Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Đề tài đặc sản miền nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.59 MB, 30 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b> TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG</b>

KHOA MỸ THUẬT VÀ THIẾT KẾ

<b>BÀI TIỂU LUẬN</b>

ĐỀ TÀI ĐẶC SẢN MIỀN NAM

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PHAN THỊ HỒNG HÀ SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐOÀN LÊ ANH QUÂN

MSSV: 2275801080129 LỚP: 231_71CULT20222_11

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>Chương I. Mở đầu...4</b>

I.1. Giới thiệu chủ đề...4

I.2. Lịch sử ẩm thực Việt Nam...4

I.2.1. Văn hóa ẩm thực phát triển dựa trên hoàn cảnh sống...4

I.2.2. Văn hóa ẩm thực phát triển từ chiến tranh...6

I.2.3 Ẩm thực Việt Nam phát triển qua những diễn biến lịch sử của dân tộc 7 I.3 Lịch sử ẩm thực miền Nam...7

<b>Chương II. Các yếu tố tác động đến sự phát triển ẩm thực miền Nam...10</b>

II.1. Sự ảnh hưởng từ vị trí địa lý...10

II.2. Sự ảnh hưởng từ khí hậu...11

II.3. Sự ảnh hưởng từ sự hịa trộn văn hóa...12

<b>Chương III. Phân tích thực đơn 5 món ăn tiêu biểu trong 1 ngày ở miềnNam...14</b>

III.1. Cơm tấm (Buổi sáng)...14

III.1.1. Nguồn gốc...14

III.1.2. Thưởng thức...15

III.1.3. Thông tin thú vị...16

III.2. Bánh xèo (Buổi trưa)...17

III.3.3. Thông tin thú vị...21

III.4. Lẩu mắm cá linh (Buổi tối)...22

III.4.1. Nguồn gốc...22

III.4.2. Thưởng thức...23

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

III.4.3. Thông tin thú vị...23

III.5. Kẹo dừa (Tráng miệng)...24

III.5.1. Nguồn gốc...24

III.5.2. Thưởng thức...25

III.5.3. Thông tin thú vị...26

<b>Chương IV. Kết luận...28</b>

<b>Chương V. Tài liệu tham khảo...29</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>CHỦ ĐỀ KHAI THÁC: </b>

MÓN ĂN ĐẶC SẢN MIỀN NAM

<b>Chương I. Mở đầu</b>

<b>I.1. Giới thiệu chủ đề</b>

Miền Nam Việt Nam là một vùng đất đa dạng văn hóa với những nét đặc trưng rõ nét trong ẩm thực. Trải qua hàng thế kỷ phát triển và tương tác văn hóa, ẩm thực miền Nam khơng chỉ là một phần quan trọng của đời sống hàng ngày mà còn là biểu tượng của sự đa dạng và sự phong phú trong ẩm thực Việt Nam. Trong chủ đề về "Món ăn đặc sản miền Nam", chúng ta sẽ khám phá về sự độc đáo và đặc trưng của các món ăn ngon miền Nam, từ những món đặc sản nổi tiếng đến những món ăn thơng thường tại các vùng miền Nam khác nhau. Với đặc điểm địa lý, khí hậu và nguồn nguyên liệu phong phú, ẩm thực miền Nam đã hình thành và phát triển một cách đặc biệt, mang trong đó những hương vị độc đáo, phong phú và có sức hấp dẫn khó cưỡng.

Ngồi việc giới thiệu về các món ăn, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử hình thành cũng như tầm quan trọng văn hóa, xã hội của chúng trong đời sống người dân miền Nam.

Các món ăn đặc sản khơng chỉ là những bữa ăn ngon mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa sâu sắc, từ cách chế biến, cách dùng đồ ăn đến các nghi lễ, tập tục liên quan. Qua việc khám phá về ẩm thực đặc sản miền Nam, chúng ta có thể thấy rõ sự phong phú, đa dạng và sức sống của văn hóa Việt Nam.

