Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.3 MB, 205 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
đủ, hiệu qua, hòa nhập với xã hội; tôn trọng và chấp nhận
người khuyết tật như một phần của sự đa dạng của nhân
bảo vệ nét riêng biệt của mình.
Trước đây, tại khoản 1 Điều 26 Tuyên ngôn Quốc tế
tập..”. Trên tinh thần đó, nhận thức được tầm quan
trọng của giáo dục đối với người khuyết tật, CRPD khi ra đời đã yêu cầu các quốc gia phải đảm bảo cơ hội học
tiện, cơ sở, vật chất, cơng nghệ và phương pháp giáo giáo
với NKT cần trên cơ sở hồ nhập, có những điều chỉnh
24 CRPD có ghi nhận: Quốc gia thành viên thừa nhận
phổ thông trên cơ sở sự khuyết tật, và trẻ em khuyết tật
sống; c. Tạo điều kiện hợp lý cho người khuyết tật trên cơ sở nhu cầu cá nhân; d. Người khuyết tật được nhận sự
được giáo dục hiệu quả; e. Cung cấp các biện pháp trợ
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">tiện và dạng giao tiếp hoặc định hướng tăng cường hoặc
Bảo đảm giáo dục người khiếm thị, khiếm thính hoặc
chuyên gia và nhân viên ở mọi cấp giáo dục. Sự đào tạo
này phải bao gồm nâng cao nhận thức về người khuyết tật và su dụng các cách thức, phương tiện và dạng giao
tiếp tăng cường hoặc thay thế, kỹ thuật và cơ sở vật chất <small>207</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">giáo dục để hỗ trợ người khuyết tật. Cùng với đó, các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng người khuyết tật
túc và học tập suốt đời mà khơng có sự phân biệt nào và
Bên cạnh đó, CRPD đã ràng buộc pháp lý đối với khái
niệm “giao dục hịa nhập”, được cơng nhận là phương tiện
quyền tiếp cận giáo dục hòa nhập, CRPD quy định các
quốc gia phải tạo điều kiện hợp lý cho người khuyết tật trên cơ sở nhu cầu cá nhân người khuyết tật; cung cấp trợ
giáo dục hiệu quả; cung cấp các biện pháp trợ giúp cá biệt
Cơng ước về quyền của người khuyết tật được xem là một bước tiến quốc tế quan trọng trong việc tuyên bố và
bảo vệ quyền của mọi người khuyết tật, và nó đã đưa vấn
dé khuyết tat từ một cách nhìn từ thiện sang cách nhìn
dựa vào nhân quyền hơn bao giờ hết. Bằng việc ký kết
trong sự cam kết của Việt Nam sẽ bảo vệ quyền lợi của mọi người khuyết tật Việt Nam, lặp lại những lời đã xuất hiện trong Hiến pháp 1992 (Điều 59 và 67) và tiếp tục sứ mệnh của Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Một khi
CRPD được phê chuẩn, Việt Nam sẽ “đảm nhận sự đảm
<small>2°5 Ngô Vinh Bạch Dương (2017), “Bao đảm quyền tiếp cận của</small>
trẻ em mắc bệnh tự kỷ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 23 (351), <small>tz. 23 = đã.</small>
<small>209</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">bảo và xúc tiến quá trình hiện thực hóa tồn bộ cá› quyền con người và những quyền tự do cơ bản cho mci người
Việt Nam là một trong những quốc gia rất tích cực trong việc tham gia các cơng ước quốc tế liên quan đến
Dang va Nhà nước ta rất quan tâm ban hành các chính
sách đảm bảo quyền lợi cho người khuyết tật. Trước đây,
điều 59 Hiến pháp năm 1992 cũng đã dé cập dén quyền
được học tập đối với người khuyết tật và hiện nay tại Điều
Trong bối cảnh Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế
trên tất ca các lĩnh vực, xây dựng nhà nước pháp q1yền xã
hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
trọng trên tất cả các mặt chính trị, pháp lý va xã bội. Việc
định trong Hiến pháp và nhiều văn bản quy phan pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">luật có liên quan đã được Quốc hội đã ban hành như Luật Người khuyết tật, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật
Ngay sau khi ký kết Công ước quốc tế về quyền của
người khuyết tật theo quy định của Công ước đều được
dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm
quyền của NKT.
