Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.43 KB, 40 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>Câu 1. Anh/chị hãy cập nhật lại thông tin về môi trường kinh tế vĩ mơ của Thế giới và ViệtNam tính đến hết tháng 5 năm 2023 (Tập trung vào các vấn đề: Tăng trưởng kinh tế?Chính sách tiền tệ? Thương mại quốc tế? Ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19?)</b>
<i><b>1. Môi trường kinh tế vĩ mơ của Thế giới tính đến hết tháng 5 năm 2023</b></i>
Bối cảnh toàn cầu năm 2023 vẫn đi kèm với nhiều biến số khó đốn định: căng thẳng địa chính trị của cuộc chiến Nga – Ukraine; rủi ro suy thoái kinh tế của Hoa Kỳ; chính sách mở cửa nền kinh tế của Trung Quốc sau giai đoạn đóng cửa vì COVID-19; việc điều hành tiền tệ ngược pha giữa các nền kinh tế lớn… Lạm phát mặc dù đã chững lại nhưng vẫn ở mức cao; nhu cầu tiêu dùng giảm trên diện rộng trong khi đầu tư quốc tế chưa thể định hình rõ ràng vì tác động của nhiều biến số mới như xung đột địa chính trị, rủi ro tiền tệ và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn.
<b>a) Tổng quan tình hình biến động thị trường Thế Giới </b>
<i><b>Thương mại hàng hóa tồn cầu suy giảm trong nửa cuối năm 2022</b></i>
Theo báo cáo mới nhất ngày 01/3/2023 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thước đo thương mại hàng hóa đạt 92,2 vào tháng 12/2022, thấp hơn giá trị cơ sở 100 và thấp hơn nhiều so với chỉ số khối lượng giao dịch thương mại hàng hóa. Hầu hết các chỉ số thành phần của thước đo đều giảm xuống dưới xu hướng, trừ chỉ số sản phẩm ô tô (105,8) do số liệu sản xuất và bán hàng tăng tại Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản. Chỉ số đơn hàng xuất khẩu (97,4) vẫn nằm dưới xu hướng nhưng đang tăng, phản ánh khả năng tăng trong thời gian tới. Trong khi đó, các chỉ số về vận chuyển container (89,3), vận tải hàng không (87,8), linh kiện điện tử (84,9) và nguyên liệu thô (92,0) đều nằm dưới xu hướng và giảm, thể hiện sự yếu kém trong thương mại đang lan rộng, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực.
WB cũng đồng quan điểm khi cho rằng tăng trưởng thương mại toàn cầu đang chậm lại. Thương mại hàng hóa tồn cầu thu hẹp vào cuối năm 2022 khi giảm 1,5% trong tháng 11/2022 so với cùng kỳ năm trước, mức giảm đầu tiên kể từ năm 2020. Chỉ số đơn hàng xuất khẩu mới và các chỉ số trong PMI tổng hợp có dấu hiệu cải thiện trong tháng 01/2023 từ 46 lên 47,5 điểm nhưng vẫn nằm trong vùng thu hẹp, tích lũy hàng tồn kho đối với hàng hóa thành phẩm giảm cho thấy áp lực của chuỗi cung ứng toàn cầu đã giảm bớt. Phục hồi của ngành du lịch toàn cầu do dỡ
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">bỏ các hạn chế đi lại ở Trung Quốc giúp cho số lượng khách du lịch quốc tế trong năm 2023 có thể đạt 95% so với mức trước đại dịch.
<i><b>Giá năng lượng có xu hướng giảm, trái ngược với xu hướng tăng của giá kim loại, lạmphát đạt đỉnh</b></i>
WB nhận định giá năng lượng trong tháng 01/2023 giảm gần 9% so với tháng trước. Giá khí đốt tự nhiên ở châu Âu và Hoa Kỳ trong tháng 01/2023 giảm hơn 40% so với tháng trước do thời tiết ấm hơn dự kiến. Giá than cũng giảm, một phần phản ánh giá khí đốt tự nhiên giảm và giảm bớt lo ngại về tình trạng thiếu năng lượng. Giá dầu thơ Brent trung bình đạt 83 đơ la Mỹ/thùng trong tháng 01/2023, tăng nhẹ so với tháng 12/2022. Tuy nhiên, giá dầu vẫn không ổn định do các thị trường cân nhắc về triển vọng nhu cầu toàn cầu và việc áp đặt giá trần đối với các sản phẩm dầu mỏ của Nga.
Ngược lại, giá kim loại tăng 6% trong tháng 01/2023 so với tháng trước, cao nhất là thiếc (16%), quặng sắt (9%) và đồng (8%), phản ánh tâm lý thị trường được cải thiện sau những dấu hiệu phục hồi mạnh hơn dự kiến ở Trung Quốc khi mở cửa trở lại.
Giá hàng hóa nơng nghiệp nhìn chung ổn định trong tháng 01/2023 và giảm nhẹ trong tháng 02/2023. Chỉ số giá lương thực, thực phẩm (FFPI) của Tổ chức lương thực và nơng nghiệp Liên hợp quốc đạt bình quân 129,8 điểm trong tháng 02/2023, giảm nhẹ (0,6%) so với tháng 01/2023, tiếp tục xu hướng giảm trong tháng thứ 11 liên tiếp. Với lần giảm mới nhất, chỉ số này đã giảm 29,9 điểm (18,7%) so với mức cao nhất đạt được vào tháng 3/2022, phản ánh sự sụt giảm đáng kể chỉ số giá dầu thực vật, sữa và ngũ cốc.
IMF nhận định lạm phát toàn cầu đã đạt đỉnh, dự kiến chỉ số giá tiêu dùng năm 2023 của 84% các quốc gia sẽ thấp hơn so với năm 2022. Lạm phát bình quân năm của toàn cầu dự kiến sẽ giảm từ 8,8% năm 2022 xuống 6,6% năm 2023. Lạm phát giảm một phần phản ánh giá nhiên liệu quốc tế và hàng hóa phi nhiên liệu giảm do nhu cầu toàn cầu yếu đi, cũng như tác động của thắt chặt chính sách tiền tệ. Ở các nền kinh tế phát triển, lạm phát bình quân năm dự báo sẽ giảm từ 7,3% năm 2022 xuống 4,6% năm 2023. Tại các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi, lạm phát bình quân năm dự kiến sẽ giảm từ 9,9% năm 2022 xuống 8,1% năm 2023.
<i><b>Điều kiện tài chính tồn cầu có xu hướng ổn định</b></i>
Theo WB, điều kiện tài chính tồn cầu có xu hướng ổn định vào đầu năm 2023. Chứng khốn tồn cầu tăng khoảng 7% trong tháng 01/2023, trước khi ổn định vào tháng 02/2023 do kỳ vọng lãi suất ngắn hạn của Hoa Kỳ tăng. Dòng tài chính vào các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi tăng trong đầu năm 2023. Tháng 01/2023, dòng nợ và vốn cổ phần trong danh
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">2020, dẫn đầu là dòng vốn vào Trung Quốc tăng mạnh. Sau khi tăng nhanh trong năm 2022, chênh lệch lãi suất đi vay của chính phủ các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi đã giảm trong những tháng đầu năm 2023.