Bài tiểu luận này sẽ đưa người đọc đi sâu vào thế giới ẩm thực độc đáo của miền Nam, từ những món ăn quen thuộc hàng ngày đến những món đặc biệt đầy sức hút, giúp người đọc hiểu rõ hơn về vẻ đẹp văn hóa độc đáo của vùng đất này.

<b>I.2. Lịch sử ẩm thực Việt Nam</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>I.2.1. Văn hóa ẩm thực phát triển dựa trên hồn cảnh sống</b>

Sống trong cảnh thường xun đói nghèo nên người Việt luôn phải tằn tiện, tiết kiệm trong ăn uống và ln tìm ra các giải pháp hợp lí để tận dụng và khai thác các tài nguyên tự nhiên sẵn có hoặc du nhập từ bên ngồi để chế biến thành

<b>những sản phẩm ẩm thực hữu dụng và có giá trị cho mình.</b>

Cho mãi đến những năm gần đây, sau những cải cách về xã hội và áp dụng nhiều tiến bộ khoa học cộng với một chương trình dân số và phát triển hợp lí, đất nước ta mới dần dần rút ra khỏi cảnh nghèo nàn túng thiếu trong việc lo cái ăn hàng ngày. Có người nghĩ: đã đói nghèo, ăn khơng đủ no thì làm gì có nghệ thuật ẩm thực? Thực tế lại khơng như vậy. Trong cái gian khó ấy, người Việt đã sáng tạo tìm ra hướng giải quyết riêng của mình. Cũng từ đó, nghệ thuật ẩm thực độc đáo đã nảy sinh và phát triển.

Lương thực chính của người Việt là lúa gạo, thế nhưng khi mất mùa, thóc cao gạo kém thì người Việt ra sức sản xuất những hoa màu khác để hỗ trợ cho nguồn lương thực chính bị thiếu hụt. Ngơ, khoai, sắn đều không phải là những cây truyền thống của người Việt. Chúng có nguồn gốc tận Nam và Trung Mĩ nhưng chúng được người Việt sẵn sàng chấp nhận và sử dụng triệt để trong cuộc sống của mình. Cơm gạo thiếu thì sẵn sàng ăn độn ngơ, độn khoai, độn sắn. Để dễ ăn, để các thứ cây ngoại nhập dễ phù hợp với lối ăn truyền thống của mình, người Việt luôn sáng tạo ra những kiểu ăn riêng mà khơng đâu có từ những ngun liệu ngoại nhập. Ngô được xay ra làm bánh đúc, bánh đa, chế biến thành tương ngơ và có lẽ cầu kì và đặc sắc hơn cả là món xơi lúa được làm ra để chiều dân lao động thị thành trong các bữa ăn lót dạ. Có lẽ khơng đâu trên trái đất này có kiểu chế biến ngơ đặc biệt như thế ngoại trừ vùng Tương Mai gần kề cửa ô Hà Nội xưa.

Từ củ sắn, củ khoai người Việt đã chế tạo ra biết bao loại bánh độc đáo. Rất nhiều thứ bánh quan trọng trong sưu tập các loại bánh nổi tiếng ở cố đô Huế đã được chế biến từ bột sắn, thứ bột tinh khiết và được tinh chế rất công phu của khu vực miền Trung đất Việt. Bánh đa khoai, bỏng nếp và món cháo lỗng là những thứ khơng thể thiếu trong ngày rằm tháng bảy “xá tội vong nhân”. Người sống lo cả cho những hương hồn phiêu diêu dưới cõi âm những thức ăn thật giản dị nhưng chế biến cũng không kém cầu kì.

