Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 19 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Nhiễm HIV và điều trị ARV trong thời gian dài đã được xác định là có liên quan đến tần suất tăng các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch.
Người nhiễm HIV có cao huyết áp có nguy cơ biến chứng tim mạch cao hơn người bình thường từ 2-5 lần.
Sàng lọc tăng huyết áp và các bệnh mãn tính cần được thực hiện thường quy tại các phòng khám ngoại trú HIV nhằm phát hiện và chuyển gửi sớm.
Tăng huyết áp ở bệnh nhân HIV/AIDS một phần có liên quan đến các yếu tố không thay đổi, chẳng hạn như tuổi tác và giới tính. Cần nỗ lực hướng tới việc kiểm soát các yếu tố có thể đảo ngược, đặc biệt là tăng cân quá mức và chế độ ăn uống không phù hợp.
<b>Thay đổi lối sống: </b>
+ Ăn uống lành mạnh: Ăn nhiều trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt. Hạn chế ăn muối, chất béo bão hịa và cholesterol.
+ Duy trì cân nặng hợp lý
+ Tập thể dục thường xuyên: ít nhất 30 phút mỗi ngày + Bỏ thuốc lá, hạn chế rượu bia
+ Quản lý căng thẳng: tập yoga hoặc thiền.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b> Khám sức khỏe định kỳ: </b>
+ Khám sức khỏe định kỳ: Khám sức khỏe định kỳ giúp phát hiện sớm cao huyết áp và các yếu tố nguy cơ khác.
+ Theo dõi huyết áp.
+ Cần phối hợp các biện pháp thay đổi lối sống và sử dụng thuốc để đạt hiệu quả dự phòng cao nhất.
+ Cần theo dõi huyết áp thường xuyên để điều chỉnh phác đồ điều trị khi cần thiết.
+ Cần tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ khi sử dụng thuốc.
+ Phối hợp giữa các chun khoa nhằm thiết kế mơ hình chăm sóc tích hợp hiệu quả.
Phân bố tỷ lệ mắc THA và LAO
<small>Data sourced from the World Health Organization 2015</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Một nghiên cứu đoàn hệ cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp cao hơn đáng kể ở bệnh nhân lao so với đối chứng. Các nghiên cứu cắt ngang báo cáo tỷ lệ tăng huyết áp ở bệnh nhân lao từ 0,7% đến 38,3%. Khơng có nghiên cứu nào được thiết kế để đánh giá liệu tăng huyết áp có phải là yếu tố rủi ro để phát triển bệnh lao hoạt động hay không.
Bệnh nhân mắc bệnh lao có tỷ lệ tăng huyết áp cao hơn so với nhóm chứng khơng mắc bệnh lao
Nhiều nghiên cứu đoàn hệ đã cho thấy nguy cơ mắc bệnh tim mạch và mạch máu não tăng lên sau bệnh lao
Tăng huyết áp có liên quan đến việc tăng tỷ lệ tử vong do nguyên nhân nhiễm trùng và mọi nguyên nhân khác trong 9 tháng đầu sau khi bắt đầu điều trị bệnh lao mà khơng có thay đổi đáng kể nào về kết quả vi sinh.
Tăng huyết áp và ung thư là hai trong số những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu, một số nghiên cứu chỉ ra sự tồn tại chung của hai tình trạng này.
Cụ thể là tăng huyết áp độc lập có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư. Điều này được thể hiện rõ ràng nhất qua việc tăng nguy cơ ung thư biểu mô tế bào thận ở bệnh nhân tăng huyết áp.
Ngoài ra, nhiều loại thuốc chống ung thư gây tăng huyết áp thông qua nhiều cơ chế. Về lâu dài, tỷ lệ tăng huyết áp ở những người sống sót sau ung thư cao hơn so với dân số nói chung.
<small>Bảng 1: Tỷ lệ tăng huyết áp của các loại thuốc chống ung thư khác nhau gây ra</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><b>Thuốc hạ áp:</b>
Ở những bệnh nhân được điều trị chống ung thư bằng các thuốc làm tăng huyết áp cần tăng dần liệu pháp hạ huyết áp khi bắt đầu, việc giảm liệu pháp hạ huyết áp có thể cần phải xảy ra trong vòng vài ngày sau khi ngừng điều trị và có thể cần phải theo dõi huyết áp tại nhà hàng ngày.
Liệu pháp đầu tiên nên bao gồm thuốc ức chế thụ thể angiotensin hoặc thuốc ức chế men chuyển angiotensin, thuốc chẹn kênh canxi dihydropyridine hoặc thuốc lợi tiểu thiazide hoặc giống thiazide.
<small>Quản lý tăng huyết áp trongliệu pháp chống ung thư</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><b>Thuốc hạ áp:</b>
Bệnh nhân có protein niệu nên được điều trị bằng thuốc ức chế thụ thể angiotensin hoặc thuốc ức chế men chuyển angiotensin.
Thuốc chẹn kênh Canxi nhóm nonDHP (ví dụ: diltiazem, verapamil) nên được sử dụng thận trọng vì dễ bị tương tác với một số liệu pháp chống ung thư được chuyển hóa bởi P-glycoprotein và cytochrome P450.
<small>Quản lý tăng huyết áp trongliệu pháp chống ung thư</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><b> Sửa đổi lối sống:</b>
<b> Bệnh nhân nên được tư vấn về những thay đổi quan trọng trong lối</b>
sống có thể giúp cải thiện kiểm soát huyết áp, bao gồm hạn chế ăn natri (có cân nhắc nguy cơ giảm thể tích máu), sử dụng thuốc chống viêm không steroid, sử dụng caffeine và sử dụng rượu cũng như tăng cường hoạt động thể chất và lượng kali.
<small>Quản lý tăng huyết áp trongliệu pháp chống ung thư</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small> Alvaro Alonso A. Elise Barnes, Jodie L. Guest, Amit Shah, Iris Yuefan Shao and Vincent MarconiOriginally published2 Jul 2019, Journal of the AmericanHeart Association. 2019;8:e01224</small>
<small> Đỗ , D. C., & Đoàn , T. T. . (2023). THỰC TRẠNG TĂNG HUYẾT ÁP TRÊN BỆNH NHÂN HIV ĐIỀUTRỊ ARV TẠI TRUNG TÂM BỆNH NHIỆT ĐỚI, BỆNH VIỆN BẠCH MAI. Tạp Chí Y học Việt Nam,</small>
<small>National Institutes of Health.(2019 Jun 12). Association between blood pressure and risk ofcancer development: a systematic review and meta-analysis of observational studies.</small>