Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Đề Tài Thảo Luận Lễ Hội Vùng Văn Hóa Việt Bắc.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC</b>

<b>ĐỀ TÀI THẢO LUẬN</b>

<i><b>Lễ hội vùng văn hóa Việt Bắc</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Nhóm 3

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM</b>

<i><b>Chủ đề: Lễ hội vùng văn hóa Việt Bắc</b></i>

<b>1.1.1 Truyền thuyết về lễ hội Lồng Tồng ở Bằng Vân...7</b>

<b>1.1.2 Truyền thuyết về lễ hội Lồng Tồng ở Thượng Lâm –</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>I. Đặc điểm tự nhiên và xã hội của vùng văn hóa ViệtBắc</b></i>

<b>1. Đặc điểm tự nhiên</b>

<b>-Phạm vi: Khi nói tới mảnh đất này, người ta sẽ nghĩ ngay đến địa bàn</b>

của 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Tuy nhiên, hiện nay ranh giới vùng văn hóa Việt Bắc sẽ rộng hơn bao gồm cả phần đồi núi các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và Quảng Ninh.

Đóng vai trò cửa ngõ giao lưu giữa đồng bằng BB với nam Trung Quốc

<b>-Khí hậu: Việt bắc chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu gió mùa, có</b>

mùa đơng lạnh nhất cả nước. Động thực vật mang đặc điểm chuyển tiếp từ nhiệt đới sang ơn đới

<b> -Địa hình: </b>

<b>+ Việt Bắc có cấu trúc theo kiểu cánh cung, tụ lại ở Tam Đảo</b>

+ Các cánh cung này mở rộng ra ở phía Bắc và Đơng Bắc, phần hướng lồi thì quay ra biển ( Thứ tự từ trong ra biển: sông Gâm, Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn và Đông Triều )

+ Các dãy núi đều có độ cao từ thấp đến trung bình

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>- Hệ thống sơng chính (5):</b> sơng Thao, sơng Lơ, hệ thống sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam. Với nét đặc trưng là độ dốc lịng sơng lớn, dịng chảy mạnh nhất vào mùa lũ hằng năm

<b>-Hồ: Ngoài ra trong vùng cịn có nhiều hồ nổi tiếng thu hút khách du</b>

lịch đến tham quan như hồ Ba Bể, Thang Hen, Núi Cốc, hay Na Hang…

<b>2. Đặc điểm xã hội </b>

<b>Tổ chức xã hội</b>

- Dân cư sinh sống chủ yếu là người Tày và Nùng, họ có những nét tương đối giống nhau. Ngồi ra cịn 1 số dân tộc ít người khác như Dao, Lơ Lơ, H’mông, Sán Chay….

- Dân cư Tày – Nùng sống chủ yếu trong các bản ven đường, cạnh sông suối hay thung lũng. Gia đình nơi đây theo chế độ phụ hệ, đàn ông làm chủ tài sản và quyết định mọi người.

- Trên bản thì có những thiết chế xã hội như xã, tổng, châu, huyện những thiết chế này thay đổi theo các thể chế chính trị, nhưng bản thì khơng bao giờ thay đổi

- Ý thức trọng nam khinh nữ khá đậm trong cộng đồng.

<b>Lịch sử hình thành vùng văn hóa Việt Bắc</b>

- Từ thời các vua Hùng, liên minh giữa người Âu Việt- tổ tiên người Tày với cư dân Lạc Việt, tổ tiên người Việt là có thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Người dân nơi đây có vai trị quan trọng trong nhiều cuộc kháng chiến chống quân xâm lược như Tống, Mông-Nguyên, Thanh,…

- Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khu căn cứ địa vững chắc cho cách mạng trong những năm kháng chiến chống Pháp, Mỹ

<i><b>II. Lễ hội </b></i>

<b>1. Lịch sử các lễ hội </b>

<i><b>1.1 Lễ hội Lồng Tồng </b></i>

Lễ hội Lồng tồng là một lễ hội của dân tộc người Tày, được xem là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hịa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no cơm áo đầy đủ. Trong kho tàng truyện cổ của người Tày vùng Chiêm Hóa, Nà Hang, Lâm Bình, cịn lưu truyền nhiều truyền thuyết (được xem như nguồn gốc ra đời) về lễ hội Lồng Tồng. Mỗi nơi, người dân lại đều có những câu chuyện khác nhau để kể về nguồn gốc ra đời của lễ hội. Tuy nhiên, các câu chuyện đều có một điểm chung là các câu chuyện đều kể về những nhân vật có thật và gần gũi trong đời sống sinh hoạt của đồng bào, là những người có cơng bảo vệ làng bản, bảo vệ mùa màng cho dân làng, khi những người này qua đời được dân làng suy tơn thành thần thánh...Vì thế, từ xa xưa, lễ hội Lồng tồng thường được gắn với việc thờ cúng tại đình, đền, miếu. Tại

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

mỗi địa điểm tổ chức lễ hội, đồng bào Tày thờ các vị thần khác nhau, có nơi thờ cả Thiên thần, Địa thần và Nhân thân, đó là những vị thần, những người có cơng xây dựng, bảo vệ dân làng, nhưng cũng có nơi chỉ thờ các Thiên thần và Nhiên thần.