Trong đời sống thường nhật, người Việt ln có một chế độ ăn tiết kiệm nhưng vẫn có tương đối đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Đất thiếu không đủ để phát triển những vườn rau nên rau trong bữa ăn thường chủ yếu dựa vào rau muống trong ao nhà, đám mùng tơi lan trên hàng rào, giàn bầu giàn bí hay giàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

thiên lí mọc trước sân và một loạt các loại rau mọc tự nhiên quanh bờ ao, bờ ruộng hay bãi cỏ chân đê. Việc hình thành các vườn rau chuyên canh ở nông thôn cũng như miền núi Việt Nam mới chỉ được phát triển trong vòng vài chục năm gần đây. Xưa kia, các vườn chuyên canh rau chỉ có ở quanh đơ thị, người dân quê thường chỉ trồng tạm đủ ăn ở những mảnh đất dư quanh vườn hay ao nhà và tận dụng các sản vật sẵn có ngồi đồng như con tơm con tép, xâu cua mớ ốc hay con cá con lươn, xâu ếch xâu nhái tự lượm được trong những buổi làm đồng về. Từ những thứ thực phẩm có sẵn trong tự nhiên ấy, người Việt đã sáng tạo ra một kiểu ăn tận dụng đến tối đa và hiệu quả về thẩm mĩ cũng như dinh dưỡng. Bát riêu cua đồng chan bánh đúc, mẹt bún ốc góc chợ, hàng chả nhái thơm lừng với những miếng chả nóng hổi vừa được vớt lên trong chảo mỡ sơi xèo xèo của bà bán hàng ngồi cửa chợ cùng nhiều loại bánh gói lá như bánh nếp, bánh tẻ, bánh gai, bánh khoai sọ,… là những món quà đặc biệt làm từ những nguyên liệu tự nhiên sẵn có trong các chợ quê của người nơng dân nghèo.

Vì thiếu thốn nên ý thức tiết kiệm lại càng được đề cao và trở thành đạo đức trong văn hoá của người Việt. Lúa gạo ln được coi trọng. Một hạt thóc là một hạt vàng.

<i>“Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay mn phần”</i>

<b>I.2.2. Văn hóa ẩm thực phát triển từ chiến tranh</b>

Cho đến nay, hầu như chưa mấy ai chú ý tìm hiểu ảnh hưởng của chiến tranh đến văn hố ẩm thực của chúng ta nhưng có khả năng chiến tranh đã có ảnh hưởng rất lớn đến văn hố ẩm thực người Việt này.Khơng biết xưa kia ra trận, người chiến sĩ ta ăn uống ra sao. Có một số loại lương thực thực phẩm mà người ta cho rằng từ xửa từ xưa nó được sáng tạo ra để phục vụ cho binh lính khi hành qn đường dài làm lương khơ như món chè lam, bỏng rang, gạo rang, … Sử sách có chỗ này chỗ khác nói đến những bữa tiệc khao quân của các danh tướng mừng thắng trận cũng như những bữa đồng cam cộng khổ của tướng lĩnh cùng binh sĩ ngoài trận mạc.

Xưa kia, mở quân thần tốc ra Bắc để giành đại thắng quân Thanh, Quang Trung đã tổ chức vừa đi vừa nấu cơm cho binh sĩ. Nhiều hội thi vừa đi vừa vo gạo, thổi cơm diễn ra ở nhiều hội làng ngày nay đa phần đều liên quan đến các sự tích diễn ra khi quân ta hành quân vừa đi đường vừa nấu cơm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Trong hai cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ chống Pháp và chống Mĩ vừa qua cũng đã xuất hiện biết bao kiểu ăn, lối ăn thời chiến nhưng đã mấy ai tổng kết. Ẩm thực thời chiến đã đi vào thơ ca, âm nhạc. Hình ảnh chị nuôi với bát canh chua, nắm rau rừng, bó măng vắt cơm và bếp Hồng Cầm đã ăn sâu vào nhiều thế hệ những người lính Cụ Hồ. Một lối sống, lối ăn tập thể thời chiến, thời bao cấp đã được hình thành và tồn tại khá lâu dài trên đất nước ta và chắc chắn nó vẫn còn để lại dấu ấn trong đời sống của mỗi chúng ta. Sự đổi thay quá nhanh trong đời sống kinh tế thời bình, trong cơn lốc của kinh tế thị trường đã làm cho những kỉ niệm về ẩm thực thời chiến dường như nhanh chóng nhạt nhồ trong cuộc sống hôm nay.

