Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.36 KB, 44 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Bắc Giang là tỉnh trung du miền núi thuộc vùng văn hố Kinh Bắc xưa, được ví như phên dậu phía Bắc của quốc gia Đại Việt, mảnh đất này khơng chỉ có bề dày về lịch sử văn hóa với những di tích nổi tiếng như chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bồ Đà mà cịn có truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất chống lại các cuộc xâm lăng của quân thù bảo vệ đất nước. Mỗi vùng đất con người Bắc Giang đều khắc ghi dấu ấn lịch sử của cha ơng trong q trình đấu tranh xây dựng, bảo vệ đất nước. Một trong những địa danh ghi dấu ấn sâu đậm là chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh của dân tộc Việt Nam.
<b>2.Mục đích ngiên cứu</b>
Trận Xương Giang là một trận đánh nằm trong kế hoạch “vây thành diệt viện” của nghĩa quân Lam Sơn trong chiến dịch Bắc tiến nhằm đánh đuổi hoàn toàn giặc Minh xâm lược giành lại toàn bộ chủ quyền giang sơn Đại Việt. Chiến thắng này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cùng với các trận Chi Lăng, Cần Trạm, Hố Cát nghĩa quân đã tiêu diệt toàn bộ đạo quân chi viện cho thành Đông Quan do Liễu Thăng Cầm đầu, giết và bắt sống toàn bộ tướng chỉ huy địch. Chiến thắng Xương Giang là chiến thắng cuối cùng quyết định thắng lợi của khởi nghĩa Lam sơn kết thúc 20 năm nước ta chịu sự cai trị của nhà Minh. Từ những ý nghĩa trên việc nghiên cứu , bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử của di tích chiến thắng thành cổ Xương Giang khơng chỉ góp phần giới thiệu, quảng bá đến cơng chúng về một di tích tiêu biểu góp phần phát triển kinh tế du lịch của địa phương mà trên hết là giáo dục thế hệ trẻ hiểu về một di tích hào hùng gắn với chiến thắng vang dội của cha ông trong cuộc đấu tranh giành lại non sông đất nước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Qua đó khơi dậy niềm tự hào dân tộc ý thức về tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân trong công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước cũng như ý thức trong việc giữ gìn và bảo vệ phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc. Đây chính là sự tri ân ro lớn đối với công lao của cha ông đã xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, Bản sắc văn hóa của dân tộc Việt .
<b>3. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu </b>
Đối tượng nghiên cứu: Ý nghĩa lịch sừ hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị.
Phạm vi nghiên cứu : Quần thể di tích thành cổ Xương Giang
<b>4. Phương pháp nghiên cứu </b>
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã dựa vào những phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp thu thập tài liệu. Phương pháp tổng hợp phân tích. Phương pháp quan sát thực địa.
<b>5. Bố cục đề tài </b>
Chương 1 : Những cơ sở khoa học về quản lý di tích và khái quát về di tích địa điểm chiếm thắng Xương Giang.
Chương 2 : Giá trị lịch sử, văn hóa , khoa học của di tích địa điểm chiến thắng Xương Giang.
Chương 3 : Thực trạng phương pháp quản lý hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử địa điểm chiến thắng Xương Giang.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>1. Một số khái niệm cơ bản 1.1 Văn hóa </b>
Theo Wikipedia, Văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thơng qua q trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng việt,văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức,lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng,thì văn hóa bao gồm tất cả,từ những sản phẩm tinh vi,hiện đại,cho đến tín ngưỡng,phong tục,lối sống...