<small>Su kiện Việt Nam ký tham gia Cơng ước, tồn bộ</small>
tinh than, nội dung quy định của Công ước đã ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam. Từ
Pháp lệnh về người tan tật, điều chỉnh một cách toàn diện các vấn đề liên quan đến quyền lợi thiết thân của người khuyết tật. Đối với CRPD, chỉ bốn tháng sau khi
Công ước này được mở, ngày 22-10-2007, Nhà nước Việt
<small>241</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Nam đã ký cam kết tham gia CRPD. Sau khi ký kết
này, năm 2010, Quốc hội đã ban hành Luật Người
khuyết tật thay thế cho Pháp lệnh về Người tàn tật; các
Luật Người khuyết tật năm 2010 ra đời thay thế cho
người. Quá trình tổng kết, đánh giá các quy định và thực
dựng và ban hành Luật Người khuyết tật năm 2010 cũng
khuyết tật trong tiếp cận dịch vụ và hòa nhập xã hội trên
Cùng với đó, Luật Trẻ em 2016 cũng có ghi nhận: “Tre
quyền của người khuyết tật theo quy định của pháp luật;
thông phù hợp (Điều 46 Luật Trẻ em 2016). Cha, mẹ, giáo
viên, người chăm sóc trẻ em có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập, hồn thành chương trình giáo dục phổ cập theo quy định của pháp luật, tạo điều
kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn (khoản 2 Điều
<small>việc hiện thực hố các nội dung của Cơng ước.</small>
<small>213</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Việt Nam cũng có có những điều chỉnh phù hợp đối với việc học tập của người khuyết tật. Người khuyết tật học
<small>tập theo phương thức giáo dục hịa nhập học theo chương</small>
trình giáo dục chung. Trường hợp người khuyết tật khơng có khả năng đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục chung, người đứng đầu cơ sở giáo dục quyết định điều chỉnh, miễn, giảm, thay thế một số nội dung môn học hoặc
một số môn học, hoạt động giáo dục cho phù hợp và được
Ngoài ra, trong các pháp luật chuyên ngành khác cũng
có các điều khoản ghi nhận vấn đề hòa nhập NKT trong lĩnh
(Điều 11, 13, 15, 28, 63, 85); Luật Trẻ em 2016 (Điều 55, Điều 44, Điều 85); Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014(Điều 6, Điều 27, Điều 51, Điều 58)..Day được xem là những quy định cơ ban, làm nền tảng giúp cho các cơ quan nhà nước
Mục tiêu của ngành GD&DT trong giáo dục người
khuyết tật đến năm 2020 là tăng cường khả năng tiếp cận và nâng cao chất lượng giáo dục NKT, bảo đảm NKT được
thơng được tiếp cận giáo dục hịa nhập chất lượng, bình
58/2012/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH ngày 31/12/2012 Quy định về điều
tư liên tịch số 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH-BTC
ngày 28/12/2013 quy định chính sách về giáo dục đối với
ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý tham gia chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết tật.
<small>215</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">cầu học tập, giúp họ trang bị kiến thức như những người bình thường khác; hỗ trợ và tạo điều kiện cần thiết để
NKT có thể tham gia học tập; dé cao và khuyến khích
giáo dục hịa nhập cộng đồng. Những thành tựu đạt được
trong công cuộc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam nêu trên. xuất phát trước hết từ truyền thống
<small>nhân văn, nhân đạo của dân tộc Việt Nam; từ ý chí,</small>
<small>Nam, hướng tới một xã hội luôn đặt con người ở trung</small>
tâm của sự phát triển và một nhà nước pháp quyền “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đó cũng là kết
quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản chất ưu việt,
tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa, của truyền thống văn hóa, các đặc thù của dân tộc Việt Nam với việc thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực chung và nghĩa vụ quốc tế về
quyền con người được quy định trong các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
<small>nhiên cũng như bao công dân khác trong xã hội, họ cũng</small>
có quyền được học tập - một trong những quyền hiến định quan trọng nhất mà của bất cứ quốc gia nào cũng ghi nhận. Tất nhiên, do là nhóm đối tượng đặc biệt cần được sự quan tâm, trợ giúp của xã hội, mà vấn đề giáo dục đối với NKT cũng có nhiều điểm đặc thù riêng và do đó, cần có
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">sự điều chỉnh riêng biệt của pháp luật. Có thể nói giáo dục đối với NKT có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, đảm bảo cho
<small>Thứ nhất, giáo duc sẽ giúp NKT có được những tri</small>
họ trở thành người có ích cho xã hội. Đối với từng dạng tật
<small>Thứ hai, giao dục giúp NKT tái hòa nhập vào cộng</small>
khó khăn và sự bất hạnh của mình.
Thứ ba, giáo dục là nền tảng cho việc trang bị việc
trọng nhất cũng chính là quyết định của chính NKT, họ có
<small>217</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">muốn đóng góp vào nền kinh tế quốc gia hay khơng, khi
<small>hạnh phúc tai địa phương, ..); xây dựng những động cơ</small>
đúng đắn của người khuyết tật khi tham gia hoạt động, giao tiếp đồng thời hướng dẫn họ lựa chọn các hoạt động
và giao tiếp phù hợp với khả năng của bản thân. Đặc biệt công tác giáo dục luôn xây dựng các mối quan hệ giao tiếp
khuyết của bản thân.