IMF cho rằng các điều kiện tài chính tồn cầu đã phần nào dịu bớt kể từ thời điểm đưa ra Báo cáo ổn định tài chính tồn cầu tháng 10/2022, chủ yếu do kỳ vọng của thị trường về chu kỳ lãi suất thay đổi. Lợi suất trái phiếu toàn cầu và chênh lệch lãi suất doanh nghiệp gần đây đã giảm, thị trường chứng khoán phần nào hồi phục.
<i><b>Triển vọng thị trường lao động toàn cầu năm 2023 vẫn chưa phục hồi về mức trước đại dịch</b></i>
Theo báo cáo Xu hướng triển vọng việc làm và xã hội thế giới 2023 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đến cuối năm 2022, quá trình phục hồi sau khủng hoảng Covid-19 vẫn chưa hồn thiện và khơng đồng đều trên toàn thế giới, đặc biệt ở các quốc gia có thu nhập thấp và thu nhập trung bình, đồng thời bị cản trở nhiều hơn do hậu quả của cuộc xung đột ở U-crai-na. Dự báo về sự suy giảm tăng trưởng kinh tế và việc làm năm 2023 cho thấy hầu hết các quốc gia sẽ không thể phục hồi hoàn toàn về mức trước đại dịch trong tương lai gần. Khoảng cách việc làm toàn cầu là thước đo mới về nhu cầu việc làm chưa được đáp ứng trên thế giới. Khoảng cách việc làm toàn cầu ở mức 473 triệu người năm 2022, tương ứng với tỷ lệ khoảng cách việc làm là 12,3%. Số liệu trên tương ứng với 205 triệu người thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là 5,8% và 268 triệu người có nhu cầu việc làm chưa được đáp ứng. Việc làm toàn cầu được dự báo tăng 1,0% vào năm 2023 (điều chỉnh giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2022), giảm đáng kể so với tốc độ tăng việc làm 2,3% năm 2022.
<i><b>Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới</b></i>
<i>Thứ nhất, quá trình phục hồi kinh tế của Trung Quốc có thể bị đình trệ. Trong bối cảnh mức</i>
độ miễn dịch cộng đồng vẫn còn thấp và năng lực bệnh viện không đủ, đặc biệt khu vực ngoại ô các đô thị lớn, những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe có thể cản trở q trình phục hồi. Khủng hoảng sâu sắc của thị trường bất động sản ở Trung Quốc với rủi ro vỡ nợ cao của các nhà phát triển bất động sản có thể dẫn đến bất ổn trong khu vực tài chính.
<i>Thứ hai, leo thang xung đột ở U-crai-na. Cuộc xung đột tại U-crai-na vẫn là nguyên nhângây ảnh hưởng tiêu cực với châu Âu và các nước có thu nhập thấp. Mặc dù giá năng lượng đã</i>
giảm nhưng nhu cầu năng lượng của Trung Quốc tăng khiến giá có thể tăng đột biến. Giá lương thực có thể tăng do việc gia hạn sáng kiến ngũ cốc ở Biển Đen gặp nhiều khó khăn. Điều này gây thêm áp lực cho các quốc gia có thu nhập thấp đang gặp phải tình trạng mất an ninh lương thực và có ngân sách hạn chế để bù đắp tác động tăng giá lên các hộ gia đình và doanh nghiệp. Thêm vào đó, khi giá lương thực và nhiên liệu tăng cao, tình trạng bất ổn xã hội có thể gia tăng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><i>Thứ ba, khó khăn về nợ. Kể từ tháng 10/2022, chênh lệch nợ công ở các nền kinh tế đang</i>
phát triển và thị trường mới nổi đã giảm nhẹ do các điều kiện tài chính tồn cầu được nới lỏng và đồng đô la Mỹ mất giá. Ước tính khoảng 15% các quốc gia có thu nhập thấp đang lâm vào tình trạng khó khăn về nợ và khoảng 25% các nền kinh tế mới nổi đối mặt với nguy cơ nợ cao. Sự kết hợp giữa mức nợ cao do đại dịch, tăng trưởng thấp hơn và chi phí đi vay cao hơn đã khiến tình trạng dễ bị tổn thương của các nền kinh tế này trở nên trầm trọng hơn, đặc biệt là những nền kinh tế có nhu cầu trả nợ bằng đồng đơ la Mỹ trong ngắn hạn.
<i>Thứ tư, lạm phát kéo dài. Tình trạng thắt chặt thị trường lao động kéo dài có thể khiến tăng</i>
trưởng tiền lương mạnh hơn dự kiến. Giá dầu, khí đốt và lương thực cao hơn dự kiến do tác động từ cuộc xung đột ở U-crai-na hoặc do phục hồi tăng trưởng kinh tế Trung Quốc nhanh hơn có thể làm tăng lạm phát chung và chuyển dần vào tăng lạm phát cơ bản. Những diễn biến như vậy có thể phá vỡ kỳ vọng lạm phát và địi hỏi cần thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa.
<i>Thứ năm, định giá lại thị trường tài chính đột ngột. Việc sớm nới lỏng các điều kiện tài</i>
chính để ứng phó với dữ liệu lạm phát thấp hơn có thể làm phức tạp thêm các chính sách chống lạm phát và buộc phải thắt chặt tiền tệ hơn. Đồng thời, việc công bố dữ liệu lạm phát khơng thuận có thể gây ra việc định giá lại tài sản đột ngột, làm tăng biến động trên thị trường tài chính và ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản cũng như hoạt động của các thị trường lớn.
<i>Thứ sáu, sự phân mảnh địa chính trị. Cuộc xung đột ở U-crai-na và các biện pháp trừng phạt</i>
quốc tế đang chia rẽ nền kinh tế thế giới thành các khối và làm gia tăng căng thẳng địa chính trị. Sự phân mảnh gia tăng dẫn đến việc lưu chuyển nguồn vốn, di chuyển của người lao động và thanh toán quốc tế giữa các quốc gia gặp nhiều khó khăn, có thể cản trở hợp tác đa phương trong cung cấp hàng hóa tồn cầu.