<b>I.2.3 Ẩm thực Việt Nam phát triển qua những diễn biến lịch sử của dân tộc</b>

Chúng ta đã trải qua cả nghìn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân. Mặc dầu vậy, người Việt vẫn ăn theo kiểu Việt. Cơm Việt vẫn khác hẳn cơm Tây và cũng khác hẳn cơm Tàu. Có lẽ câu thơ của Tố Hữu “Bốn nghìn năm ta lại là ta” là hồn tồn đúng với tiến trình tồn tại và phát triển của văn hoá ẩm thực Việt Nam. Sở dĩ trong ẩm thực, người Việt khơng bị đồng hố vì chính người Việt vốn có một bản sắc văn hố sâu đậm và một bản lĩnh văn hoá vững vàng.

May thay, tổ tiên chúng ta qua nhiều thế hệ đã có một cái nhìn nhân ái và một lối ứng xử khoan dung trong bình diện văn hố ẩm thực nên chúng ta mới có một văn hố ẩm thực phong phú như ngày nay. Đu đủ đem vào từ châu Mĩ ư? Vâng từ châu Mĩ. Ăn được và rất ngon. Cà rốt đem vào từ châu Âu ư? Không sao, cũng rất ngon. Lạc mang vào từ châu Mĩ chăng? Phải, ngon và bùi lắm. Ớt nhập vào từ Chi lê, cay lắm nhưng ăn thử xem sao. Và cuối cùng từ những thứ ấy người Việt làm ra món nộm đu đủ. Khi ăn tiệc cùng người Âu, người Mĩ, hay người Trung Hoa hầu như nhiều người đều ưa thích món “sa lát nộm” này vì cũng như nhiều món khác họ chưa từng được thưởng thức bao giờ mà mới chỉ được biết đến khi tới Việt Nam.

Người Việt chẳng những đã không chối bỏ những sản phẩm ẩm thực của các nền văn minh khác và cũng khơng chối bỏ một cách cực đoan văn hố ẩm thực của kẻ thù của mình mà chúng ta đã biết sử dụng, tận dụng những yếu tố có sẵn trong các nền văn hoá ẩm thực khác trực tiếp đưa thẳng vào đời sống của mình. Hoặc, sử dụng những ngun liệu có nguồn gốc từ bên ngồi và chế biến một cách sáng tạo cho phù hợp với lối thưởng thức, lối sống của Việt Nam. Có hàng trăm, hàng ngàn các ví dụ về các món ăn, kiểu ăn của người Việt được học hỏi

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

từ nước ngoài hay được sáng tạo hoàn toàn trên nền tảng của các nguyên liệu du nhập và phát triển ở Việt Nam qua mỗi bữa ăn của người Việt chúng ta. Nếu như chịu khó tìm hiểu cặn kẽ một chút thôi, chúng ta sẽ thấy rõ ngay điều bí mật này trong từng bữa ăn của người Việt từ nông thôn đến thành thị.

<b>I.3 Lịch sử ẩm thực miền Nam </b>

Nói đến tính hoang dã và tính sáng tạo trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ là nói đến đặc tính ăn uống của người Nam Bộ thể hiện trong việc ăn các món có nhiều nguồn gốc từ tự nhiên và sự chế biến các món ăn từ tự nhiên đó thành các món khác nhau. Nói đến vùng đất Nam Bộ, người ta hay nói đến sự trù phú của vùng đất này về các nguồn lợi tự nhiên, vùng đất “làm chơi ăn thiệt”.

Đại để là, thiên nhiên ở đây ưu đãi cho con người, con người không phải làm lụng nhiều mà vẫn có cái ăn, cái mặc. Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, không phải lúc nào vùng đất này cũng ưu ái con người, khoản đãi cho con người nhiều nguồn lợi tự nhiên. Mà trái lại, ngay từ buổi đầu khai phá, những lưu dân đã chiến đấu một cách hết sức gian khổ để khắc phục rất nhiều khó khăn do tự nhiên gây ra.

