 47,1m<small>2</small> chưa được cấp giấy

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

chứng nhận quyền sử dụng đất (theo chỉ giới 2, 3, 4, B, 2) thì anh Nam có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, ngồi ra cịn phải thanh tốn chênh lệch về tài sản cho ơng Hịa với số tiền 1.880.412.000đ và chị Hương với số tiền 995.269.000đ; chia cho chị Trần Thanh Hương được quyền sở hữu số tiền cho thuê nhà 30.000.000đ mà chị Hương đang quản lý.

<i><b>Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhândân tối cao. </b></i>

Nguyên đơn: chị Phùng Thị H1. Bị đơn: anh Phùng Văn T.

Ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G là bố mẹ của phía nguyên đơn có tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân là diện tích đất 398m<small>2</small>. Ngày 07/07/1984, ơng N chết nhưng không để lại di chúc. Năm 1994, bà G đã chuyển nhượng diện tích 131m<small>2</small> đất cho ơng K. Cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho ông K và cho bà G (với diện tích 267m<small>2</small> đất cịn lại, giấy này do anh Phùng Văn T giữ). Sau này, bà G muốn cho con gái là chị Phùng Thị H1 một phần diện tích đất của bà nên đã yêu cầu anh Phùng Văn T trả lại giấy chứng nhận sử dụng đất đã giữ trước đó. Nay chị Phùng Thị H1 khởi kiện yêu cầu buộc anh T trả giấy chứng nhận nêu trên.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định phần di sản là tổng diện tích 398m<small>2</small> đất còn Tòa án cấp phúc thẩm xác định phần di sản được chia là 267m<small>2</small>, không bao gồm phần đất đã chuyển nhượng cho ơng K, tức phần diện tích 131m<small>2</small> đất.

Cuối cùng, Tịa án đã quyết định hủy tồn bộ Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm, giao lại cho Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại do nhận thấy sai sót trong việc xác định phần di sản được chia cho bà G và các con được thừa kế từ tài sản chung của vợ chồng.

<i><b>Câu 1.1: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ củangười quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b></i>

<i><b>Căn cứ Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng</b></i>

<i>của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Dựa trên cơ sở pháp lý nêu trên, có thể hiểu di sản bao gồm tài sản riêng và tài sản chung với người khác của người quá cố. Pháp luật hiện hành thừa nhận cá nhân có quyền có tài sản riêng ngay cả trong thời kỳ hôn nhân, việc thừa nhận này

<b>được quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngồi ra, cá</b>

nhân cịn có tài sản trong khối tài sản với các chủ thể khác như tài sản chung của

<b>vợ chồng, việc này đã được pháp luật thừa nhận theo quy định tại Điều 33 Luật</b>

<b>Hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ và chồng đều có quyền ngang nhau trong</b>

việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Ngồi ra, cá nhân cịn có thể có tài sản chung với các chủ thể khác trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Việc xác định di sản thừa kế hiện nay có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố hay không hiện đang có ba luồng ý kiến chính:

 Ý kiến đầu tiên cho rằng di sản thừa kế bao gồm tài sản và các nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại vì có như vậy mới đảm bảo sự cơng bằng cho xã hội, bảo đảm quyền lợi chính đáng của các “chủ nợ”. Tuy nhiên, ý kiến này lại không phù hợp nếu chúng ta hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền, đề cao trách nhiệm của cá nhân với xã hội, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm cho hành vi của chính mình. Nếu áp dụng ý kiến này vào thực tế sẽ làm cho xã hội quay về chế độ “nợ truyền đời truyền kiếp” của thời phong kiến trước đây, làm nên một băng chuyền nếu cha khơng trả hết nợ thì con trả, con trả khơng hết thì cháu trả.

 Ý kiến thứ hai cho rằng di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết trong phạm vi di sản để lại tức người thừa kế chỉ thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mà họ được nhận. Ý kiến này được đánh giá là tiến bộ hơn ý kiến thứ nhất vì nó khơng cịn tàn tích của chế độ “nợ truyền đời truyền kiếp” của thời trước nhưng chung quy thì vẫn xác định di sản bao gồm cả các nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại. Tuy nhiên, ý kiến này vẫn không được đa số các nhà khoa học pháp lý ủng hộ vì khi người còn sống được thừa hưởng di sản của người đã chết thì theo lẽ thường cũng chẳng ai muốn thừa hưởng thêm phần nghĩa vụ và công việc của người khác kể cả đó là người thân thích.