<i>Trong “Trung Quốc văn hóa sử”:“Văn” là những cái tốt đẹp của cuộc </i>
sống đã được đúc kết lại. “Hóa” là đem cái đã được đúc kết ấy hóa thân trở lại, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Năm 1871, Edward Burnett Tylor, Primitive Culture (Văn hóa nguyên thủy), London, 1871, Vol 1. p.1: Văn hóa là tổng thể phức tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và cả những khả năng và thói quen khác mà con người đạt được với tư cách là một thành viên xã hội”
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO (Thơng tin UNESCO, 1, 1988): “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại… hình thành một hệ thống giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – văn hóa giúp xác định tính riêng của từng dân tộc”
<i>Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con </i>
người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên
<b>1.2 Di sản văn hóa </b>
Theo Wikipedia, Di sản văn hóa được hiểu là di sản của các hiện vật vật lý và các thuộc tính phi vật thể của một nhóm hay xã hội được kế thừa từ các thế hệ trước, đã duy trì đến hiện nay và dành cho các thế hệ mai sau. Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa (như các tịa nhà, cảnh quan, di tích, sách, tác phẩm nghệ thuật, và các hiện vật), văn hóa phi vật thể (như văn hóa dân gian, truyền thống, ngôn ngữ và kiến thức) và di sản tự nhiên (bao gồm cảnh quan có tính văn hóa quan trọng và đa dạng sinh học.
Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, khái niệm Di sản văn hóa Việt Nam được hiểu là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản săc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới. Để tăng cương hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Di sản văn hoá quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hố, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
<b>1.3 Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh </b>
Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001, Di tích lịch sử - văn hố là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
<b>1.4 Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa </b>
Trong vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay, Bảo tồn được hiểu là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó. Bảo tồn là giữ lại, khơng để mất đi, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến thái.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ln gắn kết chặt chẽ biện chứng. Đó là hai lĩnh vực thống nhất, tương hỗ, chi phối ảnh hưởng qua lại trong hoạt động giữ gìn tài sản văn hóa. Bảo tồn di sản văn hóa thành cơng thì mới phát huy được các giá trị văn hóa. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di sản văn hóa tốt nhất (lưu giữ giá trị di sản trong ý thức cộng đồng xã hội).
Đối tượng bảo tồn (tức là các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể)
<i>cần thỏa mãn hai điều kiện: Một là, nó phải được coi là tinh hoa, là một giá </i>
trị đích thực được thừa nhận minh bạch, khơng có gì phải hồ nghi hay bàn
<i>cãi. Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu </i>
dài với thời gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức là có giá trị lâu dài) trước những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và q trình tồn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sôi động.
<b>2. khái quát về di tích địa điểm chiến thắng Xương Giang</b>
<b>2.1 Tên gọi di tích</b>
Tên gọi di tích được thống nhất trong Hồ sơ khoa học: Địa điểm Chiến thắng Xương Giang.
Tên gọi khác: Khơng.
<b>2.2 Địa điểm và đường đi đến di tích2.2.1 Địa điểm</b>
Địa điểm Chiến thắng Xương Giang xưa thuộc bộ Vũ Ninh. Đến thời Lý, Trần, Địa điểm Chiến thắng Xương Giang thuộc phủ Lạng Giang (Phủ Lạng Giang từ thời Trần về trước là đất lộ Bắc Giang<small>1</small>). Trong lịch sử đã từng ghi nhận Bắc Giang thời Lý là trung tâm của đất Châu Lạng-mảnh đất có vai trị quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ kinh thành Thăng Long và quốc gia Đại Việt nên được nhà Lý đặc biệt coi trọng<small>2</small>.
Sang thời kỳ nhà Minh thống trị nước ta, năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407) chia phủ Lạng Giang gồm 2 châu: Lạng Giang và Thượng Hồng, cai quản 10 huyện. Sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh đã chọn phủ Lạng Giang là trị sở và xây dựng hệ thống thành lũy trong đó có thành Xương Giang. Lúc này, thành Xương Giang thuộc xã Đơng Nham (hay cịn gọi là làng Thành), huyện Bảo Lộc, tổng Thọ Xương, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc.
Đến thời Lê và thời Nguyễn, Địa điểm Chiến thắng Xương Giang thuộc tổng Thọ Xương, phủ Lạng Giang.
