Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Đề tài hòa âm trong nocturne giọng fis moll cho piano của s v rachmaninoff

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 28 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b> MỞ ĐẦU </b>

Trong một tác phẩm âm nhạc ln có sự xuất hiện của các phương tiện diễn tả như: giai điệu, hịa âm, tiết tấu, điệu thức… Từ đó người nhạc sĩ đã sáng tạo nên những nhạc phẩm phản ánh về các hình tượng và cảm xúc mang lại sự độc đáo, thể hiện đặc trưng cho âm nhạc của từng thời kì, từng tác giả. Đặc biệt, yếu tố hịa âm có một tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của một tác phẩm âm nhạc và làm cho việc thể hiện của nó được sâu sắc và phong phú. Mỗi giai đoạn phát triển của tác phẩm có những tính chất khác nhau, khi thì êm đềm, ổn định, khi thì mạnh mẽ, căng thẳng… Ngồi ra hịa âm còn là ranh giới phân chia giữa các câu, đoạn và bổ trợ cho giai điệu ( đặc biệt trong âm nhạc chủ điệu )… Tất cả những điều nêu trên đã nói lên được vai trị to lớn của hoà âm.

Hòa âm của âm nhạc Cổ điển từ xưa vẫn ln là nền tảng, hình mẫu cơ bản cho sự phát triển của hòa âm các thời kì sau này. Nổi bật nhất cho sự kế thừa những tư duy chặt chẽ, khúc triết đó nhưng vẫn có tính đổi mới, sáng tạo chính là hòa âm trong âm nhạc Lãng mạn phương Tây cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Đối với các nhạc sĩ ở thời kì này, hịa âm đóng vai trị rất quan trọng và họ coi nó như một phương tiện biểu hiện có sức truyền cảm mạnh mẽ bên cạnh những yếu tố khác để hoàn thiện một tác phẩm âm nhạc. Âm nhạc thế kỉ XIX có sự tiếp nhận tính logic, chặt chẽ trong hệ thống cơng năng từ hịa âm Cổ điển nhưng được bổ sung, tăng cường chức năng của màu sắc và ngơn ngữ hịa âm. Từ đó, các nhạc sĩ đã đạt được những thành tựu phát triển khác nhau về hòa âm, đặc biệt trong những sáng tác của các nhà soạn nhạc nửa cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX. Một trong những nhạc sĩ tiêu biểu cho sự thành cơng đó là Sergei Vasilievich Rachmaninoff.

Sergei Vasilievich Rachmaninoff ( 1873 – 1943 ) là nhà soạn nhạc, bậc thầy piano và nhạc trưởng người Nga ở cuối thời kỳ Lãng mạn ( nửa cuối thế kỉ XIX – nửa đầu thế kỉ XX ). Các sáng tác cho dương cầm, giao hưởng, nhạc kịch… của

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

ông đã trở thành những tác phẩm kinh điển trong giai đoạn âm nhạc Lãng mạn và là di sản quý báu trong kho tàng nghệ thuật nước Nga cũng như thế giới. Các tác phẩm của ông tràn đầy sự kịch tính và xáo động mạnh mẽ trong nội tâm bởi ảnh hưởng từ những biến động trong xã hội nước Nga. Ông cũng là người tạo nên cầu nối giữa âm nhạc Lãng mạn thế kỉ XIX và âm nhạc Hiện đại thế kỉ XX. Tuy một số tác phẩm cuối cùng của ơng đã đánh dấu sự phát triển về hịa thanh và âm sắc ( do ảnh hưởng từ âm nhạc Mỹ ) nhưng Rachmaninoff vẫn ln gắn bó với hệ thống điệu tính và khước từ ngơn ngữ âm nhạc thế kỉ XX với những nhà cách tân lớn cùng thời như Ravel, Bartok… Một trong những tác phẩm đạt đến sự hoàn thiện trong ngơn ngữ và màu sắc hịa âm của âm nhạc Lãng mạn phương Tây cuối thế kỉ XIX là bản Nocturne fis moll.