Thứ năm, giáo dục tạo tiền đề cho sự tự giáo dục của
khả năng tự giáo dục thì các phẩm chất và năng lực của
họ sẽ hình thành ở mức độ thấp hoặc thậm chí khơng thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của người khuyết tật phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước
<small>cách mạnh mẽ.</small>
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Công ước về quyền của người khuyết tật thơng qua sự kiện
Quốc hội khố XIII đã phê chuẩn Công ước tại kỳ họp thứ
<small>8 (tháng 10-2014). Từ góc độ pháp lý, bên cạnh nhữngthành tựu và thuận lợi mà Việt Nam đạt được thì cũng có</small>
khơng ít những khó khăn, thách thức nhất định đặt ra cho
nước ta trong bối cảnh và tình hình kinh tế - chính trị - xã
Thứ nhất, hệ thống pháp luật của Việt Nam nói
chung, trong lĩnh vực quyền con người nói riêng, cịn chưa đồng bộ, có chỗ cịn chồng chéo, mâu thuẫn dẫn tới khó
<small>219</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Việt Nam đang triển khai Chiến lược Xây dựng và Hoàn
<small>thiện Hệ thống Pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định</small>
hướng đến năm 2020, trước mắt là rà sốt lại tồn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm loại bỏ các văn bản luật mâu thuẫn, chồng chéo hoặc khơng cịn phù
hợp với thực tiễn; bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất, tính khả thi, cơng khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực
<small>hiện của các văn bản quy phạm pháp luật này.</small>
quyền của người khuyết tật nói riêng. Việt Nam đã xây
dựng khuôn khổ pháp lý tương đối day đủ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật. Tuy nhiên, việc
khó khăn do một số nguyên nhân. Phần lớn người khuyết tật Việt Nam sống ở khu vực nông thôn nên việc tiếp cận
<small>các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là giáo dục cịn khó</small>
khăn. Bên cạnh đó, nhận thức của tồn xã hội về quyền con người cịn một số hạn chế, gây ảnh hưởng đến việc thực thi các quyền tại Công udc?”,
Thứ ba, do mức độ phát triển kinh tế - xã hội chưa
đồng đều giữa các vùng và các nhóm dân cư, Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt các nguồn lực dành
<small>?“ Báo cáo quốc gia lần thứ nhất về thực thi công ước Liên hợp quốcvề quyền của người khuyết tật</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">sách hỗ trợ va bao đảm quyền tiếp cận và dam bao giáo
dục của các nhóm yếu thế, dé bị tốn thương trong xã hội. Những rủi ro về biến đối khí hậu, thiên tai, dịch bệnh mà
đối tượng chịu tác động nặng nề nhất chính là các nhóm yếu thế vẫn là một thách thức không nhỏ đối với Việt
Nam. Nguồn lực của đất nước còn hạn chế, tầm bao phủ của hệ thống an sinh xã hội hiện nay còn khiêm tốn đã gây ra những rào cản khơng đáng có, ảnh hưởng đến việc
hưởng thu đầy đủ các quyền của người khuyết tật.
thực hiện quyền của mình một cách đầy đủ và hiệu quả. Việc
phát hiện va xu lý kịp thời.
<small>Thứ năm, giáo dục là lĩnh vực được Nhà nước coi</small>
<small>thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc22|</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">nước, phát huy truyền thống nhân ái của dân tộc, Đảng,
<small>Nhà nước và xã hội ln quan tâm chăm sóc và giúp đỡ</small> những người yếu thế trong xã hội, trong đó có người khuyết tật. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (6/1991) đã chỉ rõ: “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội. Chăm lo đời sống những người gia ca, neo don, tan tật,
mất sức lao động và trẻ mồ cơi”. Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại khoản 2 Điều 59 quy định:
và tại khoản 3 Điều 61 cũng có quy định: “Nhà nước ưu
tật và người nghèo được hoc văn hóa và học nghé”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">các chính sách bao trợ trẻ em mồ côi, lang thang co nh,
người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật” và
Thứ nhất, Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường công tác
tự do cơ bản của người dân, đảm bảo hệ thống pháp luật
<small>Thứ hai, sớm hồn thiện chính sách pháp luật NKT</small>
<small>223</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">nước về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật
và các giải pháp thực hiện các chủ trương, ngun tắc đó.