Sau năm 1945, Địa điểm Chiến thắng Xương Giang thuộc xã Thọ Xương, thị xã Bắc Giang. Năm 1999, thuộc xã Xương Giang, thị xã Bắc Giang. Từ năm 2014 đến nay, Địa điểm Chiến thắng Xương Giang thuộc phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
<small>1 Đại Nam nhất thống chí, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1971, tr 60.</small>
<small>2 Hội thảo khoa học " Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa chiến thắng Xương Giang năm 1427" do Sở VHTTDL- Viện Sử học- UBND thành phố Bắc Giang tổ chức - năm 2009, tr 169.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>2.2 .2 Đường đi đến di tích</b>
Từ trung tâm thành phố Bắc Giang đi theo hướng đường Hùng Vương - Xương Giang (quốc lộ 1A cũ) chừng 1km về phía Đơng Bắc là tới di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang.
Từ thủ đô Hà Nội, đi theo hướng đường quốc lộ 1A cũ khoảng 55km, đến thành phố Bắc Giang, qua cầu Sông Thương đi thẳng theo đường Xương Giang khoảng 2km là tới di tích.
Từ thủ đơ Hà Nội, đi theo hướng đường quốc lộ 1A mới (cao tốc) khoảng 55km qua cầu Xương Giang, rẽ trái vào trung tâm thành phố Bắc Giang đi thẳng đường Hùng Vương, rẽ phải đi theo đường Xương Giang khoảng 1km là tới di tích Địa điểm Chiến thắng Xương Giang.
<b>2.3 phân loại di tích</b>
Căn cứ kết quả khảo sát, nghiên cứu về di tích; Căn cứ Điểm a, Khoản 3, Điều 29 của Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; căn cứ Điều 11 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa năm 2009, di tích Địa điểm chiến thắng Xương Giang tại thành
<b>Xương Giang thuộc loại hình Di tích lịch sử.</b>
<b>2.4 Đặc điểm di tích Địa điểm Chiến thắng XươngGiang</b>
Đầu thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta. Suốt 20 năm đô hộ đầy sự hà khắc khiến đời sống nhân dân ta vô cùng khổ cực. Thời kỳ này chúng đã áp dụng chính sách chia làng, xã, lập thành Lí, Giáp, cùng hệ thống bộ máy như cơ cấu hành chính của nơng thơn Trung Quốc. Đặc biệt, nhà Minh rất quan tâm việc thiết lập các sở, vệ, xây dựng hệ thống thành lũy ở những nơi xung yếu để phịng thủ trong đó có thành Xương Giang.
<i>Theo các thư tịch cổ của Việt Nam như: Đại Việt sử ký tồn thưcủa Ngơ Sĩ Liên; Bình Ngơ Đại Cáo; Phú Núi Chí Linh, Quân</i>
<i>Trung Từ mệnh tập của Nguyễn Trãi, Phú Xương Giang của Lý</i>
<i>Tử Tấn, Kiến Văn tiểu lục của Lê Quý Đôn; Lịch triều hiến</i>
<i>chương loại chí của Phan Huy Chú… thì thành Xương Giang vốn</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">là một toà thành được xây dựng trong hệ thống thành luỹ của quân Minh (giai đoạn 1407-1427). Lúc đó, thành Xương Giang cịn là trị sở của phủ Lạng Giang (bao gồm các huyện: Lạng Giang, Yên Thế, Yên Dũng, Lục Ngạn và Hữu Lũng) và là thành lũy kiên cố của giặc Minh án ngữ trên con đường dịch trạm, là cầu nối giữa 2 tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) với Đông Quan (Hà Nội). Với vị trí chiến lược này, thành Xương Giang có thể phong toả các vùng xung quanh, liên lạc, ứng cứu, tiếp viện khi cần thiết, ra công vào thủ rất lợi hại. Tồ thành này lại ở vào vị trí cửa ngõ, phên dậu của Đông Quan, nên được giặc Minh xây dựng rất kiên cố. Như vậy, thành Xương Giang đã có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt quân sự đối với quân Minh ở Đại