Phần lớn đất đai Nam Bộ vào các thế kỷ XVII- XVIII là rừng hoang cỏ rậm, trũng thấp sình lầy, nên người lưu dân ngoài việc đương đầu với sự khắc nghiệt của thiên nhiên còn phải lo chống lại các loại thú dữ, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết,cùng nhiều thứ bệnh tật hiểm ác…

Đại bộ phận đất đai cịn ở trong tình trạng sình lầy, bị ngập úng vào mùa mưa, thiếu nước ngọt vào mùa khơ, nhiều vùng phèn, mặn nghiêm trọng, chính là mơi trường để cho nhiều loại chuột bọ, sâu bệnh phá hoại mùa màng phát triển”. Nhiều câu ca dao, chuyện kể đã nói lên nỗi lo sợ của người lưu dân thời bấy giờ trước một khung cảnh thiên nhiên vơ cùng lạ lẫm, bí hiểm và đầy đe dọa :

<i>Chèo ghe sợ sấu cắn “chưn”Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma.</i>

Buổi đầu, khi những lưu dân đặt chân lên vùng đất này thì thiên nhiên ở đây cịn rất hoang sơ, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ hoành hành. Con người cảm thấy lạ lẫm trước một cảnh quan thiêng nhiên mà ở nơi quê cha đất tổ họ chưa hề gặp phải. Vì vậy, để sinh tồn, ở phương diện ăn uống, họ không thể nào ăn các món ăn truyền thống nơi quê nhà, bởi nguyên vật liệu, các nguồn lương thực họ chưa hề quen biết, nên lúc đầu gặp gì ăn nấy, từ những cây cỏ trên bờ, con cá dưới

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

sơng, con chim trên trời… cho đến các lồi sinh vật khác. Tính hoang dã trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ đã định hình từ lúc này.

Điều dễ nhận thấy nhất ở tính hoang dã này là người Nam Bộ ăn rất nhiều rau.Đây là loại thức ăn có sẵn ở ao hồ, vườn ruộng, rất dễ tìm, khơng cần thiết phải chế biến, chỉ cần hái vào rửa sạch là ăn được. Người ta có thể ăn đủ các loại rau, từ rau đắng, rau dềnh, rau răm, rau thơm, cải trời, tía tơ, hành, hẹ, ngị gai, ngị rí… đến các loại cây, đọt cây, các loại bông, như: bông điên điển, cù nèo, đọt vừng, lá xồi, lá cách… Trong danh mục này, có thứ dùng để ăn sống, có thứ dùng để nấu canh, có thứ luộc lên chấm với cá kho, thịt kho, hay nước chấm.

“Hồi ấy, chưa đủ thời giờ để ni gà, vịt, heo. Việc chăn ni địi hỏi nhà cửa ổn định, cũng như ta chưa nghĩ đến việc trồng rau tươi, hoặc chăng là vài cây ớt, bụi sả. Bởi vậy, người đồng bằng và Sài Gòn ăn đủ thứ rau. Rau nào cũng ăn, “không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc” gọi cho gọn là “rau rừng”. Ăn cho vui miệng, miễn là không chết. Nào đọt bần, trái bần chín, đọt chùm ruột, bơng súng, bông điên điển, bồn bồn, rau dừa, rau ngổ, kèo nèo, lục bình, đọt xồi, trái xồi non, đọt ổi, đọt cơm nguội, đọt chiếc, ổi chua, thậm chí trái dừa non cũng xắt ra làm rau”.

Đối với các loài thủy hải sản, ngồi các loại cá, tơm bắt ở ao, đìa, người ta cịn ăn cả các lồi mang tính hoang dã, như: con cịng, con cua, ba khía, chuột, cóc, nhái, ếch, rùa, rắn, lươn, le le, dơi… và thậm chí người ta cịn ăn cả một số lồi cơn trùng như: cào cào, dế... Nhưng nổi bật hơn hết trong tính hoang dã này chính là mơi trường của việc ăn uống.