Với phạm vi của tiểu luận học kì II Đại học II chuyên ngành Âm nhạc học, chúng tơi xin được nghiên cứu và tìm hiểu về các đặc điểm hòa âm trong bản Nocturne fis moll của nhạc sĩ S.V.Rachmaninoff. Đây là tác phẩm thuộc thể loại Nocturne chứa đựng những tinh hoa trong ngôn ngữ hòa âm của âm nhạc Lãng mạn cuối thế kỉ XIX và khẳng định được phong cách đặc trưng của tác giả. Đồng thời, mở ra một số đặc điểm cho âm nhạc thế kỉ XX và là tư liệu quý báu cho các nhạc sĩ sau này kế thừa, phát huy. Qua việc phân tích tác phẩm này, chúng tôi muốn làm rõ thêm các nét độc đáo trong lối tư duy hòa âm của Rachmaninoff và nói lên những đóng góp, sáng tạo lớn lao của ông đối với thể loại Nocturne nói chung và hịa âm trong Nocturne viết cho piano nói riêng.

<b> Tiểu luận của tơi có tiêu đề là: Hịa âm trong Nocturne giọng fis moll cho piano của S.V.Rachmaninoff. </b>

<b> </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b> Bố cục tiểu luận. </b>

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung phân tích tơi sẽ đề cập đến các mục như sau:

<b>1. Vài nét về thể loại Nocturne trong âm nhạc. </b>

<b>2. Giới thiệu về Nocturne giọng fis moll cho piano của Rachmaninoff. 3. Các đặc điểm hòa âm trong bản Nocturne. </b>

<b> NỘI DUNG PHÂN TÍCH </b>

<b>1. Vài nét về thể loại Nocturne trong âm nhạc. </b>

Nocturne dịch theo từ Hán – Việt còn được gọi là “dạ khúc”, là khúc nhạc đêm. Ở thế kỉ XVIII, Nocturne là tên gọi của những bản hòa tấu nhỏ, gồm nhiều khúc nhạc ngắn liên tiếp do các nhạc cụ dây và kèn gỗ hòa tấu. Đến thế kỉ XIX, trong sáng tác của các nhạc sĩ Lãng mạn, Nocturne là tên gọi của loại tác phẩm một chương với khuôn khổ không quá lớn, mang đặc điểm ca xướng, trữ tình, thể hiện những ước mơ, sự yên tĩnh, hình tượng về ban đêm.

Người đầu tiên sáng tác loại Nocturne một chương cho đàn piano là nhạc sĩ người Ireland G.Phind ( 1782 – 1837 ). Tiếp theo đó là nhạc sĩ F.Chopin, người đã kế thừa và phát triển thể loại Nocturne đạt đến sự hồn chỉnh về hình thức và nội dung. Các bản Nocturne thường được viết ở nhịp độ vừa phải hoặc chậm. Ở thế kỉ XIX và XX, Nocturne có nội dung khá phong phú như bản Nocturne cho piano “Liebestraum” của F.Liszt diễn tả màu sắc tình cảm trong sáng, hay những Nocturne của F.Chopin mang lại vẻ suy tư trầm lắng. Với Rachmaninoff, ông chỉ viết 4 bản Nocturne cho piano. Tuy số lượng không nhiều nhưng đã đạt được những giá trị về mặt tư duy và thẩm mỹ cũng như khẳng định rõ nét phong cách

<i>đặc trưng trong âm nhạc của ông. [ 3. Nguyễn Thị Nhung, Thể loại âm nhạc, Nxb </i>

Âm nhạc, Hà Nội - 1996. ]

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>2. Giới thiệu về Nocturne giọng fis moll cho piano của Rachmaninoff. </b>

Những bản Nocturne viết cho piano đã được Rachmaninoff sáng tác bao gồm 4 bản: Số 1 giọng fis moll, số 2 giọng F dur, số 3 giọng c moll viết trong các năm 1887 – 1888 và 1 bản Op.10 số 1 từ tuyển tập “Morceaux de Salon” ( 1894 ). Bản Nocturne giọng fis moll cho đàn piano được Rachmaninoff sáng tác