Vai trị của chính sách, pháp luật là cơ sở chính trị - pháp
khuyết tật. Chính sách, pháp luật người khuyết tật phải đặt trong tổng thể hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước và là bộ phận khơng thể tách rời của tồn bộ chính sách pháp luật nói chung. Mặt khác, tư tưởng, ngun tắc
chính sách, pháp luật NKT cũng phải được lồng ghép sâu
sắc trong chính sách pháp luật của tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ ba, cần nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ các quy định
toàn diện các quyền của người khuyết tật theo lộ trình
thành viên Công ước để sớm xác định chủ động việc thực
thi nghiêm chỉnh các nghĩa vụ này. Đồng thời, phát huy quan hệ hợp tác quốc tế tốt đẹp, hiệu quả giữa Việt Nam
với các quốc gia thành viên Công ước, với các tổ chức quốc
tế trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu; phát huy vai
trò của các tổ chức xã hội, nhất là vai trị tích cực của các tổ chức vì và của người khuyết tật ở các quan hệ trong
nước cũng như quốc tế.
Nhân dân về cơng tác người khuyết tật nói chung và việc đảm bảo quyền tiếp cận đối với giáo dục nói riêng. Tích cực
Như vậy, việc sớm hồn thiện chính sách pháp luật
<small>225</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">sách của Đảng và Nhà nước cũng như tinh thần Cơng ước về quyền của NKT. Chính sách, pháp luật NKT là
những chủ trương, nguyên tắc chủ đạo của Nhà nước về
xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và các giải pháp thực hiện các chủ trương, ngun tắc đó. Vai trị của chính sách, pháp luật là cơ sở chính trị - pháp lý
Chính sách, pháp luật NKT phải đặt trong tổng thể hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước và là bộ phận khơng thể tách rời của tồn bộ chính sách pháp luật nói
dung chính sách pháp luật của tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">TS. Đỗ Thị Dung”
Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe là nhu cầu tất yếu, quan
trọng của con người. Với những người khi sinh ra hoặc trong quá trình sống, vì lý do nào đó mà bị khuyết tật về
Xuất phát từ nhu cầu mang tính khách quan, chính
<small>od</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">bảo hộ và đảm bảo người khuyết tật được hưởng thụ một
có của người khuyết tật, ngày 13/12/2006, Đại hội đồng
Liên hiệp quốc đã thông qua Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật. Theo đó, các quốc gia tham gia Cơng
dịch vụ công cộng của người khuyết tật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã
tham gia ký và phê chuẩn Công ước trên tinh thần không bảo lưu điều khoản nào mà tôn trọng bảo vệ quyền và lợi ích của người khuyết tật phù hợp với pháp
có khuyết tật. Cho đến nay, các nội dung của Công ước
về cơ bản đã được nội luật hóa trong các quy định của
Luật Người khuyết tật năm 2010 và các đạo luật liên quan. Tuy nhiên, do điều kiện phát triển kinh tế xã hội, các điều kiện để bảo đảm cho người khuyết tật thực hiện
quyền và các lý do khác, nên vẫn còn một số nội dung
của Cơng ước trong đó có nội dung về quyền bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật chưa được nội
luật hóa đầy đủ. Điều đó khơng chỉ làm ảnh hưởng đến
việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật, mà cịn ảnh hưởng đến việc tiếp cận và hòa nhập cộng
đồng nói chung của người khuyết tật trong bối cảnh hội
nhập quốc tế hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">1. Quy định về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
của người khuyết tật trong Công ước quốc tế về
quyền của người khuyết tật năm 2006
Công ước quốc tế về các quyền của người khuyết tật (tiếng Anh: Convention on the Rights of Persons with
Disabilities, viết tắt CRPD) được Dai hội đồng Liên hiệp quốc đã thơng qua ngày 13/12/2006, có hiệu lực từ ngày từ
ngày 3/5/2008. Đây là hiệp ước đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt
vệ quyền của hơn 650 triệu người khuyết tật trên tồn thế
giới. Tính đến tháng 3/2014, trên thế giới đã có 158 quốc
khuyết tật.