<b>b) Triển vọng kinh tế thế giới năm 2023</b>
<i>Về tổng quan, tình trạng phức tạp và nhiều nhân tố khó dự báo của nền kinh tế toàn cầu</i>
khiến nhiều tổ chức quốc tế hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023. Cụ thể, WB dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 1,7%, còn dự báo của Liên hợp quốc là 1,9%; trong khi đó, các tổ chức quốc tế khác, như Cơ quan thông tin của Tạp chí Economist (Economist Intelligence Unit (EIU), Anh), Tổ chức xếp hạng quốc tế Fitch (Mỹ), dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt khoảng 1,4 - 1,7%. Đây là mức tăng trưởng thấp thứ ba trong vòng 30 năm qua, chỉ nhỉnh hơn so với mức tăng trưởng giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu trong các năm 2008 - 2009 và giai đoạn đại dịch COVID-19.
Các nền kinh tế phát triển dự kiến chỉ tăng trưởng 0,5% theo WB và 1,2% theo IMF.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">năm 2022. Trong đó, kinh tế Mỹ năm 2023 dự kiến tăng trưởng 0,5% - mức thấp nhất của Mỹ kể từ năm 1970 (trừ các giai đoạn suy thối chính thức). Rủi ro lớn nhất của kinh tế Mỹ là làn sóng lạm phát tiếp theo sẽ buộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) phải thắt chặt hơn nữa chính sách tiền tệ, từ đó làm suy giảm tiêu dùng và đầu tư của nền kinh tế. Nền kinh tế khu vực Eurozone dự kiến không tăng trưởng, với tốc độ 0% theo WB, thậm chí rơi vào tăng trưởng âm theo dự báo của EIU. Còn kinh tế Pháp tăng trưởng -0,3%, Đức: -1%, I-ta-li-a: -1,3%, Anh: -0,8%. Kinh tế Nhật Bản dự báo tăng trưởng 1% theo WB và kinh tế Nga sẽ chỉ tăng trưởng -3,3% theo dự báo của EIU.
<i>Trong khi đó, các nền kinh tế đang phát triển dự kiến tăng trưởng 3,4% theo WB và 4%</i>
theo IMF, trong đó tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc đóng góp 0,7 điểm phần trăm.Kinh tế Trung Quốc dự kiến tăng trưởng 4,3% theo WB, 4,7% theo EIU và 4,8% theo Liên hợp quốc, trong bối cảnh Trung Quốc đã dỡ bỏ các biện pháp hạn chế liên quan tới dịch bệnh COVID-19. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này có thể sẽ thấp hơn nếu tác động của các hệ lụy từ việc phịng, chống dịch bệnh COVID-19 trước đó lâu hơn dự kiến, thị trường bất động sản phục hồi khó khăn và thời tiết diễn biến cực đoan. Kinh tế Ấn Độ dự kiến tăng trưởng 6,6%. Ở khu vực Đông Nam Á, kinh tế Việt Nam được đánh giá là điểm sáng với mức dự báo tăng trưởng năm 2023 đạt khoảng 6,3%, cao hơn so với mức 5,2% của Cam-pu-chia, Phi-líp-pin (5%), In-đơ-nê-xi-a (4,8%), Ma-lai-xi-a (4%), Thái Lan (3,6%).
<i>Về nhân tố tác động, trong bối cảnh có nhiều nhân tố chính trị, an ninh, môi trường và kinh</i>
tế tác động đan xen tới triển vọng kinh tế thế giới năm 2023, nhiều tổ chức quốc tế và cơ quan nghiên cứu khá thận trọng và nhấn mạnh vào các nhân tố tiềm ẩn có thể làm thay đổi các dự báo về kinh tế thế giới năm 2023.
<i>Một là, mặc dù chỉ số lạm phát toàn cầu năm 2023 dự kiến sẽ giảm, song vẫn ở mức cao là</i>
5,2% theo WB và 6,6% theo IMF, do đó, tiếp tục tạo ra sức ép giảm tốc đối với nền kinh tế thế giới. Đáng chú ý là rủi ro biến động về giá cả hàng hóa cơ bản, nhất là giá dầu mỏ. Theo EIU, tùy vào diễn biến của cuộc xung đột Nga - U-crai-na và chính sách của Liên minh châu Âu (EU), giá khí ga tự nhiên tại khu vực châu Âu năm 2023 có thể tăng gấp 3 lần so với năm 2022. WB cảnh báo trong trường hợp lạm phát tăng cao hơn dự kiến dẫn tới phải thắt chặt hơn chính sách tiền tệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu nhiều khả năng sẽ thấp hơn mức 1,7%. Tình trạng lạm phát ở mức cao trên tồn cầu nếu khơng được cải thiện có thể sẽ kích động bất ổn xã hội, biểu tình trên diện rộng ở các nền kinh tế.
<i>Hai là, cạnh tranh địa - chính trị và cuộc xung đột Nga - U-crai-na sẽ tiếp tục chi phối sự</i>
phục hồi của nền kinh tế thế giới. Đáng chú ý, chính sách kinh tế của các nước phát triển ngày
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">càng hướng tới phục vụ các mục tiêu địa - chính trị và đặt ưu tiên an ninh trước các ưu tiên về hợp tác kinh tế. IMF cảnh báo sự phân mảnh trong nền kinh tế thế giới sẽ tạo ra thiệt hại tương đương 7% tổng sản phẩm nội địa (GDP) toàn cầu. Thương mại và đầu tư toàn cầu bị ảnh hưởng từ các biện pháp của các nước phát triển nhằm đưa đầu tư về trong nước (on-shoring) và chuyển sang các nước thân thiện (friend-shoring), giảm tối đa khả năng nước ngoài can thiệp vào các ngành công nghiệp chủ chốt, gia tăng các biện pháp rà soát đầu tư, thương mại. An ninh lương thực toàn cầu tiếp tục chịu rủi ro, nhất là đối với các nước có thu nhập thấp nếu Sáng kiến ngũ cốc Biển Đen khơng được duy trì. An ninh năng lượng đứng trước thách thức, nhất là tại khu vực châu Âu, do năm 2023, châu Âu hầu như khơng cịn nguồn nhập khẩu năng lượng từ Nga và chịu sự cạnh tranh từ thị trường năng lượng quốc tế do kinh tế Trung Quốc phục hồi.
<i>Thứ ba, sự phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc có thể tạo động lực tích cực cho tiến trình</i>
phục hồi nền kinh tế thế giới, khi mà Trung Quốc khẳng định, năm 2023, sẽ nỗ lực duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, duy trì giá cả và việc làm ổn định. Do đó, nếu các biện pháp phát huy tác dụng thì tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc sẽ gần như phục hồi, nhập khẩu, đầu tư và tiêu dùng sẽ trở lại mức bình thường. Theo Tập đồn Tài chính Bloomberg (Mỹ), tất cả thị trường du lịch trên thế giới đang có triển vọng phục hồi khi người tiêu dùng Trung Quốc bắt đầu chi tiêu khoản tiết kiệm 836 triệu USD tích lũy trong giai đoạn phòng, chống dịch bệnh COVID-19. IMF dự báo, sự đóng góp của kinh tế Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2023 sẽ gấp 3 lần mức đóng góp của Mỹ.