<i>năm 1887. [ 5. Nguyễn Thị Nhung ( 1999 ), Lịch sử âm nhạc phương Tây, Trường </i>

Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội, Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phịng xuất bản ]. Lúc này nhạc sĩ đang học tại Nhạc viện Moscow và vào thời điểm ơng cịn trẻ nên tác phẩm này đã chịu ảnh hưởng khá nhiều từ những giá trị về ngôn ngữ âm nhạc và màu sắc hòa âm trong các bản Nocturne của tiền bối F.Chopin. Tuy vậy, ơng đã thể hiện ở đó nhiều sự đổi mới mang tính sáng tạo và góp phần khẳng định được những nét độc đáo cho phong cách của mình trên con đường nghệ thuật.

Tác phẩm được viết ở hình thức 3 đoạn phức dạng Trio với phần tái hiện rút gọn ( A B A’), giọng fis moll, nhịp 4/4 và tốc độ Andante cantabile ( chậm và có tính chất như hát ). Bản Nocturne đã đem đến cho người nghe những giai điệu trữ tình, mềm mại xen lẫn cùng những tâm tư, tình cảm và sự xáo động trong tâm hồn của tác giả. Ta có sơ đồ hình thức của tác phẩm như sau:

• Sơ đồ khái quát hình thức bản Nocturne số 1 giọng fis moll của

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b><small>• Sơ đồ chi tiết : phần trình bày ( A ): </small></b>

<b>Hình thức 2 đoạn đơn phát triển ( a b ) </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Phần tái hiện ( A’) : tái hiện rút gọn ( lược bớt sự nhắc lại đoạn hai )

Tác giả đã sử dụng hình thức 3 đoạn phức, đây cũng là hình thức xuất hiện khá nhiều trong thể loại Nocturne bởi những sự cân bằng, hài hịa, dễ dàng truyền tải được các hình tượng âm nhạc… Có thể thấy, Rachmaninoff đã kế thừa những đặc trưng trong các bản Nocturne của tiền bối F.Chopin. Tuy vậy, ông đã nâng cao, mở rộng thêm những khía cạnh về nội dung, hình tượng, cảm xúc so với Nocturne truyền thống trước đây và đưa thêm vào đó những yếu tố mới mẻ trong hình thức để tạo nên sự đa dạng hơn cho thể loại này.

Thứ nhất, tác giả đã tạo ra sự đổi mới cho phần tái hiện. Nếu như ở phần trình bày ( A ) đoạn nhạc thứ nhất ( a ) được viết ở hình thức đoạn nhạc 2 câu khơng nhắc lại ( x y ) thì ở phần tái hiện ( A’), đoạn nhạc a’ đã trở thành đoạn nhạc 3 câu ( x’ m n ). Thứ hai, thơng thường trong hình thức 3 đoạn phức dạng Trio sẽ có sự thay đổi lập tức về hệ thống hóa biểu và giọng khi kết thúc phần trình bày ( A ) để sang phần giữa ( B ) nhưng trong tác phẩm Nocturne fis moll, Rachmaninoff không sử dụng nguyên tắc trên; ông vẫn giữ nguyên giọng cũ và chỉ thay đổi về mặt factuya hòa âm, đây là điều gần như hiếm thấy trong âm nhạc Cổ điển. Mặt khác, ở phần giữa ( B ) trong 3 đoạn phức dạng Trio thường hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thành hình thức với sự phân chia rõ ràng các câu nhạc, đoạn nhạc nhưng ở bản Nocturne này tác giả lại viết phần giữa ở hình thức 2 đoạn đơn với 2 đoạn nhạc không phân câu. Thông qua những tư duy đổi mới theo hướng nói trên cho chúng ta thấy những bước tiến quan trọng và những sáng tạo mà Rachmaninoff đã đóng góp cho âm nhạc Lãng mạn ở cuối thế kỉ XIX. Trong đó ơng khơng chỉ có sự thay đổi về hòa âm mà còn để lại những dấu ấn nhất định về hình thức âm nhạc đối với một số thể loại nhạc đàn như: Etude, Prelude, Raphsody, Concerto…