<i><b>1.1.1 Truyền thuyết về lễ hội Lồng Tồng ở Bằng Vân </b></i>

Theo truyền thuyết kể lại, thời kỳ đất nước rơi vào cảnh loạn lạc, để dẹp yên giặc, nhà vua đã cử một viên tướng đến vùng đất này trấn ải và đánh đuổi qn giặc. Bên cạnh ơng ln có một bà vợ rất tài giỏi cầm quân thao lược giúp ông đánh trận nên đoàn quân đi đến đâu giặc tan đến đó. Ngày nọ trên đường đánh trận, vì mải mê đuổi giặc, ơng vơ tình lọt vào ổ phục kích của chúng ở núi Phja Đén. Thế cùng lực tận, ông đành nhảy xuống núi Phja Đén tự vẫn. Về phần bà vợ, khi nghe tin chồng tử trận, bà vợ cũng tự vẫn tại núi Phja Công. Dân trong vùng cảm thương cho số phận của hai người nên lập miếu thờ chung cho họ ở trên núi Phja Đén. Nhưng do bà vợ mất ở núi Phja Công nên mỗi khi cầu cúng tại miếu, người dân phải đi gánh nước từ núi Phja Cơng về để thờ thì việc cầu cúng mới linh nghiệm. Sau này do việc cầu cúng đi lại vất vả, người dân trong vùng đã làm lễ cúng cầu xin quan tướng độ trì cho phép lập đàn miếu ở nơi thuận tiện hơn. Cầu xong trời bỗng nổi giông bão ầm ầm, sáng hôm sau mọi người ra xem thì khơng thấy ngơi miếu ở vị trí cũ nữa. Trên đường trở về, người dân nhìn thấy các gắp gianh đã

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

được giông gió đưa đến những vị trí mới. Gắp thứ nhất rơi xuống chân ngọn núi thuộc thôn Cốc Lải, xã Bằng Vân; gắp thứ hai rơi xuống Bản Slanh, xã Thượng Ân; gắp thứ ba rơi xuống Bản Duồi, xã Đức Vân. Dựa theo lời mách bảo của thần linh, người dân nơi đây đã lập nên 3 ngôi miếu để thờ vợ chồng vị tướng đã có cơng đánh trận, dẹp giặc. Trong đó việc hương khói tại miếu thờ thuộc thơn Cốc Lải được giao cho dịng họ Chu.

<i><b> 1.1.2 Truyền thuyết về lễ hội Lồng Tồng ở Thượng Lâm –Tuyên Quang </b></i>

<small> </small>Chuyện kể rằng ở Thượng Lâm xưa có gia đình một thổ ty họ Quằng. Con gái trong vùng, trước khi đi lấy chồng đều phải đến ngủ ở nhà thổ ty ba đêm mới được về. Hàng trăm người đã phải chịu cảnh ấy, đến một ngày dân làng không chịu được đã nổi lên giết cả nhà thổ ty khơng cịn một ai. Nhưng khơng ngờ, trong lúc hỗn loạn ấy thì một người đàn bà tên Quằng Thị Liêm đã chạy trốn được trong đêm tối. Bà Quằng Thị Liêm là người con gái đẹp nổi tiếng. Bà chạy xuống tận Chiêm Hóa cách đấy gần một trăm cây số. Dân làng thoát khỏi nạn thổ ty, nhưng từ đấy mùa màng thất bát, cây lúa chẳng đơm bông, con thú chẳng về rừng, dân làng đứng trước nạn đói. Một lần có một thầy mo đi qua đất này, nghe được câu chuyện đã bảo: “Nhà này vẫn còn sống một người. Phải tìm được và đưa bà về”. Dân làng chia nhau đi tìm và cuối cùng tìm được bà ở Chiêm Hóa. Bà về lại

