Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.69 MB, 65 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINHTRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT</b>
TP. Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 05 năm 2022
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><i><b>1. Lý do chọn đề tài...4</b></i>
<i><b>2. Cơ sở lý thuyết...4</b></i>
<i><b>2.1. Khái niệm về xuất nhập khẩu...4</b></i>
<i><b>2.1.1. Khái niệm về xuất khẩu...4</b></i>
<i><b>2.1.2. Khái niệm về nhập khẩu...5</b></i>
<i><b>2.2. Các hình thức xuất nhập khẩu...5</b></i>
<i><b>2.2.1. Các hình thức xuất khẩu...5</b></i>
<i><b>2.2.2. Các hình thức nhập khẩu...6</b></i>
<i><b>2.3. Vai trò...7</b></i>
<i><b>2.3.1. Vai trò của xuất khẩu...7</b></i>
<i><b>2.3.2. Vai trò của nhập khẩu...8</b></i>
<i><b>2.4. Các yếu tố tác động đến xuất nhập khẩu...8</b></i>
<i><b>2.4.1. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu...8</b></i>
<i><b>2.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhập khẩu...11</b></i>
<i><b>3. Phân tích kết quả nghiên cứu...12</b></i>
<i><b>3.1. Phân tích hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2019-2021...12</b></i>
<i><b>3.1.1. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2019-2021...12</b></i>
<i><b>3.1.2 Một số nhóm hàng xuất nhập khẩu chính...15</b></i>
<i><b>3.1.2.1. Một số nhóm hàng xuất khẩu chính...15</b></i>
<i><b>3.1.2.2. Một số nhóm hàng nhập khẩu chính...20</b></i>
<i><b>3.1.3 Một số thị trường xuất nhập khẩu...21</b></i>
<i><b>3.2. So sánh hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với một số nước trong khu vực (ASEAN) trong giai đoạn 2020-2021...25</b></i>
<i><b>3.2.1. Xuất nhập khẩu của Việt Nam và Thái Lan...25</b></i>
<i><b>3.2.3. Xuất nhập khẩu của Malaysia và Việt Nam...30</b></i>
<i><b>3.3. Đánh giá, nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2020-2021...32</b></i>
<i><b>3.3.1. Đánh giá, nhận xét về tình hình nhập khẩu của Việt nam năm 2020...32</b></i>
<i><b>3.3.2. Đánh giá nhận xét tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2021...35</b></i>
<i><b>3.4. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong việc gia nhập các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực ngoại thương...38</b></i>
<i><b>3.4.1 Cơ hội...38</b></i>
<i><b>3.4.2 Thách thức...39</b></i>
<i><b>4. Thảo luận cá nhân...41</b></i>
<i><b>4.1. Phần thảo luận của Thái Thị Bích Quyên...41</b></i>
<i><b>4.2. Phần thảo luận của Phạm Quách Tường Vy...45</b></i>
<i><b>4.3. Phần thảo luận của Nguyễn Anh Đào...45</b></i>
<i><b>4.4. Phần thảo luận của Chu Thị Thùy Dương...47</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><i><b>4.5. Phần thảo luận của Huỳnh Dương Dương...50</b></i>
<i><b>4.6. Phần thảo luận của Phan Thị Thu Hoài...52</b></i>
<i><b>4.7. Phần thảo luận của Trần Thị Bảo Khuyên...55</b></i>
<i><b>4.8. Phần thảo luận của Nguyễn Thảo Vi...55</b></i>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...59</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>1. Lý do chọn đề tài</b>
Việt Nam vốn là một nước có thế mạnh vơ cùng lớn trong lĩnh vực nông nghiệp, sản xuất những mặt hàng nông sản từ những ưu thế về đất đai, khí hậu, con người… Đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất nhập khẩu là một công cụ để giúp nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng hơn. Điều này đã một phần giúp cho những mặt hàng của nước ta có cơ hội được xuất khẩu đến các nước trên thế giới. Tuy nhiên, thị trường xuất nhập khẩu của nước ta đang lao đao trước con sóng mang tên COVID-19. Đại dịch COVID-19 đã và đang diễn ra một cách khó lường tại hầu hết khắp các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đây cũng được coi là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm và được nhiều cơng trình nghiên cứu khai thác. Dịch bệnh từ đầu năm 2020 đến nay đã ảnh hưởng đến khả năng sản xuất, thị trường và nhu cầu sử dụng nhiều mặt hàng được coi như một trong những rào cản cho việc xuất nhập khẩu của nước ta. Bài nghiên cứu “Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2020-2021” cũng đã đề cập đến những tác động của COVID-19 đến hoạt động kinh tế như sự bất ổn và sụt giảm trong các ngành như tài chính,... Những biện pháp giãn cách xã hội, đóng cửa quốc gia cũng khiến cho hoạt động xuất khẩu bị tổn thương nặng nề. Thơng qua sự tìm hiểu và đánh giá, phân tích cụ thể trong bài nghiên cứu, ta sẽ nhìn có cái nhìn khách quan về tác động cụ thể của đại dịch COVID-19 đến tình hình xuất nhập khẩu ở Việt Nam, đánh giá mức độ tác động nặng hay nhẹ, những mặt trái còn tồn tại là gì. Từ cơ sở thực tiễn đó đưa ra nhận xét và định hướng phù hợp đối với tương lai của lĩnh vực ngoại thương Việt Nam.
<i><b>2. Cơ sở lý thuyết</b></i>
<i><b>2.1. Khái niệm về xuất nhập khẩu2.1.1. Khái niệm về xuất khẩu</b></i>
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hố ra nước ngồi, nó khơng phải là hành vi bán hàng riêng lẻ mà là hệ thống bán hàng có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngồi nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Trong tính toán tổng cầu, xuất khẩu được coi là nhu cầu từ bên ngoài (ngoại nhu).
phát triển theo đuổi chiến lược cơng nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu.
<i><b>2.1.2. Khái niệm về nhập khẩu</b></i>
bán trong một nền kinh tế có cả tổ chức bên trong và bên ngoài. Mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, thiết bị kỹ
động, tăng giá trị ngày công, và giải quyết sự khan hiếm hàng hóa, vật tư trên thị trường nội địa.
Hàm nhập khẩu: M = γ.Y + δ
Ký hiệu: M: kim ngạch (giá trị) nhập khẩu Y: tổng thu nhập quốc dân
δ: giá trị nhập khẩu cơ bản không phụ thuộc vào thu nhập γ: khuynh hướng nhập khẩu biên
<i><b>2.2. Các hình thức xuất nhập khẩu2.2.1. Các hình thức xuất khẩu</b></i>
Xuất khẩu trực tiếp: việc xuất khẩu các loại hàng hóa và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngồi thơng qua các tổ chức của mình.
Xuất khẩu ủy thác: là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị XNK đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu do đó nhà sản xuất và qua đó được hưởng một số tiền nhất định gọi là phí uỷ thác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Buôn bán đối lưu (Counter - trade): là một trong những phương thức giao dịch xuất khẩu trong xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng trao đổi với nhau có giá trị tương đương.