<small>?8 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Tờ trình số </small>
18/TTr-BLĐTBXH ngày 03/03/2014 về việc phê chuẩn Công ước của Liên
<small>hợp quốc về quyền của người khuyết tật.</small>
<small>Man</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>Cùng với việc đưa ra các định nghĩa quan trọng làm cơ</small>
sở cho việc thống nhất nhận thức về người khuyết tật, quy
định các nguyên tắc, nghĩa vụ chung, Công ước đã liệt kê
các quyền của người khuyết tật. Trong đó, quyền về bảo vệ
<small>và chăm sóc sức khỏe là nội dung cơ bản quan trọng, được</small>
quy định tại Điều 25 (Y tế) và Điều 26 (Hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng). Nội dung của Công ước quy định về
quyền bảo vệ và chăm sóc sức khỏe đối với người khuyết tật
1.1. Quy định về y tế
Điều 25 Công ước quy định các quốc gia thành viên
của Công ước thừa nhận người khuyết tật có quyền thụ hưởng tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe cao nhất có thể mà khơng có sự phân biệt đối xử vì lý do bị khuyết tật. Các quốc gia thành viên của Công ước cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp để đảm bảo người khuyết tật có thể tiếp cận được các dịch vụ y tế mang tính
nhạy cảm giới, bao gồm phục hồi chức năng có liên
quan đến vấn đề y tế. Cụ thể, các quốc gia thành viên của Công ước cam kết:
- Cung cấp cho người khuyết tật các dịch vụ và chương trình chăm sóc y tế có chất lượng đảm bảo, đủ tiêu
chuẩn và miễn phí hoặc có thể chi trả được tương tự như các dịch vụ và chương trình cung cấp cho các đối tượng
khác bao gồm các chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh
sản và các vấn đề sinh lý và các chương trình y tế cơng cộng về vấn đề dân số.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">- Cung cấp các dịch vụ y tế như trên khi người khuyết
<small>và người gìà.</small>
- Cung cấp các dịch vụ y tế như vậy càng gần cộng
- Yêu cầu các cán bộ y tế chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật như chăm sóc sức khoe cho những người khác,
- Nghiêm cấm cấm phân biệt đối xử đối với người
- Nghiêm cấm việc từ chối mang tính phân biệt đối xử
trong cơng tác chăm sóc sức khỏe, cung cấp các dịch vụ y tế, thực phẩm và đồ uống vì lý do khuyết tật.
cứ tiêu chí gì về giới tính, độ tuổi, mức độ khuyết. tật hay
dạng tật. Trong đó Công ước đặc biệt lưu ý việc bảo đảm chăm sóc sức khỏe đối với các đối tượng yếu thế như người khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ khuyết tật.
<small>Cùng với các quy định này, Công ước quy định nghiêm</small>
cấm các hành vi phân biệt đối xử trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế, bảo hiểm y tế cũng như các dịch vụ
y tế khác đối với người khuyết tật.
<small>chức năng</small>
Cùng với nội dung về y tế, Điều 26 Công ước quy định về hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng đối với người khuyết tật. Theo đó, các quốc gia thành viên của Công ước
cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp và hiệu quả, kể
được và duy trì tối đa khả năng độc lập, khả năng học
được mục tiêu này, các quốc gia thành viên của Công ước cam kết tổ chức, củng cố và mở rộng các dịch vụ và chương
trình phục hồi chức năng, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, <small>việc làm, giáo dục, và dịch vụ xã hội, theo cách mà cácdịch vụ và chương trình này:</small>
- Bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất và dựa trên đánh giá
- Hỗ trợ sự tham gia và hoà nhập cộng đồng và mọi
mặt của xã hội, và sự hỗ trợ này phải tự nguyện, và sẵn có
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">cho người khuyết tật và sự hỗ trợ này càng gần cộng đồng càng tốt, kể ca vùng nông thôn.
Các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thúc day việc xây dựng các chương trình đào tạo ban đầu
<small>và đào tạo thường xuyên cho các chuyên viên và cán bộ</small>
làm việc trong lĩnh vực phục hồi chức năng.
Các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thúc day khả năng sẵn có, kiến thức và việc su dụng
công nghệ và thiết bị hỗ trợ được thiết kế cho người khuyết tật vì các cơng nghệ và thiết bị hỗ trợ này có liên quan đến phục hồi chức năng.
Sau gần 01 năm Công ước về quyền của người khuyết tật ra đời, ngày 22/11/2007 Việt Nam đã ký tham
khá căn bản về nhận thức và hành động thực tế của Nhà nước và xã hội đối với người khuyết tật và bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người khuyết tật. Theo đó, quyền bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật được quy định cụ
trong các luật chuyên ngành khác cũng có các điều khoản quy định về việc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ người
12), Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 (Điều 8),
năm 2014 (Điều 12 đến Điều 15), Luật hội chữ thập đỏ
năm 2008 (Điều 7), Pháp lệnh ưu đãi người có cơng với
cách mạng năm 2005 đã sửa đổi, bổ sung năm 2012
(Điều 9 đến Điều 29). Cùng với đó, Chính phủ và các bộ/ngành đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, đồng
thời xây dựng các kế hoạch, chương trình, đề án, dự án
thực tế.”° Với hệ thống pháp luật dần được hoàn thiện
<small>209 Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020, Kế hoạch</small>
Quốc gia về phát triển phục hồi chức năng giai đoạn 2014-2020, Đề
<small>án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020, Đề án trợgiúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rốinhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020, Đề án chămsóc trẻ em mồ cơi khơng nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bịnhiễm HIV/AIDS, trẻ em nhiễm chất độc hóa học, trẻ em bị khuyết</small>
<small>tật nặng và trẻ em bi ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm hoa dựa vào</small>
<small>cộng đồng giai đoạn 2013-2020, Dự án Tổ chức phục hồi chức năngtại cộng đồng cho nạn nhân chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trongchiến tranh 6 Việt Nam giai đoạn 2008-2016 v.v..</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">và bao dam phù hợp với nội dung của Công ước, ngày
của người khuyết tật.”