 Ý kiến thứ ba cho rằng di sản thừa kế chỉ là các tài sản của người chết để lại sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người chết tức di

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố. Đây là quan điểm được nhiều nhà khoa học pháp lý đồng ý và cũng đã được thể hiện

<b>rất rõ trong Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu trên. Ngoài ra,</b>

<b>Điều 659 đến Điều 662 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng cho biết, trước</b>

khi chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực hiện các nghĩa vụ của người chết để lại bằng chính tài sản của người chết.

Từ các lập luận trên cùng với các cơ sở pháp lý đã nêu, có thể khẳng định, di sản thừa kế khơng bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố.

<i><b>Câu 1.2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bịthay thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới đó có phải là di sảnkhơng? Vì sao?</b></i>

Theo quy định của pháp luật, cá nhân có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh hợp pháp. Tất cả công dân đều được làm tất cả những gì luật khơng cấm và khơng trái đạo đức xã hội thì mọi thu nhập đều được Nhà nước bảo hộ cũng như được để lại thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật không quy định di sản thừa kế là các quyền tài sản gắn với nhân thân như quyền nhận trợ cấp,… Về nguyên tắc, di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại và thuộc sở hữu của người chết. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ tài sản có được sau khi một người chết cũng được coi là di sản thừa kế:

 Ví dụ: tài sản mà doanh nghiệp khuyến mãi cho người mua hàng bằng việc bốc thăm, nhưng lúc mua thì chưa bốc thăm, sau khi chết mới bốc thăm và trúng thưởng, tiền bảo hiểm, tiền lãi,… thì những tài sản thuộc những trường hợp tương tự như thế vẫn sẽ được coi là di sản thừa kế dù nó được hình thành sau thời điểm mở thừa kế.

 Trường hợp tiếp theo là khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó do nguyên nhân khách quan: đây là những ngun nhân nằm ngồi ý chí của con người, không được biết trước và không thể kiểm soát được, như hoả hoạn, lũ lụt, động đất hoặc các thảm hoạ thiên nhiên khác. Khi những nguyên nhân này tác động vào di sản thừa kế khiến nó bị hư hỏng hoặc mất giá

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

trị ban đầu thì để đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế, tài sản mới sẽ có hiệu lực pháp luật thay thế cho di sản thừa kế cũ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố ngoài ý muốn. Từ đó, di sản cũ sẽ khơng cịn giá trị hiện thực.

 Trường hợp cuối cùng là khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó do nguyên nhân chủ quan: đây là những sự vật, sự việc, nằm trong tầm kiểm soát của con người và hồn tồn có thể thay đổi được, được xác định có sự tác động phần nào đó bởi yếu tố con người. Nếu nhằm mục đích chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế ban đầu đồng thời thay thế bởi một tài sản khác khi đó tài sản mới này sẽ khơng được coi là di sản thừa kế. Tuy nhiên nếu sự thay thế do tự bản thân cá nhân nào muốn thay thế hay đó là sự thay thế được đồng thuận bởi tất cả những người thừa kế và được pháp luật thừa nhận thì tài sản mới đó sẽ trở thành di sản. 

Ngồi ra, trong q trình phân chia di sản thừa kế cịn phát sinh một loại tranh chấp đó là tiền phúng điếu cho đám tang người chết. Có ý kiến cho rằng đây cũng được xem là di sản của người chết nên nó là di sản thừa kế, theo phong tục của dân ta thì việc đi viếng đám tang là đi viếng người chết thì khoản tiền viếng này phải nằm trong khối di sản của người chết chứ không thể thuộc về quyền sở hữu của ai khác, trường hợp có người có nghĩa vụ thờ cúng thì có thể dùng số tiền này để làm giỗ tuần, mãn tang, giỗ hàng năm,… Cũng có ý kiến cho rằng đây không phải là di sản thừa kế vì từng có quan điểm: “Biết rằng tồn bộ quyền và nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại, chỉ tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó, khoản tiền phúng điếu khơng thể được coi là di sản thừa kế của người chết”, có rất nhiều sự đồng tình với ý kiến này vì tiền phúng điếu không phải là tài sản của người chết để lại mà nó có sau thời điểm mở thừa kế và nó cũng khơng phải kết quả của những hành vi có trước của người chết nên khơng thể coi đây là di sản để chia thừa kế.

Từ các lập luận trên, để xem tài sản của người quá cố ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới và tài sản mới này có được xem là di sản hay khơng thì phải tùy vào trường hợp và nguyên nhân mà tài sản mới đó được hình thành.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>Câu 1.3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sửdụng đất của người quá cố có cần phải đã được cấp Giấy chứng nhậnquyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b></i>

<i><b>Căn cứ Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng</b></i>

<i>của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.</i>

Đầu tiên, để được xem là di sản thì phải xác nhận miếng đất đó có phải là tài sản của người đã chết khi họ cịn sống hay khơng.