<i>Thứ tư, biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan có thể góp phần tạo ra các cú sốc mới đối với</i>
an ninh lương thực và năng lượng toàn cầu. EIU nhấn mạnh về hai rủi ro từ biến đổi khí hậu có khả năng xảy ra cao và tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế tồn cầu, đó là: 1- Cuộc khủng hoảng năng lượng tại khu vực châu Âu trở nên nghiêm trọng nếu thời tiết mùa đông năm 2023 lạnh hơn, khiến GDP của Eurozone suy giảm -0,4% năm 2023; 2- Thời tiết khắc nghiệt diễn biến thường xuyên hơn ảnh hưởng đến sản xuất lương thực, tạo ra cú sốc mới về an ninh lương thực toàn cầu.
Tựu trung, đặc điểm của kinh tế thế giới năm 2023 sẽ tiếp tục là sự kết hợp đa chiều, đa tầng và đa lĩnh vực của những rủi ro đối với tăng trưởng. Các rủi ro suy giảm tăng trưởng không chỉ gia tăng ở các nền kinh tế lớn, như Mỹ, Trung Quốc, Eurozone, mà còn ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Do đó, nếu những thách thức này khơng được xử lý kịp thời và xuất hiện các cú sốc mới, không loại trừ khả năng kinh tế thế giới năm 2023 có thể rơi vào suy thối. Trung tâm Nghiên cứu Ned Davis (Mỹ) dự báo khả năng kinh tế thế giới suy thoái năm 2023 là
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">98,1%, tương đương giai đoạn khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008 - 2009 và giai đoạn đầu đại dịch COVID-19 năm 2020.
<i><b>2. Môi trường Kinh tế vĩ mô của Việt Nam</b></i>
Kinh tế – xã hội năm 2022 của nước ta diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động nhanh, khó lường làm gia tăng rủi ro đến thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu được các tổ chức quốc tế dự báo tăng hoặc giữ nguyên so với dự báo tại thời điểm quý III/2022 nhưng thấp hơn tăng trưởng của năm 2021. Trong nước, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, hoàn thành mục tiêu kinh tế – xã hội năm 2022 và giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo bộ, ngành, địa phương triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội.
Trên cơ sở đó, kinh tế – xã hội năm 2022 của nước ta khởi sắc trên hầu hết các lĩnh vực, nhiều ngành đã khôi phục mạnh mẽ với mức tăng trưởng cao. Số liệu của Tổng cục Thống kê đã cho thấy một số điểm sáng của các ngành, lĩnh vực trong năm 2022 cụ thể như sau:
Hoạt động sản xuất kinh doanh phục hồi tích cực ở cả ba khu vực kinh tế. GDP năm 2022 tăng cao ở mức 8,02% so với năm trước, là mức tăng cao nhất các năm trong giai đoạn 2011-2022. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78% trong đó ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,1%. Khu vực dịch vụ tăng 9,99%, trong đó nhiều ngành dịch vụ thị trường tăng cao như: bán buôn, bán lẻ; vận tải kho bãi; dịch vụ lưu trú và ăn uống; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm…
Đáng chú ý, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2022 đảm bảo nguồn cung lương thực, thực phẩm trong nước và xuất khẩu. Sản lượng lúa mùa ước đạt 8,21 triệu tấn, tăng 151,9 nghìn tấn; sản lượng một số cây lâu năm tăng khá. Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh cơ bản được kiểm sốt. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 12/2022 tăng 11,4% so với cùng thời điểm 2021; tổng số gia cầm tăng 4,8%; tổng số bị tăng 3,1%. Ni trồng cá tra phát triển khá do giá cá tra nguyên liệu tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long và nhu cầu thị trường thế giới tăng cao. Sản lượng cá tra năm 2022 ước tăng 10,2% so với 2021.
Điểm sáng tiếp theo phải kể đến là ngành công nghiệp tiếp tục phục hồi và phát triển, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2022 ước tăng 7,8% so với 2021, trong đó nhiều ngành công nghiệp trọng điểm tăng trưởng cao.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Hoạt động thương mại, dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 đạt 5.679,9 nghìn tỷ đồng, tăng 19,8% so với 2021 và là mức tăng cao trong nhiều năm trở lại đây. Cũng trong năm 2022, khách quốc tế đến nước ta đạt 3.661,2 nghìn lượt người, gấp 23,3 lần so với năm 2021.
Hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng trưởng khá và có mức thặng dư tích cực. Tính chung năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với 2021, trong đó xuất khẩu tăng 10,6%; nhập khẩu tăng 8,4%; ước tính ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD.
Số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng cao. Năm 2022, cả nước có 148,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số lao động đăng ký là 981,3 nghìn người, tăng 27,1% về số doanh nghiệp và tăng 14,9% về số lao động so với 2021; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 59,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 38,8%. Tính chung số doanh nghiệp gia nhập thị trường năm nay đạt 208,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 30,3% so với năm 2021.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2022 ước đạt 3.219,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với 2021; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam ước đạt gần 22,4 tỷ USD, tăng 13,5%, cao nhất trong 5 năm qua.
Lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2022 tăng 3,15% so với 2021, thấp hơn mức tăng 3,54% và 3,23% của năm 2018 và 2020; cao hơn mức tăng 2,79% và 1,84% của năm 2019 và năm 2021. Lạm phát cơ bản bình qn năm 2022 tăng 2,59%.
Số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng. Lao động có việc làm trong năm 2022 ước tính đạt 50,6 triệu người, tăng 1.504,5 nghìn người so với cùng kỳ 2021; thu nhập bình quân tháng của lao động làm cơng hưởng lương ước tính đạt 7,5 triệu đồng/tháng, tăng 992 nghìn đồng. Tính đến ngày 30/11/2022, gói hỗ trợ theo Nghị quyết 11/NQ-CP đã giải ngân khoảng 3,74 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ gần 5,3 triệu lượt lao động tại gần 123 nghìn doanh nghiệp.
Từ các số liệu thống kê, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương đề xuất một số giải pháp để tiếp tục duy trì sự ổn định và đà tăng trưởng trong thời gian tới. Cụ thể, thống nhất và đồng bộ 6 nhóm giải pháp bao gồm:
<i>Một là, theo dõi sát diễn biến tình hình thế giới, diễn biến chính sách tài khóa, tiền tệ của các</i>
nước, các khu vực có quy mơ nền kinh tế lớn là đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của Việt Nam, chủ động có phương án ứng phó kịp thời với các tình huống phát sinh, thường xun cập nhật tình hình để có phản ứng kịp thời nhằm duy trì sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>Hai là, chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, ổn định tỷ giá, mặt bằng lãi suất,</i>
kiểm soát giá cả thị trường, bảo đảm cung ứng hàng hóa và các cân đối lớn của nền kinh tế. Có giải pháp hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, chuyển tài sản bằng tiền đồng sang ngoại tệ. Cân đối cung cầu, bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu đặc biệt vào các dịp lễ, tết.