Xuất khẩu hàng hóa theo nghị định thư: là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là để gán nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai Chính phủ.
Xuất khẩu tại chỗ: là hình thức kinh doanh mới nhưng đang phát triển rộng rãi, do những ưu việt của nó đem lại. Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hố khơng cần vượt qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn mua được. Do vậy nhà xuất khẩu không cần phải thâm nhập thị trường nước ngồi mà khách hàng tự tìm đến nhà xuất khẩu.
Gia công quốc tế: là một phương thức kinh doanh trong đó một bên gọi là bên nhận gia công nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao cho bên đặt gia cơng và nhận thù lao (gọi là phí gia cơng).
Tạm nhập tái xuất: là một hình thức xuất khẩu trở ra nước ngồi những hàng hố trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất qua hợp đồng tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về số ngoại tệ lớn hơn số ngoại tệ đã bỏ ra ban đầu
<i><b>2.2.2. Các hình thức nhập khẩu.</b></i>
Nhập khẩu trực tiếp: người mua và người bán hàng hóa trực tiếp giao dịch với nhau, q trình mua và bán khơng hề ràng buộc lẫn nhau.
Nhập khẩu ủy thác: là hoạt động dịch vụ thương mại theo đó chủ hàng thuê một đơn vị trung gian thay mặt và đứng tên nhập khẩu hàng hóa bằng hợp động ủy thác. Bên ủy thác phải có trách nhiệm cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, khách hàng, những điều kiện liên quan đến đơn hàng được ủy thác, ký kết hợp đồng và thực hiện các thủ tục liên quan đến nhập khẩu.
Buôn bán đối lưu: là phương thức thanh toán trong thương mại quốc tế, được sử dụng chủ yếu trong các giao dịch mua bán với chính phủ những nước đang phát triển. Hàng hóa và dịch vụ được đổi lấy hàng hóa và dịch vụ khác có giá trị tương đương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Tạm nhập tái xuất: là tiến hành nhập khẩu hàng hóa nhưng khơng để tiêu thụ trong nước mà để xuất khẩu sang một nước thứ ba nhằm thu lợi nhuận.
Nhập khẩu gia cơng: là hình thức mà bên nhận gia công nhập khẩu vật liệu từ người thuê gia công ở nước khác, theo hợp đồng gia cơng đã ký kết.
<i><b>2.3. Vai trị </b></i>
<i><b>2.3.1. Vai trò của xuất khẩu</b></i>
Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc cơng nghiệp hóa đất nước địi hỏi cần phải có một nguồn vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, các cơng nghệ tiên tiến phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn cho việc nhập khẩu có thể có được từ các nguồn như liên doanh đầu tư với nước ngoài, vay nợ, viện trợ,... Tuy nhiên, nguồn vốn có được từ các nguồn này cũng phải được trả lại dù bằng cách này hay cách khác. Trong khi việc xuất khẩu có thể đem lại một nguồn tiền lớn, làm nguồn vốn chủ yếu cho việc nhập khẩu.
Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Khi hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển, đồng thời đem lại một nguồn lợi lớn làm cho hoạt động sản xuất ngày càng phát triển góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
Tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ khi ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (lúa gạo, chè, cà phê,...) phát triển thì có thể kéo theo sự phát triển của ngành nông nghiệp và các ngành công nghiệp sản xuất thiết bị, vật liệu cho việc tạo ra sản phẩm.
Tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tối đa sản xuất trong nước. Khi xuất khẩu thì thị trường tiêu thụ lúc này khơng cịn là một thị trường trong nước nữa mà sẽ mở rộng ra thị trường thế giới, đem lại nguồn lợi lớn hơn kích thích việc sản xuất trong nước.
Tạo những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất hàng hóa trong nước. Khi xuất khẩu, các hàng hóa sẽ tham gia cạnh tranh với nhiều sản phẩm trên thị trường. Việc cạnh tranh này đòi hỏi các tổ chức phải ln nâng cao trình độ
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">sản xuất, ln đổi mới và hồn thiện sản phẩm với chất lượng cao và hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời phải luôn thay đổi để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Tạo thêm việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Khi hoạt động xuất khẩu ngày càng mở rộng thì hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu ngày càng phát triển góp phần tạo nhiều cơng ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống của người dân.
<i><b>2.3.2. Vai trò của nhập khẩu.</b></i>
Thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc nhập khẩu u cầu chi phí lớn do đó các doanh nghiệp sẽ càng chú trọng đến việc sử dụng các thiết bị hiện đại, các công nghệ mới để sản xuất hàng hóa với chi phí thấp hơn làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển hiện đại hơn.
Làm đa dạng hóa hàng tiêu dùng trong nước, mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức sống của người dân.
Xóa bỏ tình trạng độc quyền tồn khu vực và thế giới tiến đến sự hợp tác giữa các quốc gia.
Làm tăng sự cạnh tranh giữa các hàng hóa ở thị trường trong nước. Sự cạnh tranh này góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước ngày càng vươn lên, luôn nghiên cứu tìm tịi để sản xuất ra hàng hóa chất lượng cao, hạ giá thành tăng cường sức cạnh tranh đối với các hàng hóa nước ngồi.
Tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế. Khi chất lượng hàng hóa được nâng cao thì sức cạnh tranh đối với hàng hóa các các nước sẽ càng tăng, tạo được thương hiệu, sự tin dùng của khách hàng nước ngoài.
<i><b>2.4. Các yếu tố tác động đến xuất nhập khẩu2.4.1. Các yếu tố tác động đến xuất khẩu</b></i>
Các yếu tố kinh tế:
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu. Và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu bao gồm: Quy mô nền kinh tế (GDP) của nước xuất khẩu, thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Đối với yếu tố quy mô nền kinh tế (GDP) của nước xuất khẩu, khi xét về thu nhập của nước xuất khẩu thì có thể xét đến giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá trị đại diện cho yếu tố cung hàng xuất khẩu. Khi tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong lãnh thổ của một quốc gia càng tăng lên thì cơ hội xuất khẩu sẽ càng nhiều hơn. Tuy nhiên, không phải bất kỳ nền kinh tế nào cũng chịu sự ảnh hưởng như nhau của yếu tố sản xuất trong nước mà mức độ ảnh hưởng sẽ phụ thuộc vào từng nền kinh tế. Đối với nền kinh tế lấy xuất khẩu làm động lực thì thu nhập quốc dân và xuất khẩu có mối liên hệ mật thiết, không thể tách rời nhau nên khi giá trị sản xuất gia tăng sẽ đồng nghĩa với việc hàng xuất khẩu ngày càng nhiều. Còn đối với các nền kinh tế khơng theo mục tiêu xuất khẩu thì thu nhập quốc dân khơng có ảnh hưởng q lớn đến giá trị xuất khẩu hàng hóa.