<b>3. Các đặc điểm hòa âm trong bản Nocturne fis moll. </b>

<i><b>3.1 . Cách sử dụng điệu thức. </b></i>

Điệu thức trong một tác phẩm là yếu tố đóng vai trị quan trọng bởi chúng góp phần mang đến những tính chất âm nhạc khác nhau: vui, buồn, kịch tính, trữ tình… Bản Nocturne fis moll sử dụng hai loại điệu thức chủ đạo là thứ hòa thanh và trưởng tự nhiên. Đây là điều cho thấy tác giả đã có sự tiếp thu từ các tác phẩm ở thời kì Cổ điển Viên. Ngồi ra, qua tìm hiểu và được nghe những tác phẩm của các nhạc sĩ người Nga, chúng tôi thấy họ thường sử dụng điệu thức thứ tự nhiên bởi tính chất giản dị, mộc mạc gần với âm nhạc dân gian. Tuy vậy, Rachmaninoff lại không hay áp dụng điệu thức này mà thay vào đó là đi vào khai thác điệu thức thứ hòa thanh, giúp mang đến những màu sắc trữ tình, mềm mại hơn và nói lên được đặc trưng của thể loại Noturne.

Điệu thức chính được sử dụng trong tác phẩm là giọng fis moll hòa thanh. Vậy tại sao tác giả lại lựa chọn giọng fis moll mà không phải các giọng khác? Lý giải cho điều này có lẽ theo quan điểm, thẩm mỹ của các nhà soạn nhạc phương Tây, họ cho rằng giọng fis moll mang đến sự yên tĩnh, trữ tình, sâu lắng và khá phù hợp với những xáo động trong tâm trạng của mình. Bởi vậy trong tiềm thức âm nhạc, họ sẽ khá ưa chuộng sử dụng điệu thức này. Dẫn chứng cụ thể là, trong tuyển tập “Bài ca không lời” của F.Mendelssohn có những tác phẩm thể hiện về các sắc thái, cảm xúc nêu trên đã được viết ở giọng fis moll, như: bản Op.19 số 5 Nr.5 ( Restlessness ), bản Op.30 số 12 Nr.6 ( Venetien Boat Song No.2 ); hay

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Nocturne Op.48 No.2 fis moll của F.Chopin cũng là một dạng như vậy. Nhìn chung, có thể nói Rachmaninoff đã có sự kế thừa, phát huy những tinh hoa trong ngôn ngữ âm nhạc của các tiền bối đi trước và áp dụng một cách hiệu quả vào bản Nocturne này. Ta có sơ đồ điệu thức của toàn bộ tác phẩm như sau:

Quan sát và suy nghĩ về sơ đồ điệu thức trên ta sẽ nhận ra sự luân chuyển màu sắc từ 4 điệu thức ở hệ thống dấu thăng ( fis – h – A – cis ) sang 5 điệu thức ở hệ thống dấu giáng ( Des – f – b – Des – es ), đến điệu thức khơng có dấu hóa ( C dur ), rồi lại quay trở về các điệu thức ở hệ thống dấu thăng ( h – e – fis ) với sự bắt đầu và kết thúc ở điệu tính chính ( fis moll ), hồn tồn không phải là ngẫu nhiên, mà là một dạng thiết kế có tính tốn của Rachmaninoff.

Về tỉ lệ loại điệu thức được sử dụng trong tác phẩm như sau:

Có thể thấy, hệ thống điệu thức mà tác giả sử dụng đa phần là điệu thứ hòa thanh và đều có số lượng dấu hóa nhiều. Điều này cũng phản ánh một trong những đặc điểm của âm nhạc phương Tây cuối thế kỉ XIX, đồng thời góp phần thể hiện được sự đa dạng trong tư duy về hòa âm theo những mảng màu sắc khác nhau. Hơn thế nữa, quá trình luân chuyển giữa các giọng từ mở đầu đến kết thúc của tác phẩm có những điểm khá đặc biệt mà tơi sẽ đề cập chi tiết hơn trong tiểu mục