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

quê quán và mang theo cả gia đình mới về chung sống. Bà về gieo lúa trước rồi dân làng mới gieo phía sau. Lúa của bà để cả tháng trời ngồi bãi chuột cũng khơng phá, mưa gió nắng nôi nhưng lúa cùa bà vẫn không bị ảnh hưởng. Khi bà chết, gạo của bà vẫn để ngoài ruộng, dân làng lấy về thổi xôi cúng bà và chia cho mỗi gia đình một ít. Từ đấy Thượng Lâm lại trở nên trù phú. Lúa lại đầy bồ, thịt khô lại chứa đầy gác bếp. Dân làng lập đền thờ và gọi với cái tên Bà Chùa. Những nét tài hoa khi ngày bà còn sống như đan áo, thêu thùa, đi ruộng, nấu cơm... từ đấy đi vào đời sống của phụ nữ người Tày như những nét đẹp bổ trợ cho hình thức thiên phú có sẵn.

<i><b> 1.2 Lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn</b></i>

Lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn có một lịch sử phong phú và nguồn gốc từ các nền văn hóa của người Pà Thẻn, một dân tộc thiểu số sống tại các tỉnh Kon Tum và Gia Lai ở miền Trung Việt Nam. Dưới đây là một cái nhìn tổng quan về lịch sử ra đời của lễ hội này:

<i><b>Nguồn gốc: Lễ hội nhảy lửa được cho là có nguồn gốc từ văn hóa </b></i>

của người Jrai, một dân tộc thiểu số sống tại miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam. Lễ hội này chủ yếu được tổ chức để tôn vinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

các vị thần, tưởng niệm các vị anh hùng và cầu mong mùa màng bội thu.

<i><b>Truyền thuyết về việc ra đời của lễ hội: Có một truyền thuyết phổ </b></i>

biến trong cộng đồng người Pà Thẻn về nguồn gốc của lễ hội nhảy lửa. Theo đó, một người đàn ơng trẻ từng nghe thấy tiếng nói của người thần trong giấc mơ. Người thần hướng dẫn anh ta về cách thực hiện lễ hội nhảy lửa để cầu nguyện cho sự bình an và phúc lợi của cộng đồng. Từ đó, lễ hội nhảy lửa được tổ chức mỗi năm để duy trì truyền thống và tơn vinh sự hỗ trợ của người thần.

Một giả thuyết cho rằng lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn bắt nguồn từ thời cổ đại, khi người Pà Thẻn đang sống cách xa các cộng đồng khác và gặp phải các vấn đề về tài nguyên sinh thái, như sự cạn kiệt nước và rừng. Để tạo ra một nghề nuôi sống mới, dân tộc Pà Thẻn đã phải mở rừng, trồng cây và đốt cháy rừng cũ để tạo ra đất trồng trọt mới. Lễ hội nhảy lửa được xem như một nghi thức cầu may và chúc phúc cho mùa vụ tốt đẹp.

Một giả thuyết khác cho rằng lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn bắt nguồn từ nghề săn bắn. Theo truyền thống, người Pà Thẻn hay sống trong khu rừng và đã phát triển nhiều kỹ năng săn bắn. Lễ hội nhảy lửa có thể được coi là một cách để

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thể hiện và chứng minh những kỹ năng này, khi người Pà Thẻn nhảy qua lửa một cách mạnh mẽ và điêu luyện. => Dù cho nguồn gốc chính xác của lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn vẫn chưa được xác định rõ ràng, công dân và cộng đồng Pà Thẻn hiện nay vẫn duy trì và tổ chức lễ hội này để kỷ niệm và bảo tồn văn hóa của mình. Lễ hội nhảy lửa đã trở thành một nguồn cảm hứng văn hóa và du lịch, thu hút nhiều du khách đến tham gia và khám phá.

<i><b> 1.3 Lễ hội Nàng Hai</b></i>

Tương truyền rằng cách đây 400 năm, triều đình nhà Lê và triều đình nhà Mạc đánh nhau giành ngôi thống trị. Năm 1592, nhà Mạc thất thủ rời kinh đơ lên Cao Bình (Cao Bằng), xây thành đắp luỹ ở các lỵ: Hoà An, Phục Hoà, Trùng Khánh để chống lại nhà Lê. Năm 1667, vua Lê Hy Tông cử tướng Đinh Văn Tả làm thống lĩnh mở đợt tấn cơng lên Cao Bình đánh chiếm thành nhà Mạc. Riêng Mạc Kính Vũ trốn thốt về Phục Hồ, cịn cơ con gái cả tên là Mạc Tuyết Lan, thường gọi là Tiên Giao (nghĩa là "nàng tiên hát hay") lúc đó mới 13 tuổi được bà cấp dưỡng ở trường Quốc học Bản Thảnh - Cao Bình đưa đi trốn ở Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.Vài năm sau đó, được biết tin cha mình ở Phục Hồ vẫn cịn sống, cơng chúa Tuyết Lan cùng cô bạn thân lặn lội từ Ba Bể lên Phục Hồ tìm cha. Khi đến xóm Phiêng Lâu - Tổng Lao thì hai cơ mệt lả, nằm nghỉ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

