Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.32 KB, 10 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>---</small>
<b>1, Khái niệm, đặc điểm của CNSTTcủa ĐS trong TTDS...12, Vai trò CNSTT của ĐS trong TTDS...1</b>
<b>CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CNSTT CỦA ĐS TRONG VADS Ở GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM...1</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>1, Nguyên tắc CNSTT của ĐS trong VADS ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm...1</b>
<b>2, Quy định về phạm vi các vụ án mà Toà án CNSTT của ĐS trong TTDS...2</b>
<b>3, Thẩm quyền CNSTT của các ĐS trong VADS thuộc về Tịa án...2</b>
<b>4, Quy định về trình tự, thủ tục CNSTT của ĐS trong TTDS...2</b>
<b>5, Hình thức CNSTT của các ĐS...2</b>
<b>6, Quy định về hiệu lực của việc CNSTT của các ĐS...3</b>
<b>CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ VỀ CNSTT CỦA </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">PTST Phiên tòa sơ thẩm PTPT Phiên tòa phúc thẩm
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>A, MỞ ĐẦU</b>
<b> CNSTT của ĐS ở giai đoạn sơ thẩm và giai đoạn phúc thẩm là một trong những thủ tục được</b>
pháp luật TTDS ghi nhận. Hịa giải thơng qua việc ĐS TT với nhau để bảo vệ được tối đa quyền lợi của ĐS là thể chế quan trọng để thuận lợi cho quá trình xét xử và thi hành án.
<b>B, NỘI DUNG</b>
<b>CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CNSTT CỦA CÁC ĐS TRONG TTDS1, Khái niệm, đặc điểm của CNSTT của ĐS trong TTDS</b>
CNSTT của ĐS là hoạt động của Tòa án trong việc tiến hành xem xét, thừa nhận sự TT (sự nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn bạc) của các ĐS liên quan tới việc giải quyết VADS trên cơ sở các quy định của pháp luật.
<i><b> CNSTT của ĐS trong TTDS có đặc điểm sau: Thứ nhất, TT của ĐS là một quyền tự địnhđoạt, sự định đoạt này nằm trong một giới hạn nhất định của pháp luật. Thứ hai, Tòa án – Chủthể được Nhà nước trao quyền để thực hiện việc CNSTT của ĐS. Thứ ba, CNSTT của ĐS phải</b></i>
xuất phát từ ý chí tự nguyện, nội dung TT không vi phạm điều cấm của pháp luật và khơng trái
<i><b>đạo đức xã hội. Thứ tư, có thể được tiền hành vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình giảiquyết VADS. Thứ năm, hình thức CNSTT của ĐS là bằng một quyết định hoặc một bản án.</b></i>
<i><b>Thứ sáu, trình tự, thủ tục CNSTT của ĐS được tiến hành theo quy định của pháp luật TTDS.Thứ bảy, quyết định CNSTT của ĐS có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành.</b></i>
<b>2, Vai trò CNSTT của ĐS trong TTDS </b>
<i><b> Thứ nhất, đảm bảo tính bền vững của các mối quan hệ dân sự trong xã hội, hạn chế sự đốiđầu căng thẳng và giúp các bên thông cảm, hiểu nhau, duy trì mối quan hệ bình thường. Thứ</b></i>
<i><b>hai, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các ĐS có liên quan và cơng dân khác. Thứ ba,</b></i>
giúp Tịa án giải quyết nhanh chóng VADS, tiết kiệm chi phí cho các bên.
<b>CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CNSTT CỦA ĐS TRONG VADS Ở GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM</b>
<b>1, Nguyên tắc CNSTT của ĐS trong VADS ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm</b>
Theo khoản 2 Điều 5 BLTTDS 2015 thì các ĐS có quyền thỏa thuận với nhau một các tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong tất cả các VADS. Chiếu theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 205 BLTTDS 2015, theo đó trong thời hạn CBXXST vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các ĐS TT với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ một số trường hợp khác do luật định. Việc hịa
<i><b>giải phải đảm bảo theo ngun tắc tơn trọng sự tự nguyện TT của các ĐS, không được dùng vũ</b></i>
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải TT không phù hợp với ý chí của mình.