<i>Việt. Sách Khởi nghĩa Lam Sơn của Phan Huy Lê - Phan ĐạiDoãn viết:“Thời thuộc Minh, thành Xương Giang là thành lớn</i>
nhất của phủ Lạng Giang, đương thời vẫn gọi là thành Lạng Giang... Xương Giang là trị sở của phủ Lạng Giang. Sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh cho xây dựng các sở vệ, đắp thành lũy ở những nơi xung yếu để phịng thủ. Thành Xương Giang khi đó trở thành thành lũy kiên cố của giặc Minh án ngữ trên con đường dịch trạm từ Quảng Tây (Trung Quốc) nối với Đông Quan (Hà Nội)” <small>3</small><i>. </i>
<i>Theo sách Di tích Bắc Giang, tái bản năm 2016, trang 444:</i>
Thành Xương Giang xưa nằm trên một gò đồi thấp, được đắp bằng đất, có sơng nhỏ và các thửa ruộng trũng bao quanh, cách sông Thương chừng vài ba km. Thành có hình chữ nhật, chiều dài theo hướng Đơng Tây là 600m, chiều rộng theo hướng Bắc Nam là 450m, tổng diện tích là 27ha. Bốn góc thành có 4 vọng lâu lớn, đặt các loại súng thần cơ lớn nhỏ. Có bốn cửa nhìn ra bốn hướng và cửa chính thành trơng về phía Tây. Trong thành được phân chia các khu vực rõ ràng: Dinh thự, doanh trại, kho lương, kho đạn, giếng nước...
Thành Xương Giang hiện nay khơng cịn nhưng dấu vết tường thành xưa cùng các hiện vật dưới lòng đất mà khảo cổ học đã tìm được là minh chứng rõ ràng về sự tồn tại và vai trị ý nghĩa của tồ thành này trong lịch sử chống quân Minh của dân tộc. Khu di tích Chiến thắng Xương Giang hiện có 12 địa điểm
<small>3 Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn. Khởi nghĩa Lam Sơn, Nxb Khoa học xã hội-HN 1997.Tr 403, </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">đã được cắm mốc địa giới hành chính và khoanh vùng khu vực bảo vệ. Tại địa điểm trung tâm thành Xương Giang xưa đã có ngơi đền thờ Lê Lợi cùng các tướng sĩ nghĩa quân Lam Sơn, nhà Trưng bày và biểu diễn nghệ thuật giới thiệu về Chiến thắng Xương Giang phục vụ khách tham quan.
<b>2.5. Sự kiện nhân vật lịch sử liên quan 2.5.1 Sự kiện lịch sử liên quan đến di tích </b>
Thế kỷ XV quân Minh xâm lược nước ta, cả nước dấy lên phong trào khởi nghĩa chơng qn Minh xâm lược. Giai đoạn này có nhiều cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh bảo vệ đất nước. Trong các cuộc khởi nghĩa ấy, chỉ có khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo là thành công. Từ một cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển thành phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi cả nước. Vùng đất Bắc Giang là nơi ghi dấu nhiều trận đánh ác liệt trong cuộc khởi nghĩa này tiêu biểu là Chiến thắng Xương Giang để kết thúc ách đơ hộ của nhà Minh giải phóng dân tộc. Cùng với nhiều địa danh khác như: Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát... thành Xương Giang đã trở thành trung tâm diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược. Đặc biệt, nơi đây diễn ra 2 chiến thắng lớn của nghĩa quân Lam Sơn: Trận công thành Xương Giang tháng 9 năm 1427 và chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang trong trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng - Xương Giang tháng 11 năm 1427 do Lê Lợi và Nguyễn Trãi chỉ huy đã đi vào lịch sử dân tộc.