trên bãi cỏ, công chúa do mệt quá nên ngất đi. Cô bạn thân sợ quá kêu cứu thì tướng Đinh Văn Tả đang đi thị sát trên vọng gác ở Kéo Tu Pụt nghe thấy đã cho quân đến cứu. Khi tỉnh dậy, hai cô khai là bị cha mẹ ép lấy chồng sớm, hai cô không ưng nên bỏ trốn. Thấy thương hai cô gái, tướng quân Đinh Văn Tả đã cho hai cô về làm tỳ nữ, hầu hạ trong đại bản doanh Tổng Lao. Thấy cơng chúa có tài ca hát, tướng qn đã cho cô cho đứng đầu một đội thiếu nữ địa phương hướng dẫn họ múa hát trong lễ cầu mùa. Nhờ tài lượn hát của cô nên các khúc hát được sử dụng trong lễ cầu mùa phong phú và bài bản hơn. Để làm yên lòng binh sĩ, tướng quân đã cho tổ chức cho quân cùng múa hát trong những đêm trăng sáng. Nhân dân Tổng Lao biết ơn hai cơ gái có nhiều cơng lao to lớn trong sưu tầm và phát triển các làn điệu lượn Hai, lượn Slương nên khi tổ chức lễ cầu mùa nhân dân gọi là lễ hội nàng Tiên Giao, về sau gọi tắt là lễ hội Nàng Hai.

<b> 2. Các lễ hội đặc trưng vùng văn hóa Việt Bắc </b>

<i><b> 2.1 Lễ hội Lồng tồng</b></i>

<small> </small>Lễ hội Lồng Tồng hay còn gọi là Hội xuống đồng, Oóc tồng; là một trong những lễ hội nổi tiếng của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ. Lễ hội Lồng Tồng được diễn ra vào dịp tháng Giêng thường vào ngày mùng 4 đến ngày 25 tại Yên Sơn, Chiêm Hóa, Na

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Hang (của Tuyên Quang), Quang Minh (của Hà Giang), Định Hóa (Thái Nguyên) và Ba Bể ( Bắc Kạn). Tùy theo phong tục của từng địa phương mà tổ chức khác ngày nhau và thời gian thường kéo dài trong 3 ngày.

Lễ hội mang dấu ấn tín ngưỡng phồn thực, là hoạt động tín ngưỡng cầu mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu. Là Lễ hội cầu may, cầu mùa, là dịp để nhân dân các dân tộc tri ân trời đất, tri ân tổ tiên dịng họ, ơng, bà, cha, mẹ, những người đã khai phá ra những mảnh ruộng đầu tiên và truyền dạy việc nuôi trồng, cấy hái, sự sinh khắc chuyển vần của ngũ hành, của trời đất, của nắng mưa, sương gió, của mồ hơi lao động đã tạo nên những sản vật quý giá để nuôi sống con người… Lễ hội được khởi nguồn từ trong cộng đồng của người Tày và thường được tổ chức ở những ruộng đất tốt nhất, to nhất trong bản làng.

Lễ hội Lồng Tồng thường có hai phần là phần lễ và phần hội. Lễ hội bắt đầu khi chiêng trống nổi lên, rồi các bô lão và tráng đinh rước Thần Nơng và Thành Hồng từ đình ra ruộng, cịn các gia đình thì rước cỗ bày ra trên bãi hội.

<b>Phần Lễ</b>

Phải chuẩn bị một mâm cỗ với đầy đủ các sản vật của địa phương do chính những bàn tay khéo léo, chịu thương, chịu khó của nhân dân các dân tộc làm ra đem dâng lên trời đất,

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

thần linh. Mâm cúng đầy đủ có gà luộc, bánh chưng, thịt lợn, trứng luộc nhuộm phẩm màu, xôi đỏ và xôi vàng tượng trưng cho mặt trăng, mặt trời, âm dương thể hiện những mơ ước, khát vọng cuộc sống ấm no, sinh sôi nảy nở của người dân gửi gắm. Ngồi ra, trên mỗi mâm cỗ đều có các món ăn truyền thống như bánh chưng, bánh giầy, chè lam, bánh hình bơng hoa nhiều màu sắc. Đối với các lễ vật cúng tế được người dân chuẩn bị rất chu đáo, được lựa chọn nguyên liệu, khéo léo nấu nướng và trang trí cầu kì đẹp mắt. Bánh khảo, bánh bóng, bánh chưng được làm khéo léo, gà cúng lựa chọn là gà sống thiến béo có chân, đầu và mào đỏ đẹp, lợn đen cúng tế phải từ 50 kg trở lên. Đặc biệt, cịn có những hạt giống, theo quan niệm của bà con nơi đây, hạt giống tạo nên mùa màng, tạo ra sản phẩm lương thực cho con người.