<i><b>3.4.1. Ly điệu, chuyển điệu. </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i><b>3.2 . Cách sử dụng các nhóm cơng năng. </b></i>

Các nhóm cơng năng hịa âm được sử dụng cũng góp một phần khơng nhỏ trong việc tạo nên những màu sắc âm thanh đa dạng trong tác phẩm. Đồng thời chúng còn là ranh giới để phân chia các câu, đoạn trong hình thức âm nhạc. Với tác phẩm Noturne fis moll, Rachmaninoff vẫn sử dụng đủ cả ba nhóm cơng năng là chủ ( T ), hạ át ( S ) và át ( D ) nhưng ở mỗi nhóm ơng đều để lại cho người nghe những dấu ấn đặc biệt.

• Nhóm chủ ( T ):

Nhóm cơng năng chủ giữ vai trò tạo nên sự ổn định cho những điệu thức ở mỗi tác phẩm. Số lượng hợp âm chủ xuất hiện trong bản Nocturne fis moll là khá nhiều và Rachmaninoff vẫn giữ được tính kế thừa từ tư duy của âm nhạc Cổ điển là khẳng định được rõ được màu sắc của điệu tính chính. Nhóm cơng năng chủ bao gồm các hợp âm T, T<small>6</small> và T<small>64</small>trong đó những hợp âm chủ ở thể gốc ( T ) được sử dụng nhiều nhất và ở thể đảo 2 ( T64) được sử dụng ít nhất. Dù cho các hợp âm T<small>64 </small>xuất hiện với số lượng khá hạn chế nhưng ngoài việc được biết đến là hợp âm lướt, thêu chúng còn xuất hiện với tư cách là hợp âm chủ phụ ( tôi sẽ đề cập

<i><b>chi tiết hơn trong nhánh tiểu mục 3.3.1. Hòa âm trong cơ cấu ) . Ta có tỉ lệ các </b></i>

hợp âm được sử dụng trong nhóm cơng năng chủ như sau:

• Nhóm hạ át ( S ):

Nhóm hạ át mang đến những tính chất bất ổn định ở mức vừa phải trong hệ thống điệu thức và cũng là cầu nối giữa nhóm chủ ( T ) và nhóm át ( D ). Số lượng hợp âm của nhóm này được xuất hiện ở tác phẩm Nocturne fis moll chiếm tỉ lệ ít nhất trong số 3 nhóm cơng năng ( T, S, D ). Tuy vậy chúng vẫn đóng một vai trị

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

quan trọng trong việc tạo nên các màu sắc đa dạng cho hòa âm bởi tư duy của chủ nghĩa Lãng mạn là đề cao tính chất của những hợp âm phụ. Cụ thể hơn là Rachmaninoff rất ưa thích dùng hợp âm SII7 + thể đảo thay vì S hoặc S6

.

Ngoài ra, hợp âm TSVI và TSVI6 cũng được ông khai thác với chức năng là hợp âm trung gian để chuyển giọng và đặc biệt là ở vịng kết biến cách bổ sung ( tơi sẽ đề

<i>cập kĩ hơn trong nhánh tiểu mục 3.3.2. Hòa âm trong các vịng kết ). Ta có tỉ lệ </i>

các hợp âm được sử dụng trong nhóm cơng năng hạ át như sau:

• Nhóm át ( D ):