Người Nam Bộ thường có thói quen chế biến món ăn và ăn ngay tại chỗ, nên tính hoang dã ở đây thể hiện ở việc các món ăn gắn với khơng gian của một khoảnh vườn, đám ruộng, bờ ao. Món cá lóc nướng trui là một minh chứng cho điều này, hoặc một nồi canh chua cá lóc được nấu ngay sau buổi tát đìa cũng thể hiện điều đó. Bởi vì, mọi thứ đều là cây nhà lá vườn, không phải ra chợ mua.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>Chương II. Các yếu tố tác động đến sự phát triển ẩm thựcmiền Nam</b>

<b>II.1. Sự ảnh hưởng từ vị trí địa lý</b>

Miền Nam bao gồm 19 tỉnh từ Bình Phước trở xuống phía Nam. Có hai thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Cần Thơ.

Nam bộ được mệnh danh là xứ sở của những dịng sơng, nơi có khoảng 54.000 km chiều dài sông, rạch, nơi nào cũng kênh rạch phong phú và nhiều lung, hồ, láng..., không nơi nào mà khơng có cá, tơm, cua, ếch... Bên cạnh đó, cịn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy các loại động vật lớn, nhỏ. Chính yếu tố kênh rạch chằng chịt cùng với hệ thống sông lớn đầy ắp phù sa đã tạo cho vùng Nam Bộ nguồn thủy hải sản phong phú để phục vụ cho đời sống của người dân nơi đây. Nam Bộ gồm 2 tiểu vùng gồm Đông Nam Bộ (6 tỉnh) và Tây Nam Bộ (hay Đồng bằng Sông Cửu Long) (13 tỉnh).

● Đơng Nam Bộ (6 tỉnh) và có các sơng lớn như hệ thống sơng Đồng Nai, sơng Sài Gịn:

○ Phía Bắc và Tây giáp với Campuchia.

○ Phía Nam và Tây Nam giáp với Đồng bằng sơng Cửu Long. ○ Phía Đơng Bắc giáp với Tây Ngun.

○ Phía Đơng và Đơng Nam giáp với Nam Trung Bộ và biển Đông. ● Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long) (13 tỉnh) là một bộ phận của

châu thổ sơng Mê Kơng có diện tích 39.734km². Vị trí nằm liền kề với vùng Đơng Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đơng Nam là Biển Đơng.

○ Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo, nên thuận lợi phát triển ngành nơng nghiệp (mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển trồng lúa nước và cây lương thực.

○ Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng sông Cửu Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước. Ngoài ra vùng này cịn trồng mía, rau đậu, xồi, dừa, sầu riêng, cam, bưởi...

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

○ Ngoài ra, nghề chăn ni cũng khá phát triển như trâu, bị, vịt… Gia súc nuôi ở đây không được nhiều và cũng là tỉnh có bình qn ni thấp nhất cả nước.

○ Do có bờ biển dài và có sơng Mê Kơng chia thành nhiều nhánh sơng, khí hậu thuận lợi cho hải sản, kênh rạch chằng chịt, nhiều sơng ngịi, lũ đem lại nguồn thủy sản và thức ăn cho cá, có nhiều nước ngọt và nước lợ nên thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, nên sản lượng thủy sản chiếm 50% nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, An Giang.

Nam bộ được mệnh danh đất rộng sông dài, thiên nhiên ưu đãi. Nên nơi nào cũng kênh rạch chằng chịt cùng với hệ thống sông lớn đầy ắp phù sa đã tạo cho vùng Nam Bộ nguồn thủy hải sản phong phú để phục vụ cho đời sống của người dân nơi đây.

Đặc biệt tại nơi đây cũng được thiên nhiên ưu ái cung cấp cho một số nguyên liệu nổi tiếng như: Cá linh, cá lóc, cá bơng lau, chuột đồng, bông điên điển, cây cỏ xước, bông súng trắng,...