<b>Các nghi thức tiến hành phần lễ</b>

Lễ khấn cho mưa thuận gió hịa, mùa màng tốt tươi được thực hiện do các thầy tào tiến hành. Bắt đầu phần lễ với nghi lễ của dân tộc Tày xin Thành hoàng làng mở hội, tạ Thiên Địa, cầu Thần Nông, thần Núi, thần Suối. Trong lễ hội thì nghi thức xuống đồng đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Dân trong làng sẽ lựa chọn một người đàn ông to khỏe, đức độ, cày giỏi, làm ăn giỏi nhất trong làng và một con trâu tốt để

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

vạch những đường cày đầu tiên của vụ mới, cầu cho một năm mùa

<b>Phần Hội </b>

Kết thúc những nghi lễ quan trọng nhất của của phần lễ thì phần hội với nhiều trò chơi dân gian truyền thống thu hút mọi người tham gia. Trò chơi phải nhắc đến đầu tiên trong lễ hội Lồng Tồng là trò tung còn. Ở giữa ruộng lớn người ta dựng một cây mai cao từ 20-30 cm làm cột. Trên đỉnh cột uốn vịng trịn đường kính 60 cm dán hai chữ Nhật – Nguyệt tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời. Trong lễ hội nếu khơng ai tung trúng vịng trịn thì dân bản khơng vui vì theo quan niệm nếu làm rách giấy ở vịng trịn thì năm đó mới làm ăn thuận lợi. Bên cạnh đó thì hội thi Cấy lúa được rất nhiều người chú ý tham gia. Mỗi làng xã sẽ chọn ra những người phụ nữ nhanh nhẹn, khéo léo và cấy giỏi nhất để tham gia hội thi. Ngồi ra, phần hội cịn diễn ra các trò chơi truyền thống khác như: kéo co, đấu gậy, bắn nỏ, cờ tướng, đi cà kheo, đánh bi, đánh khăng,…

Lễ hội Lồng Tồng còn là nơi để các chàng trai, cô gái gặp gỡ, giao duyên qua những điệu hát then, sli,… ngọt ngào. Lễ hội chính là bức tranh mơ tả tương đối tồn diện về đời sống văn

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hóa của người Tày, Nùng nói riêng và của cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc nói chung.

<i><b> Lễ hội được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, trở thành điểm tựa vững chắc vào việc phát triển du lịch của vùng cũng như giữ gìn nét văn hóa, truyền thống độc đáo nơi rẻo cao này.</b></i>

<i><b> 2.2 Lễ hội Lồng Tồng Ba Bể</b></i>

<i><b>Thời gian: Lễ hội Hồ Ba Bể được tổ chức vào ngày mùng 9 và 10</b></i>

tháng giêng âm lịch hàng năm.

<i><b>Địa điểm: Hồ Ba Bể nằm ở trung du phía Bắc thuộc tỉnh Bắc Kạn,</b></i>

cách Hà Nội 240km. Nơi đây tập trung 7 dân tộc gồm dân tộc Tày,

<b>Nùng, Dao và H'Mơng.., trong đó dân tộc Tày chiếm 61%. </b>

<b>Hoạt động trước lễ hội: </b>

Vào những ngày này, bà con vừa ăn Tết, vừa chuẩn bị cho ngày hội. Bà con làm nhiều loại bánh khác nhau từ bột gạo nếp ngâm với các loại lá rừng như bánh trời, bánh khảo, bánh nếp... rồi đặc sản rượu Khưa Quang cất từ ngô trồng trên đỉnh núi được chưng cất bằng men lá, uống vào sẽ có cảm giác lâng lâng như đi trên mây suốt mấy ngày. Vào ngày hội, mỗi xã, thị trấn trong huyện Ba Bể đều dựng trại và bày bán đủ thứ đặc sản của địa phương mình. Vải thổ cẩm, quần áo dân tộc, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong, rượu ngô, măng khơ, thậm chí cả khoai, sắn, bí ngơ, đỗ mèo dân dã cũng được trang trọng bày ở bàn giới thiệu đặc sản địa phương.

Sáng ngày mùng Mười, lễ hội chính thức khai mạc.

</div>

×