<i>Ba là, các bộ, ngành, địa phương có các giải pháp quyết liệt thực hiện và giải ngân vốn đầu</i>
tư công, triển khai nhanh, hiệu quả các nhiệm vụ, dự án đầu tư thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế trong năm 2023. Đẩy nhanh việc hoàn thiện và triển khai các quy hoạch, tăng cường liên kết vùng để tạo sự đồng bộ, không gian mới và động lực mới cho sự phát triển của các vùng kinh tế - xã hội cũng như các địa phương trong vùng.
<i>Bốn là, đẩy mạnh sản xuất trong nước, nhất là các mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu đầu vào,</i>
quy hoạch các vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất để chủ động nguồn cung. Triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sản phẩm nơng, lâm, thủy sản, đa dạng hóa thị trường và hàng hóa xuất khẩu. Điều chỉnh kịp thời chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngồi có chất lượng cao. Triển khai mạnh mẽ các chương trình, giải pháp thúc đẩy tiêu dùng trong nước.
<i>Năm là, tiếp tục tăng cường công tác phòng chống bệnh dịch, chủ động phương án phòng</i>
chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn nhằm hạn chế tối đa thiệt hại tới sản xuất và cuộc sống của người dân. Thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội, lao động việc làm, công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống.
<i>Sáu là, nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp, siết chặt kỷ</i>
luật, kỷ cương hành chính trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, thực hiện nghiêm quy chế làm việc, kỷ luật phát ngôn, công khai, minh bạch, tạo mơi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng. Tăng cường thông tin, ngăn chặn triệt phá các thông tin xấu, sai sự thật, gây hoang mang cho người dân, tuyên truyền các hình ảnh đẹp về đất nước và con người Việt Nam
<i><b>Áp dụng vào các nhóm giải pháp, đến đầu năm 2023, Việt Nam thu về được một số điểm sángsau:</b></i>
<b>(1) Năng suất, sản lượng thu hoạch lúa đơng xn đạt kết quả tích cực, chăn nuôi phát triển ổn</b>
định, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt khá do áp dụng mơ hình ni tơm chất lượng cao hiệu quả
Năng suất gieo trồng lúa vụ Đông xuân năm 2023 của cả nước ước đạt 68,3 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng thu hoạch ước đạt 20,2 triệu tấn, tăng 184,6 nghìn tấn. Chăn ni trong tháng phát triển tương đối ổn định, trong đó: Số đàn lợn cuối tháng Năm tăng
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">2,6% so với cùng thời điểm năm trước; gia cầm tăng 1,3%; bò tăng 1,2%. Sản lượng nuôi trồng thủy sản trong tháng Năm ước tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 5 tháng đầu năm 2023, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng 2,9%, trong đó tơm tăng 2,6%.
<b> (2) Sản xuất cơng nghiệp tháng Năm đã tích cực hơn. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 5 năm</b>
2023 tăng 2,2% so với tháng trước. Trong đó, sản xuất đồ uống tăng 11,1%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị tăng 9,9%; sản xuất kim loại tăng 9,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 6,5%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,7% …
<b>(3) Hoạt động thương mại và dịch vụ tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng</b>
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Năm ước tính tăng 11,5%; vận chuyển hành khách tăng 13,6% và luân chuyển hành khách tăng 21,8%; vận chuyển hàng hóa tăng 20,7% và luân chuyển hàng hóa tăng 15,8%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước, vận chuyển hành khách tăng 21,2% và luân chuyển tăng 41,9%; vận chuyển hàng hóa tăng 18% và luân chuyển tăng 17,9%.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Cán cân thương mại hàng hóa 5 tháng đầu năm 2023 ước tính xuất siêu 9,8 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 0,24 tỷ USD). Trong đó một số mặt hàng xuất siêu: Điện thoại và linh kiện 18,01 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ 4,19 tỷ USD; thủy sản 2,27 tỷ USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 1,41 tỷ USD; rau quả 1,11 tỷ USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác 785 triệu USD; dây điện và cáp điện 275 triệu USD…
<b>(4) Chính sách mở cửa từ ngày 15/3/2022 sau dịch Covid-19 cùng với đẩy mạnh hoạt động xúc</b>
tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tới các nước trên thế giới trong thời gian qua nên khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng. Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 5/2023 ước đạt 916,3 nghìn lượt người, gấp 5,3 lần cùng kỳ năm trước; tính chung 5 tháng đầu năm 2023, khách quốc tế đến nước ta ước đạt gần 4,6 triệu lượt người, gấp 12,6 lần.
<b>(5) Tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 5 tháng đầu năm 2023 ước đạt</b>
25,5% kế hoạch, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 bằng 24,9% và tăng 10,8%), biểu hiện kết quả nỗ lực của Chính phủ, Bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh thực hiện vốn đầu tư công nhằm tạo động lực tăng trưởng trong bối cảnh kinh tế trong nước chịu ảnh hưởng từ những khó khăn chung của kinh tế thế giới.
<b>(6) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký mới tăng 27,8% so với cùng kỳ năm trước</b>
cho thấy Việt Nam tiếp tục là thị trường tiềm năng thu hút nhà đầu tư nước ngồi thời gian tới. Tính đến ngày 20/5/2023, cả nước có 962 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với số vốn đăng ký đạt 5,26 tỷ USD, tăng 66,4% so với cùng kỳ năm trước về số dự án và tăng 27,8% về số vốn đăng ký (cùng kỳ năm 2022 có 578 dự án và số vốn đăng ký đạt 4,12 tỷ USD, giảm 5,7% về số dự án và giảm 53,4% về vốn đăng ký).
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><b>(7) Lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2023 tăng</b>
0,01% so với tháng trước và tăng 2,43% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 5 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 3,55%.