Là nhóm cơng năng mang đến những màu sắc và tính chất bất ổn định ở mức căng thẳng nhất trong điệu thức. Các hợp âm thuộc nhóm này thường sẽ có xu hướng được giải quyết về hợp âm chủ + thể đảo. Trong tác phẩm Nocturne fis moll, nhóm cơng năng át được sử dụng bao gồm các hợp âm: D, DTIII, D7 + đảo, D<small>9</small>, DVII6, DVII7 + đảo và DDVII<sub>7 </sub>+ đảo. Ta có tỉ lệ các hợp âm được sử dụng trong nhóm cơng năng át như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Từ sơ đồ trên có thể thấy, tác giả rất hay sử dụng các hợp âm D và D<small>7</small>+ đảo với tỉ lệ lần lượt là 30% và 39% trong nhóm cơng năng át. Ngược lại, một hợp âm tưởng chừng rất quen thuộc là D6 lại không hề xuất hiện ở trong bản Nocturne fis moll này. Ngoài ra các hợp âm DVII7 + đảo cũng được Rachmaninoff khai thác khá nhiều từ đó góp phần tơ điểm thêm cho những sự kịch tính, căng thẳng trong màu sắc âm nhạc đồng thời tăng thêm sự hút dẫn cho các hệ thống điệu thức. Hợp âm DTIII mặc dù chỉ được sử dụng 1 lần nhưng cũng để lại những dấu ấn bởi nó đóng vai trị trung gian trong q trình chuyển giọng. Nhìn chung, nhóm cơng năng át với tính chất bất ổn định đã được tác giả khai thác với số lượng và các loại hợp âm rất đa dạng và phong phú. Qua đó thể hiện một cách rõ nét hơn cho những xáo động trong tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn truyền đạt từ tác phẩm.

• Sơ đồ tổng kết tỉ lệ các nhóm cơng năng được sử dụng trong toàn bộ tác phẩm:

Tựu trung, các nhóm cơng năng được sử dụng ( T, S, D ) đã có sự bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong q trình phát triển của tồn bộ bản Nocturne fis moll nhằm mang đến những tính chất căng thẳng, kịch tính và cả sự trữ tình, mềm mại. Qua sơ đồ trên ta thấy nhóm cơng năng át ( D ) được sử dụng nhiều nhất, chiếm 45% tổng sổ các hợp âm trong tác phẩm, tiếp theo đó là nhóm chủ ( T ) với 41% và sau cùng là nhóm hạ át ( S ) với số lượng ít nhất chỉ 14%. Có thể nói, việc khai thác khá nhiều âm hưởng của các hợp âm nhóm cơng năng át ( D ) đã thể hiện được những xáo động mạnh mẽ trong cảm xúc, tâm lý của tác giả muốn gửi gắm tới người nghe. Đồng thời mang lại cho tác phẩm một màu sắc tràn đầy tính kịch,

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cất lên được tiếng nói, suy tư của một người Nga trước những biến động trong xã hội nước mình.

<i><b>3.3. Các lối tiến hành hòa âm. </b></i>

<i>3.3.1. Hòa âm trong cơ cấu: </i>

Tiến trình hịa âm trong cơ cấu của tác phẩm góp một phần quan trọng trong việc thể hiện được những nội dung, hình tượng chính và phong cách tác giả ở tác phẩm đó. Bởi vậy sẽ có nhiều sự phát triển, thay đổi đối với những đường tuyến giai điệu, sự nối tiếp của các vịng cơng năng… nhằm khẳng định rõ nét cho ngơn ngữ hịa âm.

Ngay trong đoạn nhạc đầu tiên ( đoạn a phần A ) của bản Nocturne, tác giả đã mang đến những màu sắc mới lạ khi thể hiện những âm hưởng của nhóm át ( D ) bằng nhịp lấy đà và ly điệu vào bậc IV của giọng fis moll. Đây là điều khá hiếm xảy ra trong âm nhạc Cổ điển và cho thấy sự phá cách của âm nhạc Lãng mạn. Đồng thời phần nào đó manh nha cho sự xóa nhịa và làm mờ dần điệu tính chính trong âm nhạc của các thời kì sau. Hơn nữa bậc IV ở đây được sử dụng ở thể đảo 2 ( IV<small>64</small> ) mà thơng thường vẫn được dùng trong các vịng lướt, thêu nhưng lại dùng làm hợp âm chủ phụ. Điều này đã nói lên những cách tân mới mẻ trong tư duy sáng tác của Rachmaninoff.