<i><b>Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền</b></i>

<i>sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thưpháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sảnkhác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhàở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”. Tiếp theo, phải xác nhận người</i>

đã chết có phải là người sử dụng đất có đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay khơng, nếu có thì mới được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất về mặt pháp lý.

<i><b>Căn cứ Điều 168 Luật Đất đai năm 2013: “Người sử dụng đất được thực</b></i>

<i>hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốnquyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận”. Cuối cùng, chỉ khi có Giấy chứng</i>

nhận quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất đó mới có đủ quyền và nghĩa vụ của chính họ, từ đó họ có thể chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho,…và bao gồm cả quyền để lại di sản thừa kế.

Từ các lập luận trên, có thể khẳng định, để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố cần phải đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính là chứng thư pháp lý đáng tin cậy nhất để dựa vào đó, người đứng tên được Nhà nước công nhận các quyền đối với miếng đất được quy định trong Giấy chứng nhận đồng thời nó cũng sẽ được xem là di sản thừa kế.

<i><b>Câu 1.4: Trong Bản án số 08, Tịa án có coi diện tích đất tăng 85,5m</b></i>

<i><b><small>2</small></b></i>

<i><b>chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không?Đoạn nào của Bản án có câu trả lời?</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Trong Bản án số 08, Tịa án coi diện tích đất tăng 85,5m<small>2</small> chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản.

Dẫn chứng trong Bản án có câu trả lời trên là: “Đối với diện tích đất tăng 85,5m<small>2</small> chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục tạm giao cho ông Hịa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vấn đề này, Hội đồng xét xử xét thấy: theo sơ đồ hiện trạng được Công ty đo đạc, khảo sát thực tế ngày 21/02/2020 thể hiện, ngôi nhà và lán bán hàng được làm và xây dựng trên cả diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận và diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận. Kết quả xác minh tại UBND phường Đống Đa (nơi có diện tích đất tranh chấp), Phịng Tài nguyên và Môi trường thành phố Vĩnh Yên, Chi cục thuế Nhà nước thành phố Vĩnh Yên thể hiện: gia đình ơng Hịa đã xây dựng ngơi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên một phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận; diện tích đất này hộ ơng Hịa đã quản lý, sử dụng ổn định nhiều năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng, khơng có tranh chấp, khơng thuộc diện đất quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm tiếp giáp với phía trước ngơi nhà và lán bán hàng của hộ ơng Hịa, giáp đường Nguyễn Viết Xuân, đất thuộc diện được cấp giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tiền thuế là 19.000.000đ/m<small>2</small>. Do đó, đây vẫn là tài sản của ơng Hịa, bà Mai, chỉ có điều là đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Phần đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Các phần đề nghị khác của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tịa là có căn cứ, được Hội đồng xét xử xem xét để quyết định”.

<i><b>Câu 1.5: Nêu suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tịấn trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp Giấy chứngnhận quyền sử dụng đất.</b></i>

Hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý.

Hướng xử lý của Tòa án: chia phần đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ơng Hịa và anh Nam, cụ thể chia cho ơng Hịa 38,4m<small>2</small> và

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

chia cho anh Nam 47,1m<small>2</small> và cả hai người đều phải có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước.

Trong Bản án số 08 về diện tích đất 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, Tồ đã nhận định: “Tài sản của ơng Hồ và bà Mai gồm 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và một lán bán hàng xây dựng năm 2006 trên diện tích đất 169,5m<small>2</small> Trong đó, diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 84m<small>2</small>, còn lại 85,5m<small>2 </small>chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên hộ ông Hoà đã sử dụng ổn định, ranh giới các hộ xung quanh đều rõ ràng và khơng có tranh chấp và cũng không thuộc diện quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm tiếp giáp với phía trước ngơi nhà và lán bán hàng của hộ ơng Hồ, giáp đường Nguyễn Viết Xuân, đất thuộc diện được cấp giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế (là 19.000.000đ/m<small>2</small>)”. Ngoài ra, dựa theo kết quả của UBND phường thì cũng có thể hiểu Tịa án đã tự cơng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông Hòa. Trong một vài trường hợp, đất sẽ được coi là di sản nếu dựa trên quyền sử dụng hợp pháp chứ không phải lúc nào cũng dựa trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực ra chỉ là một hình thức pháp lý để Nhà nước cơng nhận ai đó có quyền sử dụng đất hợp pháp chứ nó khơng phải là căn cứ xác lập quyền sử dụng đất. Vì vậy, nếu có đủ chứng cứ cho thấy người chết là người sử dụng đất hợp pháp thì đất đó sẽ được coi là di sản thừa kế. Và nhận định của Tịa cũng đã chứng minh được ơng Hòa và bà Mai là người sử dụng đất hợp pháp nên Tòa vẫn xem đất này là di sản và chia diện tích cho ơng Hịa và anh Nam quản lý nếu các đương sự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

Từ các lập luận trên đã cho thấy, hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thuyết phục và hợp tình, hợp lý.