<b>II.2. Sự ảnh hưởng từ khí hậu</b>

Khác với miền Bắc có bốn mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Miền Nam vì nằm cận đường xích đạo nên đã gộp lại thành hai mùa chính là mùa Mưa và mùa Khơ. Mùa mưa biểu hiện cho Thu và Đông, mùa Khô biểu hiện cho mùa Xuân và Hạ. Sự khác nhau này đã làm cho miền Nam có một vẻ khác biệt đặc biệt, nhờ đó mà miền Nam được thiên nhiên ưu ái nhiều thứ từ đất đai màu mỡ cho đến nguyên liệu làm món ăn đặc biệt.

Miền Nam được chia làm hai mùa là:

● Mùa mưa (gọi là mùa nước nổi ở miền Tây) độ tháng 7 – tháng 10 âm lịch hàng năm

● Mùa khô (gọi là mùa gặt ở miền Tây) độ tháng 11 - tháng 4 năm sau Mỗi mùa mang đến những sản vật thiên nhiên riêng biệt tạo nên những điểm đặc trưng cho món ăn miền Nam:

<b>● Vào mùa nước nổi: người dân địa phương lại bắt đầu chế biến và thưởng</b>

thức những món ăn dân dã từ những nguyên liệu đặc trưng theo mùa như

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

lẩu cá linh điên điển, bún nước lèo, bông súng kho mắm,... Điển hình như món lẩu cá linh từng thớ cá mềm ngọt kết hợp với bông điên điển vị chua chua, thanh thanh, giòn giòn là sự kết hợp tuyệt vời tạo nên món lẩu cá linh điên điển của ẩm thực miền Nam vào mùa nước nổi.

<b>● Còn vào mùa gặt: Ẩm thực miền Nam lại trở nên phong phú bởi những</b>

loại cá đồng béo ngậy hay những loại rau, bông, đọt cây được chế biến theo nhiều cách đa dạng khác nhau. Những món ăn nổi tiếng của miền Nam vào mùa gặt như cá lóc nướng trui, cá trê nướng rơm, chuột đồng…

<b>II.3. Sự ảnh hưởng từ sự hịa trộn văn hóa</b>

Đối với nơi có sự giao thoa giữa nhiều nền văn hóa đa dạng và lâu đời như miền Nam, thì ẩm thực nơi đây cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ nhiều vùng miền và nhiều nền văn hóa. Ẩm thực miền Nam có thể gọi là sự tổng hịa của văn hóa ẩm thực miền Bắc, miền Trung và sự ảnh hưởng của văn hóa Khmer, Hoa. Cụ thể, có thể kể đến 2 nền văn hóa chính ảnh hưởng đến ẩm thực Nam Bộ:

● Văn hóa người Khmer: Những món ăn của người dân miền Nam có phần đậm đà mang theo những hương vị đặc trưng từ ảnh hưởng của văn hóa Khmer.

○ Vị chua: Đặc trưng trong khẩu vị của người Khmer Nam Bộ, vị chua thường xuất hiện trong các món canh.

○ Vị cay: Cũng là một phần khơng thể thiếu trong ẩm thực Khmer, vị cay được thêm vào nhiều món ăn để tạo nên sự kích thích cho vị giác. Và ẩm thực miền Nam cũng chịu ảnh hưởng khơng nhỏ từ yếu tố này những món ăn miền Nam ngoài làm nổi bật sự mặn mà của muối và các gia vị, vị ngọt của đường mà con làm bật lên vị cay nồng của ớt và tiêu mang đến cho người ăn những món ăn vô cùng độc đáo.

○ Mắm cá: Người Khmer thường sử dụng mắm cá cho các món ăn của mình. Điều này cũng được người dân Nam Bộ sử dụng trong ẩm thực. Tuy chịu ảnh hưởng là thế nhưng với sự sáng tạo của người dân nơi đây đã chế biến và tạo ra những món ăn riêng biệt và hợp khẩu vị người miền Nam.