<i><b>2.5.1.1 Trận công thành Xương Giang tháng 9 năm1427</b></i>
Vào giữa năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi chỉ huy đã mở rộng, củng cố vùng giải phóng, thừa thắng kéo quân ra Bắc bao vây thành Đông Quan. Tướng nhà Minh- bọn Vương Thông xin viện binh cứu viện và cố thủ tại đây. Biết trước tình hình đó, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và bộ tham mưu nghĩa quân Lam Sơn gấp rút chuẩn bị hạ gấp thành Xương Giang nhằm chặt đứt một cầu nối quan trọng giữa vùng Lưỡng Quảng (Trung Quốc) với Đơng Quan (Hà Nội) và tính kế dồn địch lại ở vùng Xương Giang. Mặt khác để nghĩa quân Lam Sơn, do Lê Lợi, Nguyễn Trãi chỉ huy
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">mở trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt viện binh địch, đập tan ý đồ trong ngồi giáp cơng, phá thế bao vây của nghĩa quân Lam Sơn giành thế chủ động trên chiến trường của giặc Minh.
Nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi, Nguyễn Trãi đích thân chỉ huy, bao vây giặc Minh ở Đông Quan (Hà Nội). Hai tướng Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Chích bao vây thành Điêu Diêu (Gia Lâm) và thành Thị Cầu (Bắc Ninh). Hai tướng Lê Sát, Lê Thụ chỉ huy lực lượng bao vây, tấn công đánh hạ thành Xương Giang. Trần Lựu, Lê Bối đánh Khâu Ôn (Lạng Sơn).
Đến cuối năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn đã tiến hành vây hãm thành Xương Giang. Các tướng Lê Sát, Lê Triện, Nguyễn Đình Lý, Lê Thụ, Lê Lãnh cơng thành đều khơng có kết quả. Vì đây là một tồ thành lớn, có kiến trúc phòng vệ chắc chắn, nguồn lương thực dự trữ bên trong đầy đủ và tập trung lực lượng binh lực lớn. Số lượng quân giữ thành này từ vài nghìn cho đến một vạn quân. Nhận thấy vai trò quan trọng cũng như thuận lợi về nhiều mặt nếu giữ được thành nên quân Minh đã quyết thủ ở đây. Các tướng Lê Sát, Lê Triện và Lê Thụ phối hợp với quân dân Lạng Giang bao vây, tiến đánh nhiều trận. Cuộc tiến công vào thành Xương Giang diễn ra hết sức gay go, ác liệt, vì phía địch thì quyết tâm cố thủ, qn ta lại quyết tâm hạ thành. Hai bên đã đem hết tài sức và mưu trí, vận dụng linh hoạt mọi chiến thuật, sử dụng nhiều phương tiện vũ khí trong chiến đấu. Quân ta vây chặt bốn mặt thành rồi đắp thành những điểm cao, đặt pháo bắn vào, nhưng ban đêm quân Minh lại tổ chức liều chết ra chiếm các điểm cao ấy rồi tập kích vào doanh trại nghĩa quân. Quân ta lại dùng phép “độn thổ” đào những đường hầm ngầm đột nhập vào trong thành. Quân địch dò biết, đào hào chắn ngang và dùng súng bắn làm cho nghĩa quân thiệt hại. Ta đem hàng tướng Thái Phúc đến tận thành dụ giặc, nhưng địch vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng, liều chết cố thủ.