<i><b>Câu 1.6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m</b></i>

<i><b><small>2</small></b></i>

<i><b> đất, phần disản của Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?</b></i>

Theo nhận định của Tịa án thì diện tích 398m<small>2 </small>đất là tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G. Năm 1991, bà G chuyển nhượng cho ông K 131m<small>2 </small>đất nhằm trả nợ và ni gia đình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>Căn cứ Khoản 2 Điều 33 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 về tài sản</b>

của vợ chồng thì phần đất chuyển nhượng nêu trên được xem như là tài sản chung:

<i>“Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảođảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng”.</i>

Như vậy, tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G lúc này cịn 267m<small>2</small>. Phần di sản của ơng N là một nửa diện tích 267m<small>2 </small>(tức 133,5m<small>2</small>) đất chung của vợ chồng ông và bà G.

Các văn bản pháp luật hiện nay không quy định rõ phần của vợ hoặc chồng

<b>trong khối tài sản chung. Nhưng theo Khoản 2 Điều 59 Luật Hơn nhân và gia</b>

<b>đình năm 2014, tài sản của của vợ chồng được chia đôi, tức mỗi người được </b><sup>1</sup><sub>2</sub>

khối tài sản chung. Nhưng nếu có chứng cứ chứng minh có sự đóng góp khác nhau thì phần mỗi người khơng nhất thiết là ngang nhau:

<i>“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tốsau đây:</i>

<i>a) Hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;</i>

<i>b) Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triểnkhối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao độngcó thu nhập;</i>

<i>c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghềnghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;</i>

<i>d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng”.</i>

Tuy nhiên, quy định này quy định trong trường hợp “vợ chồng ly hôn”. Mặt

<b>khác, Khoản 2 Điều 66 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định về</b>

<i>vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết: “Khi có yêu cầu về</i>

<i>chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đơi, trừ trường hợp vợ chồngcó thoả thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa ántuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế...”</i>

Như vậy, phần diện tích đất của ơng N sẽ là 133,5m<small>2</small>. Mặc dù ơng N chết và phần diện tích 267m<small>2 </small>được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà G (phần đất chỉ còn 267m<small>2 </small>là vì bà đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K vào năm 1991 một phần diện tích đất nêu trên là 131m<small>2 </small>và năm 1999 bà mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nhưng phần đó được hình thành trong thời kỳ hơn

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

nhân, là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, phần di sản của ơng N sẽ được tính là

<small>2 tổng diện tích đất chung của vợ chồng ơng và bà G theo Điều 612 Bộ luật Dân</small>

<i><b>sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của</b></i>

<i>người chết trong tài sản chung với người khác”.</i>

<i><b>Câu 1.7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng chng Phùng Văn K có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?</b></i>

Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K không được coi là di sản để chia. Vì bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Phùng Văn K và đồng thời ông K cũng được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử đất. Thêm vào đó, việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K thì các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến phản đối gì. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà G đã đồng ý để bà G chuyển nhượng diện tích 131m<small>2 </small>nêu trên cho ơng Phùng Văn K. Do đó, phần đất đã được chuyển nhượng là tài sản riêng của ơng K và khơng liên quan gì đến phần đất chung của hai vợ chồng ông N và bà G nên không được coi là di sản để chia thừa kế của gia đình bà Phùng Thị G.

<i><b>Câu 1.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trênliên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng VănK.</b></i>

Hướng giải quyết của Án lệ khi quyết định không đưa 131m<small>2 </small>đất đã bán cho ông K vào phần di sản của ông N là hợp lý.

<b>Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về</b>

<i>người thừa kế theo pháp luật quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,</i>

<i>cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.</i>

Việc bà G chuyển nhượng đất nhằm đảm bảo cuộc sống cho gia đình. Mặt khác, căn cứ theo cơ sở pháp lý nêu trên thì cả bà G và 6 người con đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất, đồng thời những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Trong trường hợp bà G đã chuyển nhượng 131m<small>2 </small>đất cho ông K phải được sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế. Trên thực tế, các đồng thừa kế đã biết việc bà G chuyển nhượng quyền sử dụng và khơng có ý kiến gì về việc chuyển

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

nhượng 131m<small>2 </small>đất cho ông K của bà G nên việc ơng K có quyền sở hữu đối với diện tích đất nêu trên là hợp lý.