<small>khía cạnh sau:</small>
2.1. Chăm sóc sức khỏe ban đầu
Trên cơ sở quy định của Công ước, Hiến pháp năm
sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú.
Theo quy định tại Điều 21 Luật Người khuyết tật năm 2010, chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với người khuyết tật thuộc trách nhiệm của cơ sở y tế cấp xã, trực tiếp thực
<small>235</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">pháp phịng bệnh, tự chăm sóc sức khỏe và phục hồi chức
năng. Đồng thời, trạm y tế cấp xã thực hiện khám bệnh, <small>chữa bệnh phù hợp với phạm vi chuyên môn cho người</small>
khuyết tật. Cụ thể:
Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức
về chăm sóc sức khỏe người khuyết tật. Mục đích của hoạt
động này là nhằm tăng cường kiến thức và hiểu biết của người khuyết tật về việc tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho bản thân. Từ đó sẽ giúp người khuyết tật loại bỏ dan những lối sống, thói quen và phong tục tập quan có hại cho sức khỏe. Việc thực hiện các hoạt động này được thông
ghép vào các hoạt động văn hóa xã hội khác ở địa phương.
Nội dung tuyên truyền, giáo dục kiến thức chăm sóc sức khỏe người khuyết tật gồm: cải thiện điều kiện dinh
dưỡng và ăn uống hợp lý, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, các hoạt động phòng bệnh... Đối với trẻ em
khuyết tật, tuyên truyền, giáo dục chăm sóc sức khỏe
<small>dục hịa nhập hoặc giáo dục chuyên biệt tùy thuộc vào</small> mức độ khuyết tật cũng như khả năng phục hồi sức khỏe
của trẻ em.
Thứ hai, thực hiện các biện pháp phòng ngừa khuyết tật. Hoạt động phòng ngừa khuyết tật được thực hiện rất
<small>đa dạng, phong phú như: phòng ngừa dựa vào dạng tật,</small>
phòng ngừa dựa vào khả năng thực tế của địa phương, hồn cảnh gia đình, phịng ngừa dựa vào nhu cầu của
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">người khuyết tật. Để thực hiện hoạt động này, mỗi người
Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh phải tư vấn biện pháp phòng ngừa
<small>2010-2015, các trung tâm trước sinh và sơ sinh đã thực hiện</small>
sàng lọc trước sinh cho trên 50.000 thai phụ, chấm dứt kỳ thai cho khoảng 9.000 thai phụ, thực hiện theo dõi và tư
vấn sau sinh cho khoảng 40.000 trường hợp; thực hiện
<small>?! Bộ Y tế, Báo cáo về tình hình thực hiện Cơng ước Liên hợp quốcvề quyền người khuyết tật, ngày 2/12/2016.</small>
<small>237</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Thứ ba, quản lý sức khỏe người khuyết tật. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 Luật Người khuyết tật năm
2010, trạm y tế cấp xã có trách nhiệm lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khỏe người khuyết tật. Mục đích là nhằm quản lý theo
doi tình trạng khuyết tật ở địa phương, từ đó giúp cơ quan chức năng đưa ra các giải pháp hợp lý để chăm sóc sức khỏe người khuyết tật hiệu qua hơn. Quản lý sức khỏe người khuyết tật cũng được coi là nội dung quan trọng trong chăm
sóc sức khỏe ban đầu đối với người khuyết tật. Bởi nếu người
khuyết. tật được cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt hoạt động quản lý, theo dõi, thống kê, báo cáo về số lượng, tình
trạng khuyết tật... một cách chính xác sẽ là cơ sở để hoạch
<small>định chính sách cũng như có biện pháp chăm sóc sức khỏe</small>
phù hợp, tránh được các nguy cơ gây ra hậu quả xấu hơn về sức khỏe cho người khuyết tật.