Nhu cầu của thị trường, đây là yếu tố có sự ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. Khi nhu cầu của thị trường đối với một mặt hàng tăng thì thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu, các mặt hàng đó sẽ có cơ hội xuất khẩu với số lượng lớn hơn, giá thành cao hơn.
Với yếu tố thuế quan, thì đây là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi cho nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên, thuế quan có thể sẽ làm giảm lượng hàng hóa xuất khẩu đối với một số loại hàng hóa.
Với yếu tố hạn ngạch, quy định về số lượng hàng hóa tối đa được xuất khẩu của một mặt hàng hay một nhóm hàng hóa được phép xuất khẩu trong khoảng thời gian nhất định do nhà nước ban hành. Yếu tố này sẽ giới hạn số lượng hàng hóa được xuất khẩu đối với một số mặt hàng nhà nước cần phải kiểm sốt vì quyền lợi của quốc gia hay đó là hàng hóa đặt biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu.
Với yếu tố trợ cấp xuất khẩu, yếu tố này sẽ làm tăng mức độ xuất khẩu của các hàng hóa trong nước tạo điều kiện cho hàng hóa có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới.
Các yếu tố xã hội: các yếu tố xã hội có thể đem lại sự ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Một trong các yếu tố xã hội đó là văn hóa. Nền văn hóa của một quốc gia sẽ tạo nên cách sống quyết định các thức sản xuất, tiêu dùng,
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">thứ tự ưu tiên đối với nhu cầu cá nhân. Những điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc mặt hàng nào được xuất khẩu, xuất khẩu nhiều hay ít.
Các yếu tố chính trị: yếu tố chính trị có thể đem lại ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với hoạt động xuất khẩu. Các chính sách của Chính phủ có thể làm tăng sự liên kết giữa các thị trường làm gia tăng tốc độ tăng trưởng của các hoạt động xuất khẩu bằng việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan, thiết lập các mối quan hệ đối với các thị trường trên thế giới như kí kết các hiệp ước, hiệp định thương mại đối với các nước. Đồng thời, các chính sách của chính phủ cũng dựa trên các quy định quốc tế về xuất khẩu.
Các yếu tố về tự nhiên và cơng nghệ:
Các yếu tố về tự nhiên như vị trí các nước, khoảng cách địa lý giữa các nước cũng ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu. Khoảng cách địa lý giữa các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải, thời gian thực hiện, ký kết hợp đồng do đó nó sẽ ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn hàng , thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Đồng thời vị trí của các nước cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng, thị trường tiêu thụ. Do đó các nước có vị trí địa lý thuận lợi thì hoạt động xuất khẩu sẽ dễ dàng phát triển hơn.
Bên cạnh đó thì các yếu tố như khoa học công nghệ và đặt biệt là công nghệ thông tin ngày càng phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất, theo dõi, điều khiển hàng hóa xuất khẩu, tiết kiệm chi phí sản xuất cũng như các chi phí liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Và nhờ vậy nên hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển hơn.
Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp:
Ngoài các yếu tố kinh tế, xã hội, tự nhiên, cơng nghệ thì các nhân tố thuộc về doanh nghiệp như tài chính, lao động, uy tín, hình ảnh hay các mối quan hệ của doanh nghiệp cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Khi một doanh nghiệp có nguồn tài chính lớn có thể đầu tư vào kinh doanh, một nguồn lao động có trình độ chun mơn cao kèm theo một thương hiệu, hình ảnh uy tín trên thị trường, cũng như có nhiều mối quan hệ xã hội thì sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm nước ngoài làm cho hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển.
<i><b>2.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhập khẩu</b></i>
Các chế độ, chính sách, luật pháp trong nước và quốc tế:
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Cũng như xuất khẩu, thì đây là yếu tố mà các doanh nghiệp nhập khẩu cần phải nắm rõ cũng như tuân theo một cách vơ điều kiện vì các yếu tố này có sự thống nhất trên thế giới, đồng thời bảo vệ lợi ích chung của xã hội cũng như lợi ích chung của các nước trên thị trường quốc tế. Ở mỗi quốc gia khác nhau, hoạt động nhập khẩu sẽ chịu tác động của chế độ, chính sách, luật pháp khác nhau tùy thuộc vào từng quốc gia nhưng tất cả đều phải tuân theo những quy định, luật pháp chung của quốc tế về hoạt động nhập khẩu.
Sự ảnh hưởng qua lại giữa thị trường trong và ngoài nước:
Hoạt động xuất nhập khẩu như một cầu nối thông thương giữa hai nước do đó sẽ có sự tác động qua lại giữa hai nước cũng như sẽ có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Ví dụ như khi mà các sản phẩm trong nước dư thừa, nhu cầu tiêu dùng giảm thì sẽ làm giảm lượng hàng nhập khẩu và ngược lại. Theo đó thì thị trường nước ngồi sẽ quyết định sự thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Sự ảnh hưởng của nền sản xuất:
Sự phát triển của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp sản xuất trong nước đem lại sự ảnh hưởng lớn đối với hoạt động nhập khẩu. Khi nền sản xuất và các doanh nghiệp sản xuất trong nước ngày càng phát triển sẽ tạo ra sức mạnh cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu, tạo ra được các sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu khi đó sẽ làm giảm nhu cầu của thị trường đối với hàng nhập khẩu. Và nếu nền sản xuất trong nước kém phát triển, trình độ khoa học cơng nghệ lạc hậu thì các doanh nghiệp trong nước sẽ không thể đáp ứng các nhu cầu của thị trường đối với các sản phẩm đòi hỏi phải sản xuất với kỹ thuật cao thì khi đó thì nhu cầu hàng nhập khẩu cao làm hoạt động nhập khẩu tăng.
Hệ thống tài chính ngân hàng:
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng ngày càng phát triển và có quan hệ mật thiết đối với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bởi vai trò quan trọng của nó trong việc quản lý, cung cấp vốn, thanh tốn nhanh chóng, thuận tiện và chính xác. Các hoạt động nhập khẩu ngày nay có có thể thực hiện nếu như khơng có hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng có thể đứng ra bảo lãnh hoặc cho vay với khối lượng lớn một cách nhanh chóng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><i><b>3. Phân tích kết quả nghiên cứu</b></i>
<i><b>3.1. Phân tích hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2020-20213.1.1. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2020-2021.</b></i>
<b>Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2020:</b>
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 78,2 tỷ USD, giảm 1,1%, chiếm 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi (kể cả dầu thơ) đạt 203,3 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 72,2% (tỷ trọng tăng 2,1 điểm phần trăm so với năm trước).
Kim ngạch nhập khẩu năm 2020 đạt 262,4 tỷ USD, tăng 3,6% so với năm 2019. Nhập khẩu tập trung chủ yếu ở nhóm hàng cần thiết cho sản xuất, xuất khẩu, gồm máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 245,6 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm 2019, chiếm tỷ trọng 93,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải, phụ tùng tăng mạnh tới 16,3%. Điều này chứng tỏ nền kinh tế đang có sự phục hồi khá mạnh mẽ về sản xuất trong khi nhập khẩu cho tiêu dùng đã giảm đáng kể, tỷ trọng chỉ chiếm 6,4%, giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm 2019. Năm 2020
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó, 24 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, 9 mặt hàng có kim ngạch trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD.