<b>(8) Công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả. Tai nạn</b>
giao thông, giảm cả về số vụ và số người bị tai nạn. Chính phủ đã hỗ trợ hơn 18,2 nghìn tấn gạo cho gần 205 nghìn hộ với hơn 1,2 triệu nhân khẩu. Số vụ tai nạn giao thông trong 5 tháng đầu năm nay giảm 15,7% (số vụ tai nạn giao thơng từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 12,5%; số vụ va chạm giao thông giảm 23,1%); số người chết giảm 15,1%; số người bị thương giảm 1,8% và số người bị thương nhẹ giảm 19,2% so với cùng kỳ năm trước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>Câu 2. Anh/chị hãy cập nhật lại những thay đổi về chính sách kinh tế, pháp luật của ViệtNam có liên quan tới hoạt động quản trị kinh doanh tính đến hết tháng 5 năm 2023. Thayđổi về chính sách kinh tế:</b>
<b>Đổi mới kinh tế: Việt Nam đã triển khai chính sách đổi mới kinh tế nhằm thúc đẩy sự</b>
phát triển và thu hút đầu tư nước ngồi. Điều này bao gồm việc đẩy mạnh q trình cải cách thể chế, giảm quy định và rà soát các quy trình hành chính để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Nghị quyết đã đánh giá từ năm 2021 đến nay đã thực hiện cắt giảm, đơn giản hóa 1.758 quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh; phê duyệt phương án cải cách hơn 1.100 quy định và phương án phân cấp thẩm quyền giải quyết 699 TTHC; xác định 59 TTHC/nhóm TTHC nội bộ trong hệ thống hành chính nhà nước cần rà sốt, đơn giản hóa trong năm 2023. Việc đổi mới thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo hướng số hóa, khơng phụ thuộc vào địa giới hành chính được chú trọng, bước đầu có kết quả; cả nước đã thành lập 11.700 bộ phận một cửa các cấp để tiếp nhận, giải quyết TTHC, trong đó có 56 địa phương thành lập Trung tâm phục vụ hành chính cơng cấp tỉnh; 53/63 địa phương đã thực hiện hợp nhất Cổng Dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh thành Hệ thống thông tin giải quyết TTHC duy nhất; nhiều địa phương đã thực hiện nâng cấp hệ thống từng bước đáp ứng yêu cầu số hóa; hơn 3.800 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 và 21/25 dịch vụ công thiết yếu theo Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia (Đề án 06) đã được tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ cơng quốc gia.
Nhiều cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành và các hệ thống thông tin được đẩy mạnh triển khai và phát huy hiệu quả, đặc biệt là Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã số hóa, cập nhật thường xuyên từ cấp xã, bảo đảm tiêu chí “đúng, đủ, sạch, sống”, cấp hơn 68 triệu thẻ căn cước gắn chip điện tử cho công dân; nhiều bộ, ngành, địa phương đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng và hơn 14.2 triệu văn bản điện tử được gửi, nhận qua Trục liên thông văn bản quốc gia (trung bình 550.000 văn bản/tháng); gần 1.300 phiếu lấy ý kiến Thành viên Chính phủ thực hiện trên Hệ thống thơng tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ; 69/179 chế độ báo cáo được tích hợp, cung cấp trên Hệ thống thơng tin báo cáo Chính phủ, từng bước đưa Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ vào hoạt động; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giám sát, đánh giá được quan tâm triển khai, đưa vào vận hành Cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh và Bộ chỉ số phục vụ người dân, doanh nghiệp trong giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công. Những kết quả trên đã từng bước nâng
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, chỉ đạo, điều hành và tạo thuận lợi, giảm phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong các giao dịch hành chính.
Đẩy mạnh tái cấu trúc quy trình, giải quyết TTHC trên môi trường điện tử, cung cấp dịch vụ cơng trực tuyến... Đến nay, đã có 62/63 địa phương và 10/21 bộ, ngành thực hiện hợp nhất Cổng dịch vụ công và Hệ thống thông tin một cửa điện tử. Cung cấp hơn 4.400 dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia… Cổng Dịch vụ cơng quốc gia đã có hơn 6 triệu tài khoản đăng ký, tăng 3,8 lần so với cùng kỳ năm 2022; hơn 186 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái, tăng hơn 1,7 lần so với cùng kỳ năm 2022; hơn 12,5 triệu hồ sơ trực tuyến thực hiện từ Cổng, tăng hơn 3,8 lần so với cùng kỳ năm 2022; hơn 7,8 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến với số tiền hơn 4,8 nghìn tỷ đồng, tăng gần 10 lần so với cùng kỳ năm 2022.
Bên cạnh đó, Cổng Thơng tin một cửa quốc gia đã thực hiện 250/261 dịch vụ công trực tuyến của 13 bộ, ngành theo cơ chế một cửa với hơn 55 nghìn doanh nghiệp tham gia. Kết quả này có sự đóng góp, tổ chức triển khai tích cực, hiệu quả của nhiều bộ, ngành, địa phương.
Việc thí điểm 2 dịch vụ công liên thông "đăng ký khai sinh - đăng ký thường trú - cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi" và "đăng ký khai tử - xóa đăng ký thường trú - trợ cấp mai táng phí" được tích cực triển khai tại 2 địa phương (Hà Nội và Hà Nam). Văn phịng Chính phủ đã ban hành quy trình liên thơng điện tử đối với 2 nhóm dịch vụ cơng liên thơng để triển khai thống nhất trên tồn quốc.
<b>Khuyến khích đầu tư: Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích đầu</b>
tư nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Điều này bao gồm các ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính và các cơ chế đặc biệt cho các khu kinh tế, khu công nghệ cao và khu công nghiệp.
Hiện nay, các dự án đầu tư vào khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, được hưởng ưu đãi thuế cao hơn các khu, địa bàn khác. Những ưu đãi thuế này đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, miền, thu hút đầu tư, mở rộng sản xuất - kinh doanh…
<i><b>Các chính sách ưu đãi thuế: </b></i>
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) hiện hành áp dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu cơng nghiệp… và dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học - công nghệ, đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế.
Quy định của Luật Thuế TNDN hiện hành cho thấy thuế suất thuế TNDN phổ thông là 22% (áp dụng từ ngày 01/01/2014), giảm so với mức 25% trước đó. Riêng đối với các doanh
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">nghiệp có tổng doanh thu năm khơng q 20 tỷ đồng, thuế suất được áp dụng là 20% từ ngày 01/7/2013. Kể từ ngày 01/01/2016, mức thuế suất thuế TNDN phổ thông là 20%.
Các mức thuế suất ưu đãi khác và thời hạn áp dụng ưu đãi về thuế suất cũng được áp dụng cho từng đối tượng cụ thể: 10% cho thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường…; 15% cho thu nhập của doanh nghiệp trồng trọt, chăn nuôi, chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản không thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn; 17% cho thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới; 10% trong thời gian 15 năm đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao…; 20% trong thời gian 10 năm đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được miễn thuế tối đa không quá 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 09 năm tiếp theo. Thu nhập của doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mới tại khu công nghiệp (trừ khu công nghiệp thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi theo quy định của pháp luật) được miễn thuế tối đa không quá 02 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 04 năm tiếp theo. Theo Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN quy định doanh nghiệp đang hoạt động có dự án đầu tư mở rộng vào lĩnh vực và địa bàn được hưởng ưu đãi thuế nếu đáp ứng tiêu chí quy định của Luật. Doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho tổ chức, cá nhân ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được giảm 50% số thuế TNDN tính trên phần thu nhập từ chuyển giao cơng nghệ.