● Văn hóa người Hoa: Còn về cách thức chế biến ẩm thực nơi đây có đơi phần chịu ảnh hưởng từ người Hoa, những món nước canh, nước lèo đều

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

được ninh bằng xương và nhiều nguyên liệu khác, hay những cách chế biến thức ăn bằng chảo gang đúc làm tăng thêm hương vị đặc trưng của món ăn cũng được người dân nơi đây áp dụng. Ngoài ra những món ăn đặc trưng của người Hoa cũng được người dân miền Nam điều chỉnh và đón nhận rộng rãi như bánh pía, hủ tiếu, bột chiên, vịt quay, há cảo… Tổng hòa giữa những yếu tố đặc trưng của văn hóa Khmer, Hoa cùng với sự sáng tạo và linh hoạt của người dân miền Nam đã làm nên những món ăn đặc sản độc đáo, làm nên bản sắc riêng không thể nhầm lẫn của ẩm thực miền Nam Việt Nam. Đây không chỉ là việc thưởng thức hương vị mà còn là cách để hiểu sâu hơn về vẻ đẹp và sức sống của văn hóa đặc trưng trong ẩm thực của vùng đất này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>Chương III. Phân tích thực đơn 5 món ăn tiêu biểu trong 1ngày ở miền Nam </b>

Trên con đường khám phá văn hóa ẩm thực miền Nam Việt Nam, những món ăn được chọn lọc một ngày dường như là những bức tranh sống động về sự đa dạng và phong phú của nền ẩm thực này.

Qua những món ăn tiêu biểu như cơm tấm, bánh xèo, chè bà ba, lẩu mắm cá linh, và kẹo dừa, chúng ta sẽ có cơ hội tận hưởng hương vị và hiểu sâu hơn về bản sắc văn hóa ẩm thực đặc trưng của miền Nam.

Từ món ăn sáng điểm tâm đến món tráng miệng, mỗi món đều mang theo một câu chuyện riêng, kể về sự kỳ diệu của nguyên liệu, kỹ thuật chế biến và cả những giá trị văn hóa sâu sắc chứa đựng bên trong. Hãy cùng Chương III khám phá từng bí mật và hương vị đặc trưng đằng sau những món ăn này để hiểu rõ hơn về ẩm thực đặc sản miền Nam Việt Nam.

<b>III.1. Cơm tấm (Buổi sáng)</b>

<b>III.1.1. Nguồn gốc</b>

Cơm tấm xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ 20. Cơm tấm có nguồn gốc từ miền Tây Nam Bộ, cụ thể, ban đầu, món ăn này phổ biến với những người nông dân và công nhân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vào các năm mùa màng đói kém, nhiều người khơng có đủ gạo ngon để bán và ăn, vì vậy họ phải đã dùng gạo tấm (gạo bể) để nấu ăn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Khi Việt Nam đô thị hóa, cơm tấm trở nên phổ biến ở hầu khắp các tỉnh Nam Bộ, đặc biệt là Sài Gòn. Vì thế nên cơm tấm cịn được gọi với cái tên là Cơm tấm Sài Gòn.

<b>III.1.2. Thưởng thức</b>

Cơm tấm đặc trưng nằm ở nước mắm chan cơm. Đây là loại nước mắm pha kết hợp mặn - ngọt - chua - cay. Chén nước mắm này sẽ là sự quyết định độ ngon của một dĩa cơm tấm. Có một chén nước mắm thơm ngon sẽ hịa quyện hồn hảo với hạt cơm tấm dẻo thơm, sườn nướng đậm đà ngọt nhẹ, chả trứng bùi thơm, dưa chuột giòn mát, cà chua chua nhẹ.

Ngoài cơm tấm sườn nướng, cịn có nhiều biến tấu khác của món ăn này, chẳng hạn như cơm tấm bì chả, cơm tấm gà, cơm tấm trứng,...

Một dĩa cơm tấm chuẩn là biểu hiện của sự hòa hợp trong ngũ hành:

● Thổ - Vị ngọt: Là từ nguyên liệu chính của cơm tấm là gạo tấm. Gạo tấm là những hạt gạo bị vỡ ra trong q trình xay xát. Gạo tấm có vị ngọt thơm và bùi hơn gạo thường.

</div>

×