<b>Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2021:</b>
Năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2021 đạt 332,23 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 114,03 tỷ USD, tăng 21,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi đạt 218,21 tỷ USD, tăng 29,1%. Trong năm 2021 có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 94,1% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2021 đạt 336,31 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 91,09 tỷ USD, tăng 14,2%, chiếm 27,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi (kể cả dầu thơ) đạt 245,22 tỷ USD, tăng 20,9%, chiếm 72,9%. Trong năm 2021 có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%).
<i><b>3.1.2 Một số nhóm hàng xuất nhập khẩu chính3.1.2.1. Một số nhóm hàng xuất khẩu chính</b></i>
<b>Xuất khẩu điện thoại và linh kiện:</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam năm 2020 đạt 51,2 tỷ USD, giảm 0,4% so với năm 2019 và chiếm trên 18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước.Trong khi các nhóm hàng khác gặp khó khăn, kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện vẫn đạt doanh số trên 50 tỷ USD do nhu cầu tiêu dùng điện thoại thông minh tăng trong điều kiện dịch bệnh.Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Hồng Kông (Trung Quốc) vẫn là 4 thị trường chính của Việt Nam chiếm đến gần 71,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cả 4 thị trường này đều có sự tăng trưởng xuất khẩu cao trong năm 2020.
Năm 2021, xuất khẩu điện thoại và linh kiện xếp thứ nhất trong 8 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD của Việt Nam. Xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 57,536 tỷ USD, tăng 12,4% so với năm 2020.
<b>Xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện:</b>
Trong khi nhiều ngành sản xuất, xuất khẩu bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 thì lĩnh vực hàng điện tử vẫn tăng trưởng khá. Kim ngạch xuất khẩu máy tính và linh kiện điện tử năm 2020 đạt 44,58 tỷ USD, tăng 24,1% so với năm 2019 và chiếm gần 15,8% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu máy tính và linh kiện điện tử của khối doanh nghiệp FDI đạt trên 43,15 tỷ USD, tăng 34,7% so với năm 2019 và chiếm 96,8% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước.
Xuất khẩu máy vi tính, linh kiện và sản phẩm điện tử cả năm 2021 đã đạt mức 51 tỷ USD, tăng 14,4% so với năm 2020. Nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện Việt Nam đã khai thác tốt các thị trường truyền thống và đồng thời tìm kiếm, phát triển các thị trường mới. Việt Nam xuất khẩu sản phẩm máy tính, linh kiện điện tử đến trên 100 thị trường trên thế giới.
<b>Xuất khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác:</b>
Máy móc, thiết bị, phụ tùng là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá tích cực năm 2020. Kim ngạch xuất khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng khác năm 2020 đạt 27,2 tỷ USD, tăng 48,6% so với năm 2019, chiếm khoảng 9,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Năm 2020, xuất khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng của
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">khối doanh nghiệp FDI đạt 23,7 tỷ USD, tăng 56,4% so với năm 2019 và chiếm 87,3% toàn ngành. Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng trong năm 2020 chủ yếu gồm: Hoa Kỳ với 12,2 tỷ USD, tăng mạnh 141,5%; EU đạt trị giá 2,8 tỷ USD, tăng 25%; Hàn Quốc với 2,05 tỷ USD, tăng 25,9%; Nhật Bản với 2,05 tỷ USD, tăng 5,6%; Trung Quốc với 1,94 tỷ USD, tăng 22,2%... so với năm 2019.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác là nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2020 khá cao (41%) trong 8 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 10 tỉ USD của Việt Nam. Trong năm 2021, xuất khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng khác sang Hoa Kỳ đạt 17,82 tỷ USD, tăng mạnh 45,9%; sang EU (27) đạt 4,36 tỷ USD, tăng 47,2%; sang Trung Quốc đạt 2,88 tỷ USD, tăng 48,5%; sang Hàn Quốc đạt 2,57 tỷ USD, tăng 25,3%...
<b>Xuất khẩu hàng dệt may:</b>
Năm 2020, tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm của ngành dệt may đạt khoảng 35 tỷ USD, giảm 9,8% so với năm 2019. Trong đó, xuất khẩu hàng dệt may đạt 29,8 tỷ USD, giảm 9,2%.
Linh hoạt thích ứng với khó khăn của đại dịch COVID-19, ngành dệt may đang đứng trước cơ hội "nóng lại" nhờ sức cầu hồi phục mạnh trên thị trường thế giới. Lũy kế đến hết năm 2021, cả nước đã xuất khẩu 32,75 tỷ USD hàng dệt may (xấp xỉ với mức xuất khẩu cao nhất 32,8 tỷ USD vào năm 2019), tăng 9,8% tương ứng tăng 2,94 tỷ USD so với năm trước.
<b>Xuất khẩu giày dép:</b>
Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng giày dép của Việt Nam năm 2020 đạt 16,8 tỷ USD, giảm 8,3% so với năm 2019. Mặt hàng túi xách, ví, vali, mũ, ơ, dù đạt 3,1 tỷ USD, giảm 16,5%. Tính chung năm 2020, kim ngạch xuất khẩu ngành hàng da giày đạt 19,9 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2019 và chiếm tỷ trọng 7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Năm 2021 cả nước xuất khẩu 17,615 tỷ USD giày dép các loại, tăng 4,9% so với năm 2020 và là năm có trị giá xuất khẩu cao thứ hai từ trước đến nay. Trong đó Hoa Kỳ
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">là thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam. Đây cũng là thị trường xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.
<b>Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ:</b>
Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong năm 2020 đạt 12,37 tỷ USD, tăng 16,2% so với năm 2019. Riêng đối với các mặt hàng sản phẩm đồ gỗ đạt kim ngạch 9,54 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2019 chiếm 77,2% tổng kim ngạch xuất khẩu G&SPG, tăng so với tỷ trọng 73,7% của năm 2019. Năm 2020, xuất khẩu G&SPG vươn lên đứng thứ 6 về kim ngạch xuất khẩu hàng hóa/ nhóm hàng hóa của Việt Nam.Hoa Kỳ là thị trường chủ lực đóng góp lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong năm 2020 của Việt Nam.
Trong năm 2021 trị giá xuất khẩu của nhóm hàng này là 14,812 tỷ USD, tăng 19,7% tương ứng tăng 2,44 tỷ USD so với năm 2020. Trong số các nhóm hàng đạt trên 10 tỷ USD nếu so sánh với năm 2019 thì đây là nhóm hàng có mức tăng khá tốt với 4,16 tỷ USD, tương ứng tăng 39%, trong khi một số nhóm khác lại giảm so với năm 2019. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Hoa Kỳ chiếm tới 59,24%. Năm 2021, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường lớn nhất và ghi nhận mức tăng trưởng cao nhất trong số các thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ chủ lực của Việt Nam đạt trên 8,77 tỷ USD.