Chi phí đầu tư xây dựng, vận hành hoặc thuê nhà chung cư và các cơng trình kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ cho công nhân làm việc tại khu công nghiệp, khu kinh tế là chi phí hợp lý được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp có dự án đầu tư trong khu cơng nghiệp, khu kinh tế. Đối với giá trị tài sản cố định được tính vào giá trị cơng trình, trích khấu hao và chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN nếu đáp ứng điều kiện là tài sản cố định theo quy định của Bộ Tài chính và chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản. Các chi phí khác được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN theo quy định của pháp luật thuế TNDN hiện hành.
Thuế giá trị gia tăng: Chính sách thuế giá trị gia tăng (GTGT) được áp dụng đối với các loại hàng hóa, dịch vụ và được thống nhất từ khâu nhập khẩu, sản xuất, gia công đến thương mại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Phần lớn các ưu đãi được hưởng liên quan đến đối tượng không phải chịu thuế GTGT (sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế biến thành sản phẩm khác…).
Thuế xuất - nhập khẩu: Mức ưu đãi cao nhất về thuế xuất - nhập khẩu dành cho các khu chế xuất, hàng hóa tại khu chế xuất là đối tượng khơng chịu thuế xuất - nhập khẩu, gồm: Hàng hóa quá cảnh, chuyển khẩu, trung chuyển; Hàng hóa viện trợ nhân đạo, hàng hóa viện trợ khơng hồn lại; Hàng hóa xuất khẩu từ khu phi thuế quan ra nước ngồi; Hàng hóa nhập khẩu từ nước ngồi vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan; Hàng hóa chuyển từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác; Phần dầu khí được dùng để trả thuế tài nguyên cho Nhà nước khi xuất khẩu. Hầu hết các khu kinh tế đều được hưởng ưu đãi về miễn thuế nhập khẩu đối với các hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định trong khu kinh tế và các nguyên vật liệu trong nước chưa sản xuất được. Thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0% áp dụng đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện và bộ phận phụ trợ sản xuất, lắp ráp sản phẩm công nghệ thông tin trọng điểm do các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm công nghệ thông tin trọng điểm nhập khẩu.
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và đất nông nghiệp: Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (SDĐPNN) có quy định về miễn thuế đối với đất của dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; giảm 50% số thuế phải nộp đối với đất của dự án đầu tư thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư; dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Luật Đầu tư và Điều 6 Thơng tư số 83/2016/TT-BTC ngày 17/6/2016 quy định ưu đãi bổ sung về thuế SDĐPNN: Miễn thuế SDĐPNN đối với dự án đầu tư có quy mơ vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên; Giảm 50% số thuế SDĐPNN đối với dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên (không bao gồm lao động làm việc bán thời gian và có hợp đồng lao động dưới 12 tháng).
Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp được áp dụng đối với: Tồn bộ diện tích đất nơng nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất nông nghiệp..; Tồn bộ diện tích đất nơng nghiệp được Nhà nước giao cho các tổ chức đang trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp… Việc miễn thuế sử dụng đất nơng nghiệp góp phần khuyến khích đẩy mạnh đầu tư, phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tiền thuê đất, mặt nước, tiền sử dụng đất: Pháp luật hiện hành quy định miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước cho toàn bộ thời hạn thuê đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt ưu đãi
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">xã hội đặc biệt khó khăn; đất xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học của doanh nghiệp khoa học -công nghệ; đất xây dựng cơ sở đào tạo nhân lực -công nghệ cao, dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư trong khu công nghệ cao.
Sau khi được miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản, các dự án tiếp tục được miễn tiền thuê đất 11 năm đối với dự án đầu tư thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư, dự án thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; 15 năm đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và 19 năm đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư trong khu công nghệ cao.
Thuế tiêu thụ đặc biệt: Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành quy định đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là hàng hóa nhập khẩu từ nước ngồi vào khu phi thuế quan, hàng hóa từ nội địa bán vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan, hàng hóa được mua bán giữa các khu phi thuế quan với nhau, trừ xe ô tô chở người dưới 24 chỗ.
<i><b>Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài: </b></i>
<i>Ưu đãi về đất đai cho các nhà đầu tư nước ngồi </i>
Đây cũng có thể coi là một trong những khuyến khích đầu tư , bởi vì nó làm cho các nhà đầu tư nước ngồi tin tưởng cào khẳ năng ổn định của khoản đầu tư cũng như những quyền khác. Nói chung, đối với các nhà đầu tư thì thuận lợi nhất vẫn là đuợc sở hữu bất động sản. Nếu việc sở hữu bất động sản khơng được luật pháp cho phép thì các nhà đầu tư đòi hỏi phải được sử dụng bất động sản trong một thời gian hợp lý.
Trước ngày 30/6/2014, các ưu đãi về đất đai được chia theo 2 hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và thuê đất, áp dụng giảm số tiền phải nộp ở các mức 20%, 30%, 50% hoặc miễn giảm về thời hạn 7 năm, 11 năm, 15 năm. Từ đầu tháng 7/2014 đến nay, các ưu đãi về đất đai thực hiện theo Luật Đất đai năm 2013 và các nghị định quy định chi tiết về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Theo đó, Nhà nước đã thống nhất áp dụng hình thức cho thuê đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất - kinh doanh, có tính thời hạn và theo từng giai đoạn cụ thể. Đồng thời, để thu hút đầu tư, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đất đai tại các khu kinh tế, khu cơng nghệ cao, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2017/NĐ-CP ngày 3/4/2017 quy định thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trong khu kinh tế, khu công nghệ cao với mức ưu đãi cao hơn các dự án đầu tư thơng thường...
Ngồi ra, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, hỗ trợ về đất đai đối với DN như:
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">(i) Giảm 50% tiền thuê đất trong giai đoạn 2011-2014;
(ii) Điều chỉnh giảm tỷ lệ tính đơn giá thuê đất chung từ 1,5% (quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP) xuống còn 1% (quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP) và UBND cấp tỉnh quy định cụ thể tỷ lệ trong khung từ 0,5-3% theo từng khu vực, tuyến đường tương ứng với từng mục đích sử dụng đất để áp dụng thu tiền thuê đất tại địa phương;
(iii) Áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất trong việc xác định giá đất để tính thu tiền thuê đất.
<i>Miễn giảm thuế.</i>
Ưu đãi thuế là một bộ phận của chính sách FDI luôn đặt trong mối quan hệ với định hướng và tổng thể chính sách FDI. Do vậy, trong chính sách ưu đãi tài chính thường tập trung vào chính sách thuế như: Thuế TNDN, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân. Cụ thể:
– Miễn thuế vốn: Chính phủ không thu thuế trên các khoản chuyển nhượng hay phần kiếm được từ cổ phiếu.
– Miễn giảm thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Sau khi kinh doanh có lãi, trong một thời gian các nhà đầu tư được hưởng ưu đãi không phải nộp thuế. Sau một thời gian miễn thuế, các nước tiến hành giảm thuế.