Yếu tố đặc trưng ban đầu của thể loại Nocturne cũng được khẳng định bởi

<b>tác giả sử dụng tốc độ Andante cantabile ( chậm và có tính chất như hát ). Ngồi </b>

<i>ra, âm nhạc vang lên ở sắc thái nhỏ ( P ) và các hợp âm được xếp theo dạng hẹp </i>

đã phần nào thể hiện những tính chất tự sự, trữ tình trong hình tượng của tác phẩm. Bên cạnh đó, sự giản dị của một người Nga như Rachmaninnoff cũng được ông đưa vào trong bản Nocturne nhờ việc khai thác các hợp âm 3,7 ở thể nguyên vị rất đơn giản và cơ bản nhưng vẫn có những dấu ấn riêng nhờ kết hợp với các thể đảo trong những giai đoạn tiếp theo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Ví dụ 1:

Nửa sau của đoạn nhạc a phần A là sự bắt đầu hình thành những yếu tố phát triển trong những phần kế tiếp. Các hợp âm lúc này không chỉ xếp hẹp như ban đầu nữa mà thay đổi thành sắp xếp hỗn hợp ( rộng + hẹp ) tạo nên sự gợi mở hơn về mặt không gian âm nhạc. Các nhóm cơng năng cũng được nhạc sĩ sử dụng một cách đa dạng khi xuất hiện đầy đủ màu sắc của T – S – D. Giai điệu được thêm phần linh hoạt nhờ sự mở rộng âm vực và kết hợp giữa tiết tấu cơ bản (

n

) và tự do (

ì

). Điều này mang đến những điểm nhấn khá thú vị bởi người nghe sẽ có cảm giác nhịp phân đơi ( 4/4 ) và nhịp phân ba ( 12/8 ) được pha trộn với nhau và đây cũng là động cơ chính cho sự phát triển trong phần B ( Trio ). Ví dụ 2:

Một điểm mới mẻ nữa cũng xuất hiện trong đoạn a của phần A là sự tăng đôi quãng nghịch trong hợp âm không ổn định. Đây là điều khá hiếm xảy ra trong âm nhạc Cổ điển và phần nào mang đến sự thay đổi cho cách sử dụng hợp âm trong âm nhạc Lãng mạn.

Ví dụ 3:

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Sang đến đoạn b, người nghe đã bắt đầu cảm nhận được sự phát triển khá rõ nét đầu tiên đến từ tác phẩm khi tốc độ lúc này thay đổi thành Allegro. Việc

<b>chuyển từ tốc độ chậm ( Adante ) sang nhanh ( Allegro ) thể hiện những sự kịch </b>

tính, căng thẳng vốn thường khơng xuất hiện trong thể loại Nocturne và đó là một trong những điểm mới mẻ mà tác giả muốn mang đến.

Ví dụ 4:

Ngồi ra, Rachmaninoff cịn đem tới những cách tân khác như việc sử dụng thủ pháp tiết tấu hóa hịa âm bằng kĩ thuật t’remolo móc tam. Yếu tố này mang đến sự đổi mới, bởi trong âm nhạc Cổ điển thường không thấy áp dụng kỹ thuật này. Bên cạnh đó trong đoạn b tác giả còn để lại dấu ấn với sự xuất hiện một trong số những vịng cơng năng đặc trưng của tác phẩm: DVII65 – D<small>43</small>-D<small>7 </small>và DVII65 –D<small>7 </small>- D. Cùng với mảng màu sắc của nhóm cơng năng T, Rachmaninoff đã khẳng định được ngôn ngữ hòa âm cho đoạn b là sự kết hợp của 2 tổ chủ - át.

Ví dụ 5:

Hòa âm trong phần B ( Trio ) cũng đem đến nhiều sự chuyển biến, đổi mới và có tính phát triển nhất trong tồn bộ tác phẩm. Việc thay đổi về màu sắc của điệu tính khơng được nhạc sĩ áp dụng trong giai đoạn đầu của phần này mà ông tập trung khai thác về khía cạnh factuya hịa âm để tạo sự phân ngắt. Đây là điều gần như chưa từng xuất hiện trong âm nhạc Cổ điển và nó đã nói lên những đóng góp tích cực của tác giả. Ngoài ra, sự kết thúc ở phần A và bắt đầu cho phần B ( Trio ) là kiểu kết gối đầu thường thấy trong sáng tác của các nhạc sĩ Lãng mạn

</div>

×