<b>Xuất khẩu sắt thép:</b>
Xuất khẩu sắt thép của nước ta trong năm 2020 đạt 9,86 triệu tấn, kim ngạch gần 5,26 tỷ USD và tăng 25,1% về trị giá so với năm 2019; mặc dù giá xuất khẩu bình quân năm qua giảm 15,5%, còn khoảng 533 USD/tấn. Xuất khẩu sang các nước ASEAN (chiếm tỷ trọng 42% về lượng và 43% về trị giá trong tổng xuất khẩu của cả nước) với số lượng đạt 4,1 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu đạt 2,3 tỷ USD, tăng 0,1% về lượng và giảm 8,3% về trị giá so với năm 2019.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 2021 là năm đầu tiên xuất khẩu sắt thép các loại vượt mốc 10 triệu tấn/năm và trị giá vượt 10 tỷ USD. Tính chung cả năm, lượng sắt thép xuất khẩu năm 2021 đã đạt hơn 13 triệu tấn, tăng cao tới 32,9%; trị giá đạt 11,79 tỷ USD, tăng 124,3% so với năm 2020. Giá xuất khẩu sắt thép các loại trong năm 2021 tăng
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">68,8% so với năm trước, tương ứng tăng 367 USD/tấn.Năm 2021 cơ cấu thị trường xuất khẩu các sản phẩm thép Việt Nam ghi nhận sự chuyển dịch mạnh mẽ, giảm xuất khẩu sang các thị trường ASEAN, Trung Quốc và tăng xuất khẩu sang thị trường Mỹ, EU.
<i><b>3.1.2.2. Một số nhóm hàng nhập khẩu chính</b></i>
Hình 1:Trị giá nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất năm 2021 và so sánh với năm 2020 Nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: trị giá nhập khẩu trong năm 2021 là 7,34 tỷ USD. Tính cả năm 2021, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 75,44 tỷ USD, tăng 17,9% so với năm 2020.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác: trị giá nhập khẩu trong năm đạt 3,99 tỷ USD, tăng nhẹ 0,3% so với những năm trước. Tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng trong năm 2021 đạt gần 46,3 tỷ USD, tăng 24,3% tương ứng tăng 9,04 tỷ USD so với năm trước.
Nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện: nhập khẩu nhóm hàng này trong năm đạt 2,28 tỷ USD, giảm 2,8% so với các năm trước. Tính cả năm 2021, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này đạt 21,43 tỷ USD, tăng 28,8% so với năm 2020.
Nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt, may, da, giày: Trị giá nhập khẩu nhóm hàng nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, da giày (bao gồm bông các loại; vải các loại; xơ sợi
khẩu của nhóm hàng này đạt 26,37 tỷ USD, tăng 22,4%, tương ứng tăng 4,83 tỷ USD so với năm 2020.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Việt Nam nhập khẩu nhóm hàng này xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc đạt 13,65 tỷ USD, Hàn Quốc đạt 2,56 tỷ USD, Đài Loan đạt 2,48 tỷ USD, Hoa Kỳ đạt 1,61 tỷ USD, ASEAN đạt 1,15 tỷ USD. Tính chung, trị giá nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may da giày từ 5 thị trường chủ lực đạt 21,44 tỷ USD, chiếm 81%.
Nhập khẩu ô tô nguyên chiếc các loại: Trong cả năm 2021, nhập khẩu ô tơ ngun chiếc đạt hơn 160 nghìn chiếc, trị giá 3,66 tỷ USD; tăng 52,1% về lượng và tăng 55,7% về trị giá so với năm 2020.
<i><b>3.1.3 Một số thị trường xuất nhập khẩu</b></i>
<b>Thị trường Trung Quốc:</b>
Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Trung Quốc cũng là thị trường tiêu thụ nhiều hàng nông sản của Việt Nam, trong đó đặc biệt là các mặt hàng thủy sản, rau quả; hạt điều; cà phê; chè; gạo; sắn và sản phẩm sắn; cao su, sản phẩm từ cao su… Trong đó, rau quả và cao su là 2 nhóm hàng đạt kim ngạch hơn 1 tỷ USD.
Thơng tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản cho biết, hiện nay, Việt Nam là nhà cung cấp cá tra đông lạnh “độc quyền” tại Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc đang thiếu cá tra và dự báo sẽ tăng nhập khẩu trong thời gian tới.
Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc khẳng định, thương mại song phương Việt Nam – Trung Quốc vẫn tăng trưởng mạnh mẽ dù dịch bệnh COVID-19 và những khó khăn, trở ngại trong kiểm soát dịch bệnh giữa hai nước, chuỗi sản xuất của Việt Nam gặp nhiều khó khăn, nhu cầu về tiêu dùng của thị trường Trung Quốc giảm so với các năm trước…
Mặc dù xuất khẩu thịt của Việt Nam đang ở mức khiêm tốn, Trung Quốc là thị trường đứng thứ hai, chiếm 22% tổng lượng thịt và các sản phẩm từ thịt xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam đã xuất khẩu 4,3 nghìn tấn thịt với trị giá 9,85 triệu USD sang thị trường này.
Thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm, tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh; thịt lợn tươi, ướp lạnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">hoặc đông lạnh; thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác, tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh…
Trung Quốc cũng là thị trường nhập khẩu lớn nhất (chiếm 25,3% tổng kim ngạch nhập khẩu) của Việt Nam, vượt rất xa so với thị trường đứng thứ hai. So với năm trước, nhập khẩu của Việt Nam từ nước này tăng 17,6%, cao gấp 2,5 lần tốc độ tăng của tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Trong các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc, có khoảng 30 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD, trong đó có 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (lớn nhất là máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; tiếp đến là điện thoại các loại và phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; vải; sắt thép; xăng dầu).
Nguyên nhân chính làm cho Việt Nam nhập khẩu và nhập siêu lớn từ Trung Quốc, ngoài các yếu tố là giá cả hàng hố rẻ; hai nước có chung biên giới dài, tại các vùng này xuất nhập khẩu mậu biên khá nhộn nhịp, mua bán bằng tiền của cả hai nước; mặt hàng phong phú, đa dạng, phù hợp với thị hiếu, cịn có những ngun nhân quan trọng khác cần đặc biệt quan tâm. Đó là các doanh nghiệp Việt Nam ham giá rẻ; giá bỏ thầu các cơng trình xây dựng thấp...
<b>Thị trường Mỹ (Hoa Kỳ):</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Năm 2021, Mỹ trở thành đối tác thương mại thứ hai của Việt Nam đạt được mốc 100 tỷ USD (sau Trung Quốc).
Mỹ là thị trường tiềm năng với hàng hóa Việt Nam. “Nhu cầu và tập quán tiêu dùng phong phú theo thu nhập, đặc trưng văn hóa và vùng miền tạo nên dư địa lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khai thác thị trường Mỹ. Ngoài ra lực lượng người Việt đơng đảo ở Mỹ chính là cầu nối, là nhóm khách hàng quan trọng của hàng hóa Việt Nam.