<b>Căn cứ Điều 223 Bộ luật Dân sự năm 2015 về căn cứ xác lập quyền sở hữu</b>

<i>theo hợp đồng: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho,</i>

<i>trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định củapháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó”. Do đó, việc bà G chuyển nhượng cho</i>

ông K quyền sử dụng 131m<small>2</small> đất có giấy chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền về quyền sử dụng của ông K nên đối với diện tích đất nêu trên khơng được tính vào phần di sản của ơng N là hồn tồn phù hợp với quy định của pháp luật, bởi vì lúc bấy giờ diện tích đất nêu trên là thuộc quyền sở hữu của ông K.

Từ những lập luận trên đã cho thấy, hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K là hoàn toàn đúng đắn và thuyết phục.

<i><b>Câu 1.9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống củacác con mà dùng số tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đócó được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?</b></i>

Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng số tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó khơng được coi là di sản để chia.

Phần tài sản chung của ông N và bà G là 398m<small>2</small> đất. Khi ơng N mất thì không để lại di chúc nên tài sản sẽ chia theo quy định pháp luật và bà G cùng các con của

<b>bà thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ</b>

<i><b>luật Dân sự năm 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,</b></i>

<i>cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con ni của người chết”. Vì vậy, bà G và các con đều</i>

có quyền thừa kế và quyền này là ngang nhau đối với di sản thừa kế mà ông N để lại. Nếu bà G tự ý bán 131m<small>2</small> đất cho ơng K mà khơng có sự đồng ý của con rồi dùng số tiền bán đất đó để lo cho cuộc sống cá nhân thì cũng xem như bà G đang bán đi một phần tài sản chung của vợ chồng, cụ thể là 199m<small>2</small> đất và điều này không ảnh hưởng đến các đồng thừa kế khác, di sản của ông N là 199m<small>2</small> đất vẫn sẽ được

<b>chia đều cho bà G và các con. Căn cứ Khoản 1 Điều 218 Bộ luật Dân sự năm</b>

<i><b>2015: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu</b></i>

<i>của mình” nên việc bà G bán một phần tài sản chung của vợ chồng là 199m</i><small>2</small> đất để

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

sử dụng cho mục đích cá nhân thay vì lo cho cuộc sống các con là không vi phạm pháp luật và không thể coi là di sản để chia vì số tiền mà bà G có được qua giao dịch này đã được sử dụng cho mục đích riêng và khơng gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng thừa kế khác.

<i><b>Câu 1.10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng ThịG trong diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?</b></i>

Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà trong diện tích đất trên là 133,5m<small>2</small> ứng với 267m<small>2</small> trong khối tài sản chung của vợ chồng. Vì 267m<small>2</small> đất này đứng tên bà Phùng Thị G và được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia. Bà G chỉ có quyền định đoạt <sup>1</sup><sub>2</sub> diện tích đất trong tổng diện tích 267m<small>2</small> đất thuộc tài sản chung của vợ chồng bà. Do đó, di sản của bà G để lại là <sup>1</sup><sub>2</sub> khối tài sản là 133,5m<small>2</small> đất.

<i><b>Câu 1.11: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà PhùngThị G là 43,5m</b></i>

<i><b><small>2</small></b></i>

<i><b> có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dungcủa Án lệ số 16 khơng? Vì sao?</b></i>

Việc Tịa án xác định phần cịn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m<small>2</small> là không thuyết phục.

Di sản lúc này của ông N sau khi đã trừ đi phần đất bán cho ông K là 133,5m<small>2</small>

<b>và căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về</b>

<i>người thừa kế theo pháp luật quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,</i>

<i>cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” thì di sản này</i>

của ơng N sẽ được chia đều cho bà G và các con với phần diện tích mà bà G nhận được là khoảng 19,07m<small>2</small>. Vậy nên, trên thực tế, bà G đã có di sản sở hữu chung với ông N là 133,5m<small>2</small>, cùng với phần di sản được hưởng thừa kế của ông N là 19,07m<small>2</small>

và trừ đi phần diện tích bà cho chị H1 là 90m<small>2</small> thì tổng diện tích bà G nhận được phải là 62,57m<small>2</small> nên việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m<small>2</small> là không thuyết phục.

</div>

×