Nhằm quản lý, theo dõi sức khỏe người khuyết tật tại
cộng đồng, Bộ Y tế đã nghiệm thu và đang đưa vào sử dụng phần mềm quản lý thông tin về chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật. Hiện nay, bằng phần mềm này, ngành y tế đang quản lý thông tin của hơn 90.000 người khuyết tật tại 9
tỉnh/thành phố. Bộ Y tế dự kiến sẽ triển khai áp dụng phần
mềm này tại toàn bộ các tỉnh/thành phố trên cả nước.”!? <small>2.2. Khám bệnh, chữa bệnh</small>
Người khuyết tật khi ốm đau, bệnh tật được khám
<small>bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở nơi712 Bộ Y tế, Báo cáo về tình hình thực hiện Cơng ước Liên hợp quốcvề quyền người khuyết tật, ngày 2/12/2016.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>họ cư trú, lao động hoặc hoc tập. Với mạng lưới khám</small>
bệnh, chữa bệnh phát triển rộng khắp, từ trung ương đến
<small>địa phương và được đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, bao</small>
gồm cơ sở khám, chữa bệnh của nhà nước, tư nhân... đã tạo
điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật khám bệnh, chữa bệnh kịp thời, hiệu quả. Ngoài ra, việc quy định phong
<small>phú các hình thức khám bệnh, chữa bệnh nội trú, ngoại</small>
trú, lưu động, tại nhà như hiện nay, đã giúp người khuyết
tật có nhiều cơ hội được khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với điều kiện hoàn cảnh về thời gian, tài chính, kinh tế của
người khuyết tật.
Theo quy định hiện hành, nội dung của chế độ khám
bệnh, chữa bệnh đối với người khuyết tật bao gồm:
Thứ nhất. quyền được khám bệnh, chữa bệnh. Trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh, người khuyết tật được đảm bảo các quyền như mọi công dân khác, như: quyền
được khám bệnh, chữa bệnh có chất lượng phù hợp với
điều kiện thực tế; quyền được giữ bí mật thơng tin về tình
trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án; quyền được tôn trọng danh dự, không bị kỳ thị, phân biệt
đối xử trong khám, chữa bệnh; quyền được lựa chọn
bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định quyền được khám
<small>13 Điều 7 đến Điều 13 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.</small>
<small>239</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">bệnh, chữa bệnh có chất lượng phù hợp với điều kiện thực
tế của người bệnh, không phân biệt người khuyết tật và
người không khuyết tật. Luật quy định người bệnh tại
<small>Việt Nam nói chung, trong đó có người khuyết tật, có</small>
quyền được lựa chọn trong khám bệnh, chữa bệnh, có quyền chấp nhận hoặc từ chối tham gia nghiên cứu y sinh
học về khám bệnh, chữa bệnh;”! quyền được tôn trong danh du, bảo vệ sức khỏe trong khám bệnh, chữa bệnh.
Nếu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh vi phạm các quy định
trong lĩnh vực khám chữa bệnh, sẽ bị xử phạt vi phạm
<small>hành chính.”'?</small>
người khuyết tật, theo quy định tại khoản 1 Điều 22 và khoản 1 Điều 23 Luật Người khuyết tật năm 2010, người khuyết tật còn được Nhà nước bảo đảm để khám bệnh, chữa bệnh, sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp và được cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện các biện pháp khám, chữa bệnh phù hợp với khuyết tật. Trường
hợp người khuyết tật là người mắc bệnh tâm thần ở
trạng thái kích động, trầm cảm, có ý tưởng, hành vi tự sát hoặc gây nguy hiểm cho người khác thì bắt buộc phải
<small>khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám, chữa bệnh. Đối</small>
với trẻ em sơ sinh bị khuyết tật bẩm sinh thì được xác định khuyết tật kịp thời và có biện pháp điều trị, chỉnh
<small>?“ Điều 10 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.</small>
<small>”5 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủquy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">hình, phục hồi chức năng phù hợp. Mục đích của các quy
Thứ hai, quyền được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh.