Mỹ cũng là thị trường “khó tính” với các yêu cầu cao về an toàn vệ sinh thực phẩm, các rào cản kỹ thuật về lao động, môi trường… Bên cạnh đó hàng Việt cịn phải cạnh tranh gay gắt với hàng hóa sản xuất tại Mỹ cũng như sản xuất tại các nước châu Á, Nam Mỹ, thậm chí là châu Phi. Để chiếm lĩnh thị trường Mỹ, ông Bùi Huy Sơn chỉ rõ, doanh nghiệp cần nắm bắt tính đa dạng và cởi mở trong văn hóa Mỹ. Đồng thời cần nâng cao hơn nữa chất lượng và hàm lượng kỹ thuật trong các sản phẩm, chú trọng tính hợp pháp, sự an tồn, thân thiện với môi trường; đánh giá thường xuyên các nguy cơ về cạnh tranh không lành mạnh để hạn chế rủi ro về phòng vệ thương mại.
Bên cạnh ảnh hưởng của dịch bệnh, một vấn đề khác là một số mặt hàng, sản phẩm Việt Nam tiếp tục có nguy cơ bị Mỹ áp dụng biện pháp chống lẩn tránh, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp hoặc áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Cụ thể là gỗ dán từ nguyên liệu gỗ cứng, tủ gỗ, ghế sofa có khung gỗ, đá nhân tạo, gạch men, xe đạp điện, ống đồng, vỏ bình gas, ghim đóng thùng, gỗ thanh...
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><b>Thị trường Châu Âu:</b>
Kinh tế châu Âu (EU) đang trên đà phục hồi rõ nét, nhu cầu tiêu dùng gia tăng chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng các ưu thế từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) để nâng cao thị phần, đẩy nhanh q trình khơi phục sản xuất, kinh doanh sau thời gian dài chịu ảnh hưởng từ dịch COVID-19.
Đối với Việt Nam, EU ln nằm trong nhóm thị trường xuất nhập khẩu và đối tác thương mại lớn nhất, trong đó các mặt hàng EU có nhu cầu nhập khẩu lớn đều là mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ…
Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào EU mới chỉ chiếm khoảng 2% thị phần, cộng với việc Việt Nam đang có lợi thế ưu đãi thuế quan từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) cho thấy dư địa nâng cao giá trị xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam thời gian tới còn rất lớn.
Theo các chuyên gia, chưa bao giờ EU xuất hiện tình trạng khan hiếm hàng hóa nhưng hiện nay nguồn hàng vào EU khá hạn chế do nhiều đối tác cung ứng cho EU đang phải chống chọi với dịch COVID-19, cộng với áp lực về giá cước vận tải biển tăng cao trong khi nhu cầu tiêu dùng những tháng cuối năm của người dân EU đang tăng dần. Do
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">đó, doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải tận dụng ngay cơ hội để nắm giữ thị trường.
Thêm vào đó, nhiều quốc gia khác trong khu vực cũng đã xúc tiến đàm phán hiệp định thương mại tự do với EU để khai thác thị trường nhiều tiềm năng này, áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng dần. Chính vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam, dù đang khó khăn sau thời gian giãn cách phải dồn mọi nguồn lực để khôi phục sản xuất, tận dụng tốt nhất thời cơ hiện nay để củng cố và phát triển thị phần tại thị trường EU.
EU là thị trường quan trọng và nhiều tiềm năng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nhưng đồng thời cũng là thị trường đòi hỏi các yêu cầu khắt khe và có tập quán thương mại đặc thù. Trong bối cảnh doanh nghiệp phải tận dụng mọi cơ hội để tìm kiếm đơn hàng thì việc ký kết các hợp đồng thương mại cũng cần được chú trọng nhằm giảm các rủi ro về mặt pháp lý dẫn đến thiệt hại cả kinh tế lẫn uy tín.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ thị trường EU giảm chủ yếu do nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, dược phẩm, thức ăn gia súc và nguyên liệu, nguyên phụ liệu dệt may da giày, chất dẻo nguyên liệu… giảm. Trong khi nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; sản phẩm hóa chất… vẫn tăng. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu hầu hết các mặt hàng từ thị trường EU vẫn tăng trưởng khả quan. Nhìn chung, nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu từ thị trường EU cũng bị tác động bởi đợt bùng phát dịch COVID-19 tại Việt Nam.
Các mặt hàng bị ảnh hưởng chủ yếu là các nguyên liệu cho ngành sản xuất điện tử, da giày và may mặc, nhưng tốc độ tăng nhập khẩu chỉ chậm lại so với quý trước đó. Dự đốn, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường EU sẽ tiếp tục tăng trong năm 2022 do hoạt động sản xuất trong nước đang dần phục hồi, nhu cầu nhập khẩu máy móc, nguyên liệu cho sản xuất cũng sẽ tăng.
<i><b>3.2. So sánh hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với một số nước trong khu vực ASEAN trong giai đoạn 2020-2021</b></i>
<i><b>3.2.1.So sánh hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với Thái Lan </b></i>
Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Thái Lan là 258,07 tỷ USD vào năm 2020 theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng thế giới. Giá trị xuất khẩu của Thái Lan giảm
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">tăng 6,25 tỷ USD, tương ứng tăng 14%; hàng dệt may tăng 9,9% tương ứng tăng 2,94 tỷ; giày dép các loại xuất khẩu 17,75 tỷ USD, tăng 5,7%; gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng 19,7% tương ứng tăng 2,44 tỷ USD …
Bộ Công thương Lào công bố số liệu chính thức cho thấy, hàng hóa xuất khẩu chính của Lào gồm: vàng hỗn hợp, vàng thỏi với tổng giá trị 962 triệu USD; giấy và đồ làm bằng giấy với tổng giá trị 530 triệu USD; quặng đồng với tổng giá trị 330 triệu USD; bột gỗ và giấy vụn với tổng giá trị 300 triệu USD; cao su với tổng giá trị 270 triệu USD; sắn với tổng giá trị 265 triệu USD; quặng sắt với tổng giá trị 243 triệu USD; chuối với tổng giá trị 235 triệu USD; đồ may mặc với tổng giá trị 190 triệu USD; đồ điện, thiết bị điện dân dụng với tổng giá trị 150 triệu USD; phân bón với tổng giá trị 150 triệu USD; khung, linh kiện máy ảnh với tổng giá trị 122 triệu USD và giày với tổng giá trị 101 triệu USD.