<i><b>Nội dung TT giữa các ĐS khơng vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Xét</b></i>
về mặt nội dung, TT của các ĐS trong trường trường hợp này cũng mang vai trò như một giao dịch dân sự. ĐS là các chủ thể chính trong quan hệ pháp luật này, do đó chỉ ĐS mới có quyền tự thực hiện thơng qua hành vi tố tụng của mình để thương lượng, TT với nhau hoặc thông qua sự hỗ trợ của bên thứ ba (bao gồm cả Tòa án) để thống nhất giải quyết vụ án.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>2, Quy định về phạm vi các vụ án mà Toà án CNSTT của ĐS trong TTDS</b>
Căn cứ theo quy định hiện hành, trong thời hạn CBXXST thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các ĐS TT với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ một số trường hợp:
<i><b> Thứ nhất, những VADS khơng được hịa giải: (1)u cầu địi bồi thường vì lý do gây thiệt</b></i>
hại đến tài sản của Nhà nước. Quy định này nhằm bảo vệ tài sản chung của Nhà nước, để khách quan vấn đề này cần được giải quyết thông qua một bản án dân sự; (2) Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội. Các giao dịch dân sự này sẽ bị vô hiệu và cũng sẽ không được thực hiện hịa giải. Quy định này hồn tồn phù hợp với nguyên tắc hòa giải ở Điều 205 BLTTDS 2015.
<i><b> Thứ hai, những VADS mà Tồ án khơng tiến hành hồ giải được là những trường hợp được</b></i>
quy định tại Điều 207 BLTTDS 2015. Sở dĩ những trường hợp này Tồ án khơng CNSTT được vì hồ giải là sự TT của chính các ĐS cho nên khi tiến hành hoà giải nếu vắng mặt một bên ĐS hoặc một bên ĐS mất năng lực hành vi dân sự mà quan hệ tranh chấp là quan hệ gắn liền với nhân thân của ĐS đó thì sẽ khơng thể hồ giải được và cũng không thể CNSTT của ĐS.
So với Điều 182 BLTTDS 2004, BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm trường hợp tại khoản 4 Điều 207. Việc mở rộng thêm trường hợp này là hợp lý bởi nó tiết kiệm chi phí, thời gian của nhiều bên nếu như triệu tập đến lần thứ hai. Tuy nhiên, nếu ĐS trong trường hợp này đổi ý muốn hồ giải sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tồ án vẫn có thể xem xét CNSTT ở thủ tục bắt đầu phiên tồ bởi vì CNSTT có thể tiến hành vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình giải quyết vụ án.
<b>3, Thẩm quyền CNSTT của các ĐS trong VADS thuộc về Tòa án</b>
<i> Theo khoản 1 Điều 112 BLTTDS 2015 thì: “Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản</i>
<i>hòa giải thành mà khơng có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phánchủ trì phiên hịa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyếtđịnh công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”. Đồng thời Điều 102 Hiến pháp năm 2013</i>
<i>quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam</i>
<i>thực hiện quyền tư pháp”. Chiếu theo các quy định trên có thể thấy Tịa án là cơ quan xét xử</i>
các VADS. Do đó, nếu các ĐS đồng ý TT với nhau thơng qua hình thức hịa giải, có biên bản hòa giải và sau thời gian 7 ngày các bên khơng có ý kiến phát sinh, thay đổi, thì Tịa án sẽ ra quyết định CNSTT của các bên.
<b>4, Quy định về trình tự, thủ tục CNSTT của ĐS trong TTDS</b>
Việc CNSTT của ĐS cũng như các thủ tục tố tụng khác đều được Tòa án tiến hành trên cơ sở các quy định pháp luật, thơng qua việc kiểm sốt quy trình giải quyết của Tòa án bằng cơ chế giám sát các thủ tục TTDS sẽ đảm bảo tính khách quan, cơng bằng trong hoạt động tố tụng của Tịa án, sự bình đẳng giữa các ĐS. Thủ tục tiến hành hoà giải và CNSTT của ĐS tại toà án cấp sơ thẩm được quy định từ Điều 208 đến 212, cịn cấp phúc thẩm tại Điều 300 BLTTDS 2015.
<b>5, Hình thức CNSTT của các ĐS</b>
Ở giai đoạn CBXXST (khi chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử) thì Thẩm phán được phân công giải quyết sẽ CNSTT bằng một quyết định theo quy định tại khoản 1 Điều 212
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">BLTTDS 2015.
Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX ra quyết định CNSTT của các ĐS về việc giải quyết vụ án nếu các ĐS TT được với nhau (Điều 246 BLTTDS 2015).
Tại Tòa án cấp phúc thẩm, nếu các ĐS TT được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì HĐXX phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, CNSTT của các ĐS (Điều 300 BLTTDS 2015).