Trong suốt 6 tháng ròng rã bao vây, công thành kết hợp với dụ hàng quân giặc nhưng thành vẫn chưa bị hạ. Tới tháng 9 năm 1427, các đợt vây hãm thành Xương Giang của Lê Sát, Nguyễn Đình Lý… càng trở nên dồn dập, quân Minh trong thành tuy đã bị tiêu hao nhiều, nhưng sức kháng cự vẫn mãnh liệt. Việc công thành của nghĩa quân Lam Sơn vẫn không mang lại kết quả. Hạ
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">gấp thành Xương Giang, tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch ở đây, biến Xương Giang thành căn cứ vững chắc và điểm cuối cùng chặn đứng bước tiến của viện binh địch về Đông Quan (Thăng Long) rồi bao vây tiêu diệt chúng trở thành một nhiệm vụ trọng tâm của nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi đã tăng cường lực lượng và quan trọng hơn là đã cử Trần Nguyên Hãn tham gia vào kế hoạch đánh thành này. Trần Nguyên Hãn được bổ sung, trở thành tướng chỉ huy các đợt công thành. Khi được giao nhiệm vụ hạ thành Xương Giang, Trần Nguyên Hãn cho đào công sự từ các khu rừng lân cận, đào hầm ngầm từ ngoài vào trong thành, dùng câu liêm, giáo, nỏ cứng, hỏa tiễn, hỏa pháo bốn mặt cùng đánh, rồi tiến hành nội cơng ngoại kích với sự phối hợp của lực lượng nghĩa quân đã lọt được vào nội thành và huy động dân chúng của các làng xung quanh tham chiến cùng nghĩa quân Lam Sơn. Đến ngày 9 tháng 8 năm Đinh Mùi (28/9/1427), sau khi dùng hoả pháo và tên lửa bắn vào thành, quân ta đồng loạt dùng thang trèo lên thành, rồi ồ ạt đột nhập vào trong. Nhân dân vùng Xương Giang, các làng Hà Vị, Hồ n, Đơng Nham, Nam Xương, làng Thành, làng Vẽ cũng hăng hái phối hợp với nghĩa quân chiếm thành. Toàn bộ giặc trong thành đều bị tiêu diệt. Chỉ huy Lý Nhậm và các tướng quân Minh cùng đường đã tự vẫn. Quân ta
<i>làm chủ thành Xương Giang. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép</i>
về việc hạ thành Xương Giang như sau: “Tháng 9 ngày 8, bọn Thái úy Trần Hãn (tức Trần Nguyên Hãn), Tư mã Lê Sát, Lê Triện, Lê Lý đánh lấy được thành Xương Giang. Khi ấy viên chỉ huy nhà Minh là Kim Dận cho là thành này nằm trên đường về của quân Minh, nên cùng với tên quan mới bổ đến là Lý Nhậm liều chết cố thủ. Trải qua hơn 6 tháng trời cầm cự với quân Khoái Châu, Lạng Giang, chúng vừa đánh vừa giữ, khiến quan quân không thể lên được thành. Vua sai Hãn đắp đất, mở đường đánh nhau với giặc, dùng câu liêm giáo dài, nỏ cứng, tên lửa, súng lửa, bốn mặt đánh vào, thành cuối cùng bị hạ. Bọn Dận, Nhậm đều tự sát”<small>4</small>.
<i>Sách Việt sử Thông giám cương mục cũng chép về chiến thắng</i>
này: “Tháng 9. Các tướng Trần Hãn và Lê Sát đánh thành Xương Giang: hạ được. Xương Giang là đường quân Minh tất phải qua lại. Bọn chỉ huy Minh là Kim Dận và Lý Nhâm (Nhậm) bị vây hàng hơn sáu tháng, liều chết cố giữ để đợi viện binh; quan quân
<small>4 Đại Việt sử ký toàn thư tập 1, Nxb KHXH, H, 1993, tr.276</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">không hạ được. Đến đây, các tướng Trần Hãn khoét đất thành đường hầm đi xuyên vào thành, đánh kẹp lại, mới phá được thành này. Bọn Kim, Dận, Nhậm đều tự sát”<small>5</small><i>…. Sách Minh Thực</i>
<i>Lục (tập V), bản dịch của Viện Nghiên cứu Trung ương, Viện Lịch</i>
sử Ngữ ngôn xuất bản, Đài Bắc, 1962, tr 0701 đã đề cập về trận chiến thành Xương Giang và được dịch ra như sau: "... Ngày 2 tháng 4 năm Tun Đức thứ 2 (28/4/1427), ngày hơm đó, giặc Giao Chỉ Lê Lợi công hãm thành Xương Giang. Lợi cho rằng Xương Giang là nơi quan trọng, trên đường đại quân ra vào; bèn dùng 8 vạn quân đánh. Quan giữ thành Đô Chỉ huy Lý Nhậm, Chỉ huy Cố Phúc ra lệnh già, trẻ đều lên mặt thành giương cờ hò hét, ngày đêm chống cự... Bốn phía giặc đều đắp núi đất, dùng phi
<i>minh (mũi tên sắt) bắn vào thành...". Đó là những tài liệu, chính</i>
sử ghi chép về trận đánh thành Xương Giang; là căn cứ khoa học khẳng định giá trị lịch sử chiến thắng Xương Giang.