<b>Về hàng hóa nhập khẩu chính: Tổng trị giá nhập khẩu trong năm 2021 của Việt</b>
Nam là 332,23 tỷ USD, tăng 26,5%, tương ứng tăng 69,54 tỷ USD so với năm trước. Trong đó: máy móc thiết bị, máy vi tính sản phẩm điện tử, điện thoại và linh kiện tăng 25,3 tỷ USD; đứng thứ hai là nhập khẩu nhóm hàng sắt thép, phế liệu, sản phẩm sắt thép, kim loại thường khác và sản phẩm tăng 8,12 tỷ USD; đứng thứ ba là nhóm hàng nơng sản tăng 5,57 tỷ USD. Ngồi ra cịn có ngun phụ liệu ngành dệt, may, da, giày tăng 22,4%, tương ứng tăng 4,83 tỷ USD; ô tô nguyên chiếc các loại tăng 52,1% về lượng và tăng 55,7% về trị giá.
Trong khi đó, hàng hóa Lào nhập khẩu chính gồm: phương tiện đường bộ (khơng bao gồm xe máy, máy kéo) với tổng giá trị 463 triệu USD; dầu với tổng giá trị 448 triệu USD; thiết bị máy móc (khơng bao gồm máy móc phương tiện) với tổng giá trị 372 triệu USD; trang sức, đá quý với tổng giá trị 271 triệu USD; linh kiện, phụ tùng xe ô-tô với tổng giá trị 220 triệu USD; sắt và đồ làm từ sắt, thép với tổng giá trị 217 triệu USD; dược phẩm với tổng giá trị 209 triệu USD; đồ dùng bằng nhựa với tổng giá trị 187 triệu USD; đồ điện và thiết bị điện với tổng giá trị 175 triệu USD; dây điện, cáp điện với tổng giá trị 146 triệu USD; xăng các loại với tổng giá trị 132 triệu USD; phế liệu, phế phẩm từ công nghiệp chế biến thực phẩm với tổng giá trị 123 triệu USD; thiết bị chụp ảnh với tổng giá trị 109 triệu USD; gỗ và đồ dùng bằng gỗ với tổng giá trị 100 triệu USD.
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><i><b>3.2.3. So sánh hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với Malaysia </b></i>
<b>Xuất khẩu:</b>
Mặc dù chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 làm cho chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn do các biện pháp phong tỏa cực kỳ nghiêm ngặt, Malaysia vẫn đạt được mức thặng dư thương mại cao.
Theo The Star đưa tin, năm 2020 là năm thứ 23 Malaysia liên tiếp đạt thặng dư thương mại. Đặc biệt hơn trong năm vừa qua, mức thặng dư thương mại này đạt vị trí cao nhất. Đây là năm thứ tư liên tiếp Malaysia đạt mức tăng trưởng là hai con số, tăng 26,9% so với năm 2019 ( lên 184,79 tỷ RM tương đương với 45,7 tỷ USD). Trong đó giá trị xuất khẩu của Malaysia năm 2020 đạt 980,99 tỷ RM (tương đương với 242,7 tỷ USD) giảm 1,4% so với năm 2019 trong bối cảnh không thuận lợi vì ảnh hưởng của dịch COVID-19. Mặt hàng xuất khẩu chính của Malaysia là các sản phẩm dầu cọ, cao su, điện tử và điện.
Về phần Việt Nam, từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và tiến đến ký kết các Hiệp định Thương mại tự do (FTA)… hoạt động thương mại ở Việt Nam đã có nhiều khởi sắc. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam nhìn chung đều có xu hướng tăng, kể cả trong những năm 2019, 2020 khi dịch COVID-19 đang diễn biến phức tạp. Năm 2020, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam đạt 545,36 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 282,66 tỷ USD, chiếm 51,8% cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam. Kết quả này được xem là khá khả quan đối với kinh tế Việt Nam trong tình hình kinh tế gặp khá nhiều bất ổn và hoạt động thương mại của các nước trong khu vực đều gặp khá nhiều rủi ro từ đại dịch. Đáng chú ý, cán cân thương mại Việt Nam vào năm 2020 đạt giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay với 19,2 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 78,2 tỷ USD, giảm 1,1%, chiếm 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 203,3 tỷ USD, tăng 9,7%, chiếm 72,2% (tỷ trọng tăng 2,1 điểm phần trăm so với năm trước). Năm 2020, Việt Nam có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó 24 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, 9 mặt hàng có kim ngạch trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD. Mặt hàng đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2020 là linh kiện và điện thoại với giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 50,9 tỷ USD, chiếm
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">18,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 1% so với năm trước; mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 44,7 tỷ USD, tăng 24,4%. Trị giá xuất khẩu của 2 nhóm hàng này đang tiến dần tới mốc 100 tỷ USD (năm 2019 đạt 87 tỷ USD, năm 2020 ước tính đạt gần 96 tỷ USD) với tỷ trọng ngày càng tăng, chiếm tới 33,9% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2020. Xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm 2021 của Malaysia đạt mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1998. Cục Thống kê cho biết, xuất khẩu của Malaysia đã ghi nhận giá trị hàng tháng cao nhất là 110,8 tỷ MYR vào tháng 9/2021 tăng 15,9% so với tháng 8 và 24,6% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tháng thứ 13 nước này liên tiếp ghi nhận mức tăng trưởng (so với cùng kì năm trước) kể từ tháng 9/2020 và cũng là tháng thứ 4 trong năm mà xuất khẩu đạt giá trị trên 100 tỷ MYR. Trong đó xuất khẩu nội địa đạt 87,7 tỷ MYR đóng góp 79,1% vào tổng xuất khẩu, tăng 22,4% so với tháng 9/2020, còn tái xuất khẩu đạt giá trị 23,2 tỷ MYR, tăng 34,1% so với cùng kì năm ngối. Về sản phẩm, cục Thống kê cho biết việc mở rộng xuất khẩu được thúc đẩy bởi các sản phẩm sản xuất kim loại, dầu mỏ, dầu cọ, điện và điện tử (E&E). Trong đó dẫn đầu là doanh thu từ ngành khai khống (48,1%), nông nghiệp (47,6%) và lĩnh vực sản xuất (21,6%). Sự mở rộng trong lĩnh vực sản xuất chủ yếu được thúc đẩy bởi xuất khẩu cao hơn các sản phẩm điện và điện tử (5,6%), tiếp theo là các sản phẩm hóa chất và hóa chất (38,7%) và các sản phẩm dầu mỏ (148,0%). Tính chung 9 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu đạt 889,33 tỷ MYR, tăng 25,3% so với cùng kỳ năm 2020.
Việt Nam trong năm 2021, mặc dù cả nước phải chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19 nhưng vẫn đạt tỷ trọng xuất khẩu tăng 19%. Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2021 vừa được công bố cho thấy, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 336,31 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020. Trong đó: máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 11,2 tỷ USD, tương ứng tăng 41%; sắt thép các loại tăng 6,54 tỷ USD, tương ứng tăng 124,3%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 6,35 tỷ USD, tương ứng 12,4%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 6,25 tỷ USD, tương ứng tăng 14%...