<b>6, Quy định về hiệu lực của việc CNSTT của các ĐS</b>
Theo khoản 1 và 2 Điều 213 BLTTDS 2015 tất cả các quyết định CNSTT của các ĐS có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định CNSTT của các ĐS chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự TT đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. Quy định này thể hiện sự tôn trọng sự tự nguyện TT giữa các bên thông qua buổi hòa giải, phù hợp với nguyên tắc chung về dân sự.
<b> ĐÁNH GIÁ CHUNG: So với BLTTDS 2004, BLTTDS 2015 về vấn đề hoà giải và CNSTT</b>
của ĐS đầy đủ và đảm bảo quyền lợi hơn quyền lợi của các ĐS. Bên cạnh những điểm kế thừa, BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm một trường hợp Toà án khơng cần tiến hành hồ giải trong thời hạn CBXXST là trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn với mục đích nhanh chóng giải quyết các VADS khi có đủ điều kiện với tiến trình đơn giản. Ngoài ra, luật mới bổ sung thêm trường hợp tại khoản 4 Điều 207 là hợp lý, tránh việc kéo dài thời gian CBXXST. Tương tự như phiên tòa sơ thẩm (PTST), tại phiên tòa phúc thẩm (PTPT) các ĐS vẫn không mất quyền tự TT với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, do tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tịa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Với tính chất đó, việc hịa giải
<i><b>tại phiên tịa phúc thẩm có một số điểm khác biệt cần lưu ý sau: Thứ nhất, ở PTST, Tòa án chỉ</b></i>
ban hành quyết định CNSTT khi các ĐS TT được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án (kể cả phần án phí); trường hợp các ĐS đã TT được với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng không TT được với nhau về nghĩa vụ chịu án phí thì Tịa án không được ban hành quyết định CNSTT mà tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung. Tại PTPT, chỉ cần các ĐS TT được với nhau về việc giải quyết vụ án (không thỏa thuận được nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm) và thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì HĐXX phúc CNSTT của các
<i><b>ĐS và HĐXX sẽ tự mình xác định nghĩa vụ chịu án phí dựa trên nội dung TT của các ĐS. Thứ</b></i>
<i><b>hai, tại PTPT do vụ án đang tồn tại một bản án dân sự sơ thẩm nên HĐXX phúc thẩm không thể</b></i>
ban hành quyết định CNSTT của các ĐS được; bởi khi ban hành quyết định CNSTT không làm mất hiệu lực của bản án sơ thẩm nên sẽ tồn tại song song 01 bản án sơ thẩm và 01 quyết định về việc giải quyết cùng một vụ án. Do đó, khi các ĐS TT được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm thì HĐXX sẽ ban hành Bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, có nội
<i><b>dung trong phần quyết định là CNSTT của các ĐS. Thứ ba, việc hoà giải của các ĐS ở giai</b></i>
đoạn sơ thẩm, Toà án tham gia với vai trò giúp đỡ còn ở giai đoạn phúc thẩm Tồ án khơng giúp đỡ các ĐS TT mà chỉ kiểm tra xem các ĐS có tự TT được với nhau hay không. Nếu các ĐS tự thoả thuận được và sự thoả thuận ấy hợp pháp thì HĐXX sẽ CNSTT đó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ VỀ CNSTT CỦA ĐS</b>
<b> Thực tiễn: Thông qua các báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm của Tòa án Nhân dân</b>
tối cao, số lượng các VADS được giải quyết bằng phương thức CNSTT của các ĐS chiếm tỉ lệ
<b>tương đối cao. Qua số liệu ở bảng 1 (xem phần phụ lục) nhìn chung số vụ án được CNSTT tăng</b>
từ 99.713 vụ án đến 163.881 vụ án, trung bình mỗi năm tăng khoảng 12.833 vụ án. Tỷ lệ vụ án được giải quyết bằng phương thức CNSTT của các ĐS có năm chiếm 54% tổng số vụ án được giải quyết, tỷ lệ thấp nhất cũng chiếm 50% tổng số vụ án được giải quyết. Kết quả này cho thấy cơng tác hịa giải, CNSTT của các ĐS trong giải quyết tranh chấp dân sự góp phần khơng nhỏ trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa các ĐS, duy trì mối quan hệ hài hịa, tiết kiệm chi phí, thời gian cho tất cả các bên, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
<i><b> Một số hạn chế còn tồn tại như: Thứ nhất, hạn chế trong quy định về những vụ án khơng</b></i>
tiến hành hồ giải được tại Điều 207 BLTTDS 2015 như chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế
<i>nào là “lý do chính đáng” tại khoản 2 nên khi giải quyết vẫn cịn gặp khó khăn. Tại khoản 4</i>
Điều 207, thực tế cho thấy một số ĐS ở xa Toà án, đi lại tốn kém, mất thời gian nên đã đề nghị
<i><b>khơng tiến hành hồ giải, làm cho mâu thuẫn giữa các ĐS không được hóa giải. Thứ hai, các</b></i>
ĐS lạm dụng sự vắng mặt để trì hỗn việc giải quyết vụ án làm cho vụ án kéo dài, không TT
<i><b>được. Thứ ba, pháp luật thiếu quy định về cách giải quyết trong trường hợp các ĐS đã TT giảiquyết một phần nội dung vụ án. Thứ tư, kỹ năng của một số Thẩm phán cịn hạn chế; việc xác</b></i>
định nội dung hồ giải, phương án để các bên TT với nhau về phương án giải quyết tranh chấp gặp khó khăn; một số Tồ án còn nhầm lẫn trong việc ban hành Bản án hay Quyết định để CNSTT của các ĐS tại phiên tòa sơ thẩm; người tham gia tố tụng còn thiếu hợp tác.