Để phục vụ các chiến lược và định hướng chuyển đổi nền kinh tế, hệ thống chính sách về thuế tiếp tục được cải cách với thay đổi quan trọng nhất là giảm thuế suất thuế phổ thông. Cụ thể, mức thuế suất phổ thông qua các lần sửa Luật Thuế TNDN theo xu hướng giảm từ 28% trong giai đoạn 2001-2008 xuống còn 25% trong giai đoạn 2009-2013, 22% trong giai đoạn 2014-2015 và 20% từ ngày 01/01/2016..
Hiện nay, mức thuế suất ưu đãi cao nhất là 10% trong thời hạn 15 năm và miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với các dự án đầu tư mới trong một số lĩnh vực đặc thù, khuyến khích phát triển như cơng nghệ thông tin, phần mềm, năng lượng tái tạo, lĩnh vực bảo vệ môi trường...
– Miễn giảm các loại thuế thu nhập khác.
Chính phủ cho phép các nhà đầu tư khơng phải nộp các khoản thuế địa phương như thuế doanh thu, lợi tức.Ngành được miễn giảm có thể là ngành định hướng xuất khẩu, hay ngành thu về nhiều ngoại tệ cho đất nước
– Miễn giảm thuế hàng tư liệu sản xuất nhập khẩu (vốn).
Chính phủ khơng thu thuế nhập khẩu tư liệu sản xuất (bao gồm máy móc và các linh kiện, phụ tùng thay thế, nguyên nhiên vật liệu) phục vụ các ngành khuyến khích như ngành hướng vào
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">xuất khẩu, hay các ngành thực hiện chiến lược hố cơng nghiệp đất nước, các dự án khuyến khích đầu tư.
Nhằm đáp ứng các yêu cầu cam kết hội nhập, đồng thời hồn thiện các chính sách ưu đãi xuất khẩu và thu hút FDI, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tiếp tục được cập nhật, sửa đổi trong các năm 2001, 2005 và 2016. Từ năm 2016 đến nay, chính sách ưu đãi được áp dụng theo Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2016. Theo đó, Luật đã bổ sung DN cơng nghệ cao, DN khoa học - công nghệ, tổ chức khoa học - công nghệ được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất; bổ sung quy định miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, lắp ráp trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo.
Một số ưu đãi thuế xuất khẩu, nhập khẩu đang được áp dụng như: (i) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để gia cơng cho nước ngoài và khi xuất trả sản phẩm cho phía nước ngồi thì được miễn thuế xuất khẩu; (ii) Hàng hóa nhập khẩu để gia cơng được miễn thuế, hàng tạm nhập tái xuất và hàng hóa là nguyên liệu vật tư phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu có thể được kéo dài thời gian nộp thuế tới 275 ngày kể từ ngày mở tờ khai hải quan; hàng hóa tạm nhập tái xuất có thể được kéo dài thời gian nộp thuế tới 15 ngày kể từ ngày hết hạn; (iii) Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa để tạo tài sản cố định đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, lĩnh vực khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn...
– Miễn thuế bản quyền. Việc miễn thuế bản quyền nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngồi chuyển giao công nghệ vào nước sở tại. Tuy nhiên các Chính phủ cũng cân nhắc xem nên miễn thuế bản quyền trong suốt thời gian hợp đồng hay chỉ miễn thuế cho một số năm.
– Miễn các loại thuế và chi phí khác: Các loại thuế và chi phí khác đựơc miễn bao gồm nhiều dạng như thuế thu nhập cá nhân đối với chuyên gia kỹ thuật nước ngoài làm việc trong các khu vực được ưu tiên; các khoản thuế doanh thu hay các mức thuế đặc biệt khi mới khởi sự kinh doanh…Việc ký kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần cũng là một khuyến khích đối với các nhà đầu tư bởi vì nó miễn trừ việc nộp thuế thu nhập cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định nào đó.
Trong một số dự án khuyến khích đầu tư, các nhà đầu tư còn được hưởng ưu đãi về giá cho thuê đất và các chi phí khác trong q trình triển khai và vận hành dự án.
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><i>Những khoản trợ cấp của chính phủ</i>
– Các chi phí tổ chức và tiền vận hành. Chính phủ nước sở tại có thể cho phép tính này vào chi phí của dự án trong một thời gian nhất định.
– Tái đầu tư: Nếu dùng lợi nhuận để tái đầu tư thì sẽ được hưởng những ưu đãi nhất định. – Trợ cấp đầu tư: Là cho phép một tỷ nhất định của khoản vốn đầu tư không phải chịu những nghĩa vụ về đầu tư trong khoảng thời gian nhất định.
– Các khoản khấu trừ khác: Các khoản khấu trừ này có thể tồn tại dưới có những quy định đặc biệt đối với một số ngành như cho phép được miễn trừ gấp 2 lần về giá trị cũng như về mặt thời gian ban hành những quy định ưu đãi chỉ riêng cho một dự án nào đó.
– Tín dụng thuế đầu tư: Đây thực chất là biện pháp mà chính phủ sử dụng nhằm khuyến khích và cũng để giúp các nhà đầu tư tăng vốn đầu tư như trợ cấp đầu tư, trả lại những nghĩa vụ về thuế đã phải nộp cho nhà đầu tư nếu nhà đầu tư phải tái đầu tư
– Các khoản tín dụng thuế khác:
Để khuyến khích các nhà đầu tư, một khoản thu nhập có nguồn gốc từ nước ngồi mà đã chịu thuế ở nước ngồi có thể được đưa vào để xin miễn giảm ở trong nước có thể sử dụng như những khoản tín dụng đầu tư
<b>Thúc đẩy thương mại: Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do với các quốc</b>
gia và vùng lãnh thổ khác, bao gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Những hiệp định này nhằm thúc đẩy xuất khẩu và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Việt Nam ngày càng có nhiều lợi thế từ hội nhập. Nhận thấy rõ nhất là thông qua việc đàm phán, ký kết và thực thi có hiệu quả các FTA, Việt Nam đã cải thiện đáng kể việc tiếp cận thị trường xuất khẩu, tạo thêm việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững hơn. inh chứng rõ nét trong 2 năm gần đây (2020 - 2021), mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề, chưa từng có của đại dịch Covid-19, song kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn duy trì ở mức tăng trưởng cao, năm 2020 đạt trên 545 tỷ USD, năm 2021 vượt mốc 660 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. 4 tháng năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam cũng đạt hơn 240 tỷ USD, trong đó xuất siêu 2,53 tỷ USD.
Đáng chú ý, các FTA như Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA đang được thực thi một cách toàn diện và hiệu quả. Theo Bộ Công Thương, thương mại hai chiều Việt Nam - EU năm
</div>