<b>Nhập khẩu:</b>
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Malaysia trong năm 2020 là 185,27 tỷ USD theo số liệu từ Ngân hàng thế giới. Giá trị nhập khẩu giảm 25,44 tỷ USD so với năm trước đó (tức giảm 12,07% so với năm 2019 đạt 210,71 tỷ USD). Nhu cầu thế
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">giới tiếp tục phục hồi kết hợp với việc thực hiện các chương trình hỗ trợ từ Chính phủ, Malaysia đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng về hoạt động kinh tế, trong đó có lĩnh vực thương mại. Thặng dư thương mại 9 tháng tăng 42% so với cùng kỳ.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam năm 2020 đạt 262,4 tỷ USD, tăng 3,6% so với năm 2019. Nhập khẩu chủ yếu tập trung vào nhóm hàng cần thiết cho sản xuất và xuất khẩu, gồm máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 245,6 tỷ USD, tăng 4,1% so với năm 2019, chiếm tỷ trọng 93,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhóm hàng nhập khẩu như máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận tải, phụ tùng tăng mạnh tới 16,3%. Qua đó cho thấy sự phục hồi khá mạnh mẽ của nền kinh tế về sản xuất trong khi nhập khẩu cho tiêu dùng đã giảm đáng kể, chiếm tỷ trọng 6,4%, so với năm 2019 thì giảm 0,5 điểm phần trăm.
Trong tháng 9 năm 2021 giá trị nhập khẩu của Malaysia đạt 84,70 tỷ MYR, tăng 14,2% so với tháng 8 và tăng 26,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong 5 tháng qua, dây là mức tăng cao nhất, vượt mức ước tính của thị trường là 15,4%. Động lực chính là vì lượng mua tăng ở tất cả các lĩnh vực hàng hóa trung gian (29,7%), hàng hóa tư bản (20,3%) và hàng tiêu dùng (3,7%). Nhìn chung, tổng kim ngạch nhập khẩu của Malaysia đạt gần 712 tỷ MYR trong 9 tháng đầu năm 2021, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong năm 2021, tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam là 332,23 tỷ USD, tăng 26,5%, tương ứng tăng 69,54 tỷ USD so với năm trước. Trong đó gồm máy móc thiết bị, máy vi tính sản phẩm điện tử, điện thoại và linh kiện tăng 25,3 tỷ USD; nhập khẩu nhóm hàng sắt thép, phế liệu, sản phẩm sắt thép, kim loại thường khác và sản phẩm tăng 8,12 tỷ USD - đứng thứ hai và thứ ba là nhóm hàng nơng sản tăng 5,57 tỷ USD.
<i><b>3.3. Đánh giá, nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2020-2021</b></i>
<i><b>3.3.1. Đánh giá, nhận xét về tình hình nhập khẩu của Việt Nam năm 2020</b></i>
Đầu năm 2020, các trường hợp nhiễm COVID-19 đầu tiên trong nước được xác nhận, tuy dịch COVID-19 giai đoạn này chưa ảnh hưởng nhiều đến các lĩnh vực trong nước nhưng lại mang đến những thách thức chưa từng có khi tác động mạnh đến mối liên kết thương mại, đầu tư của Việt Nam với các đối tác nước ngoài. Nền kinh tế Việt Nam
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">phụ thuộc nhiều đến các nền kinh tế khác, hơn 50% giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam nhắm vào các thị trường: Hoa Kỳ, Trung Quốc và Liên minh châu Âu và Vương quốc Anh nên từ đầu năm 2020 đã có dự báo rằng sẽ có sự sụt giảm mạnh đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu, song xuất khẩu hàng hóa của nước ta năm 2020 vẫn duy trì được mức tăng trưởng dương thể hiện sự cố gắng rất lớn của Chính phủ, các Bộ, ngành và đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2020 ước tính đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 281,5 tỷ USD, tăng 6,5%; nhập khẩu hàng hóa đạt 262,4 tỷ USD, tăng 3,6%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2020 ước tính xuất siêu 19,1 tỷ USD, là giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay.
Năm 2020 là năm cuối của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, để bức tốc về đích, Chính phủ đã ứng dụng các hiệp định FTA (CPTPP, AHKFTA, EVFTA..) được ký kết những năm gần đó làm bàn đạp để hiện thực hóa mục tiêu đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống, nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và nâng cao được khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có nhu cầu cao về chất lượng như EU, Nhật Bản, Mỹ, Úc...Quản lý thị trường được triển khai quyết liệt; công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">dùng bước đầu được nâng lên; Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất tồn cầu (đứng vị trí thứ 6 trong nhóm 30 quốc gia có tiềm năng và sức hút đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ toàn cầu). Cùng với việc thúc đẩy thị trường xuất khẩu, trong những năm gần đây chúng ta đã tiếp tục kiểm soát tốt khâu nhập khẩu. Theo đó, nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu đã chậm lại. Nhập khẩu tập trung chủ yếu ở nhóm hàng cần thiết phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu và phục vụ cho các dự án đầu tư trong nước. Nhập khẩu của nhóm hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết yếu chiếm gần 89%; nhập khẩu của nhóm hàng khơng khuyến khích nhập khẩu chỉ chiếm dưới 6,27%.
Bên cạnh những điểm sáng, hoạt động xuất khẩu vẫn còn một số thực trạng cần được quan tâm, xem xét nhằm đề xuất các giải pháp quản lý điều hành và cải thiện xuất nhập khẩu phù hợp:
- Cục Xuất nhập khẩu cho biết, tình trạng cung vượt cầu, tồn kho ngày càng lớn và xảy ra thường xuyên khiến cho giá xuất khẩu giảm. Thêm vào đó, chủ nghĩa bảo hộ tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và phúc lợi kinh tế diễn biến ngày càng rõ ràng, phức tạp hơn.
- Bên cạnh khả năng tăng cường cơ hội tiếp cận thị trường mà các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) mang lại, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng hàng hóa gian lận xuất xứ để nhằm hưởng ưu đãi thuế quan hoặc lẩn tránh các quy tắc phòng vệ thương mại, có nhiều trường hợp hàng hóa nhập khẩu từ nước ngồi nhưng khi đưa ra lưu thơng, tiêu thụ nội địa bị bóc nhãn gốc và thay nhãn mới ghi "Made in Vietnam" hoặc "xuất xứ Việt Nam."
- Một số dịch vụ logistics cho hàng hóa lưu chuyển giữa Việt Nam và EU trở nên đắt đỏ và khan hiếm, 2 tuyến vận chuyển đường biển phổ biến nhất lại có mức tăng giá cước phi mã và bất thường nhất. Chi phí cao, liên kết giữa các doanh nghiệp logistics cũng như với doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu còn yếu, chuyển đổi số trong ngành chậm, giao dịch kinh doanh nhập khẩu xuất nhập khẩu, quy trình kiểm sốt hàng hóa quốc tế của EU liên tục thay đổi và chưa linh hoạt.
- Trong khi hàng rào thuế quan được dần được dỡ bỏ, các nước lại gia tăng rào cản phi thuế quan (NTM) để để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước, hạn chế nhập khẩu, đặc biệt là hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp vệ sinh dịch tễ, chống trợ cấp,
</div>