<i><b> Từ những hạn chế trên, em xin đề xuất kiến nghị sau: Thứ nhất, tại Điều 207 BLTTDS</b></i>
<i>2015 cần có quy định rõ hơn về thế nào là “lý do chính đáng” tại khoản 2 và khoản 4 cần sửalà: “Một trong các bên ĐS đề nghị khơng tiến hành hồ giải sau khi được Toà án triệu tập đến</i>
<i>để hoà giải, giải quyết vụ án” để đảm bảo việc khơng muốn hồ giải xuất phát từ ý chí, suy</i>
<i><b>nghĩ chủ quan chứ khơng vì trở ngại khách quan do ĐS ở xa, đi lại tốn kém. Thứ hai, cần quy</b></i>
định rõ cách giải quyết đối với trường hợp các ĐS đã thoả thuận giải quyết được một phần nội dung vụ án, ĐS không được kháng cáo phần đã thoả thuận được với nhau và ghi nhận trong bản
<i><b>án nhằm tránh trường hợp ĐS kéo dài thời gian tố tụng. Thứ ba, Tồ án cần phối hợp với chính</b></i>
quyền địa phương để nắm rõ nguyện vọng ĐS; nâng cao năng lực, trình độ Thẩm phán đặc biệt
<i><b>trong công tác CNSTT của ĐS; tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật của nhân dân. Thứ tư,</b></i>
để cho sự TT giữa các bên ít có sự thay đổi và có giá trị pháp lý cao hơn thì Biên bản hịa giải nên được hiểu như đối với một hợp đồng dân sự, ở đó các bên sẽ thỏa thuận và đưa ra cam kết
<i><b>buộc các bên phải tuân theo. Thứ năm, cân nhắc việc quy định TT của các ĐS có hiệu lực pháp</b></i>
<i>luật ngay tại thời điểm các ĐS đạt TT và ký kết theo hướng: “Thẩm phán lập biên bản hòa giải</i>
<i>thành và đồng thời ra quyết định CNSTT của ĐS,quyết định này có hiệu lực ngay” nhằm giảm</i>
bớt thủ tục hành chính và nâng cao vai trị của hịa giải trong việc giải quyết VADS.
<b>C, KẾT LUẬN</b>
CNSTT của ĐS là một hoạt động quan trọng góp phần nâng cao chất lượng xét cử, duy trì mối quan hệ hài hồ giữa các ĐS, giảm chi phí, thời gian cho các bên trong quá trình xét xử.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Việc duy trì và hồn thiện vấn đề về CNSTT của các ĐS tại phiên toà sơ thẩm và phiên tồ phúc thẩm ngày càng có ý nghĩa sâu sắc trong xã hội.
<b>PHỤ LỤC</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>
<i>1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, nxb Công an nhân </i>
dân, 2019
2, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 3, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
4, Hiến pháp năm 2013 của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
<i>5, Hà Huy Hồng, “Cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự và thực tiễn thực hiện tại các </i>
<i>Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn thạc sĩ luật học, người hướng dẫn khoa học: </i>
PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà, Hà Nội 2020
<i>6, Nguyễn Thị Thủy Linh, “Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong Tố tụng dân sự và </i>
<i>thực tiễn các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn thạc sĩ luật học, người hướng dẫn </i>
khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Thái, Hà Nội 2018
<i>7, Đặng Quang Huy, “Những điểm mới về Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về hòa giải vụ án </i>
</div>