<small>Trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, pháp luật quy</small>
định cơ sở y tế phải ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho
người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng,
miễn, giảm viện phí, hỗ trợ sinh hoạt phí, chi phi di lại, chi
chữa bệnh năm 2009, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 và luật khác về ưu tiên đối với những đối tượng có
hồn cảnh sức khóe đặc biệt.”!°
Theo Báo cáo của Bộ Y tế về tình hình thực hiện Công ước Liên hợp quốc về quyền người khuyết tật, qua kết quả khảo sát, số lượng người khuyết tật đã thực hiện quyền
khám bệnh, chữa bệnh, chủ yếu khám, chữa bệnh tại các
cơ sở khám, chữa bệnh của Nhà nước. Trong số những
<small>"16 Điều 12 Luật Người cao tuổi năm 2009; khoản 4 Điều 3 LuậtKhám bệnh, chữa bệnh năm 2009; khoản 1 Điều 41 Luật Bảo vệsức khỏe nhân dân năm 1989.</small>
<small>24I</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">người khuyết tật đã từng đi khám, chữa bệnh hầu hết
<small>được giảm viện phí.”!</small>
2.3. Bảo hiểm y tế
Với việc cơng nhận người khuyết tật có quyền hưởng
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đạt tiêu chuẩn cao nhất
<small>mà không bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật, phápluật hiện hành quy định khi khám bệnh, chữa bệnh,</small> người khuyết tật được bảo hiểm y tế thanh tốn các chi
phí y tế. Theo Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 đã sửa đổi,
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013, người khuyết tật là người có cơng với cách mạng đang hưởng
chế độ ưu đãi xã hội, người khuyết tật nặng và người
khuyết tật đặc biệt nặng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng hoặc đang nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế. Mức hưởng
khi khám bệnh, chữa bệnh đúng tuyến quy định. Theo Báo cáo của Bộ Y tế, đến nay các địa phương đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người khuyết tật. Trường hợp người khuyết tật tham gia các loại hình bảo hiểm khác cũng được thanh tốn các quyền lợi theo quy định hoặc theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
<small>? Bộ Y tế, Báo cáo về tình hình thực hiện Cơng ước Liên hợp quốcvề quyền người khuyết tật, ngày 2/12/2016.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">2.4. Chỉnh hình, phục hồi chức năng
Chỉnh hình, phục hồi chức năng là nội dung quan trọng trong chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật. Bởi phục hồi chức năng đóng vai trị quan trọng trong việc cải thiện tình trạng sức khỏe, từ đó nâng cao kha
năng lao động và khả năng tự phục vụ của người khuyết tật. Theo quy định tại Điều 24, 25 Luật Người
khuyết tật, nội dung chỉnh hình, phục hồi chức năng người khuyết tật bao gồm:
Thứ nhất, chỉnh hình, phục hồi chức năng thơng qua
các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng. Cơ sở chỉnh
hình, phục hồi chức năng đối với người khuyết tật là cơ sở
cung cấp dịch vụ chỉnh hình, phục hồi chức năng cho
người khuyết tật. Theo quy định của pháp luật, cơ sở
chỉnh hình, phục hồi chức năng có nhiều loại, như: viện chỉnh hình, phục hồi chức năng; trung tâm chỉnh hình, phục hồi chức nang; bệnh viện điều dưỡng, phục hồi chức
năng: khoa phục hồi chức năng của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; bộ phận phục hồi chức năng của cơ sở bảo trợ xã hội
và cơ sở khác.
Cho đến nay, Việt Nam đã hình thành hệ thống cung
cấp dịch vụ phục hồi chức năng từ cấp trung ương đến địa
viện phục hồi chức năng tuyến trung ương và trung tâm phục hồi chức năng của Bệnh viện Bạch Mai, 100% bệnh
viện đa khoa tuyến trung ương có Khoa phục hồi chức
<small>243</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">chức năng thuộc ngành y tế và 23 bệnh viện/trung tâm
phục hồi chức năng thuộc các bộ/ngành khác, 90% các
bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và 50% bệnh viện chuyên
huyện có 75% bệnh viện tuyến huyện có khoa/phịng/tổ phục hồi chức năng. Tại tuyến xã, có 10.000 trong tổng số
11.000 xã trên cả nước có phân cơng cán bộ y tế chuyên
trách về phục hồi chức năng, khoảng 50% số cán bộ này đã
được đào tạo và có kiến thức, kỹ năng về phục hồi chức năng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Ngoài ra 10.668 xã/phường trên cả nước có trạm y tế, 65% trạm y tế có bác sỹ”1Š,
Từ các số liệu thực tế, có thể thấy rằng kết quả thực hiện quyền bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nói chung, chỉnh hình phục hồi chức năng nói riêng đối với người khuyết tật trong thời gian qua được đánh giá là tương
đối khả quan. Theo Báo cáo của Tổng cục Dân số - kế
hoạch hóa gia đình của Bộ Ÿ tế, các địa phương đã thực
hiện chỉnh hình phục hồi chức năng và cấp dụng cụ
chỉnh hình miễn phí cho khoảng 300.000 người khuyết
tật; cung cấp phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe đẩy,
chân tay giả cho trên 100.000 người; phẫu thuật chỉnh hình và trợ giúp phục hồi chức năng cho hơn 100.000 trẻ em khuyết tật. Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, tính đến năm 2016, đã có 100% tỉnh, thành phố trực
<small>“18 Bộ Y tế, Báo cáo về tình hình thực hiện Cơng ước Liên hợp quốcvề quyền người khuyết tật, ngày 2/12/2016.</small>
</div>