Thành Xương Giang bị hạ trước khi Liễu Thăng kéo quân tới biên giới Việt Trung 10 ngày (Liễu Thăng tới ải Pha Luỹ vào ngày 8/11/1427). Với chiến thắng này, nghĩa quân Lam Sơn không chỉ tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch mà còn chiếm giữ được một cứ điểm quan trọng và lớn nhất trên đường tiến quân của viện binh địch đến Đông Quan, tạo thành bức tường vững chắc ngăn địch và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu diệt toàn bộ viện binh địch, giải phóng đất nước. Thắng lợi này đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc của nghĩa quân Lam Sơn về tài thao lược quân sự, vận dụng cách đánh mai phục, bao vây, công thành, kết hợp dụ hàng đạt hiệu quả để từng bước tiến tới tổng phản công, đập tan âm mưu chờ viện binh của giặc Minh đến để chi viện cứu nguy cho thành Xương Giang. Thắng lợi trong trận đánh này còn cho thấy vai trò của Trần Nguyên Hãn trong bộ máy chỉ huy của nghĩa quân Lam Sơn.
<i><b>Chiến thắng lớn trong trận cơng thành Xương Giang đã có</b></i>
tác dụng và bài học ý nghĩa về tài nghệ thuật qn sự của cha ơng từ xa xưa. Đó là thế chủ động tiến công, liên tục tiến công kết hợp với công tác địch vận bằng mọi cách theo đường lối tác chiến mà bộ tham mưu và Lê Lợi đã vạch định: “Đánh thành là hạ sách, ta đánh vào thành vững hàng tháng, hàng năm không
<small>5 Việt sử Thông giám cương mục tập I, Nxb Giáo dục, H.1998, Tr .817</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">hạ nổi. Quân ta sức mịn khí nhụt, nếu viện binh của giặc tới thì trước mặt sau lưng đều bị địch đánh. Đó là thế nguy. Sao bằng nuôi oai, chứa sức, đợi quân cứu viện, viện binh dứt thì thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai. Đó mới là kế vẹn toàn”
<i><b>2.5.1.2. Chiến thắng Xương Giang trong trận quyếtchiến chiến lược Chi Lăng - Xương Giang </b></i>
Nhằm cứu vãn tình thế liên tục thất bại, bị dồn vào đường cùng. Đầu tháng 10 năm 1427, nhà Minh đã cử hơn 10 vạn quân cứu viện do Liễu Thăng cầm đầu ồ ạt kéo vào biên giới nước ta. Trên đường tiến quân, giặc Minh liên tiếp bị quân ta tiêu diệt ở các trận Ải Chi Lăng ngày 10 tháng 10 năm 1427, Liễu Thăng cùng hơn 1 vạn quân bị quân ta tiêu diệt. Tướng Lương Minh cùng đám tàn quân còn lại khi tới Cần Trạm ngày 15 tháng 10 năm 1427 lại bị quân ta vây đánh tiêu diệt 3 vạn quân. Tới Phố Cát ngày 18 tháng 10 năm 1427, tướng giặc Lý Khánh cùng kế tự vẫn và hàng vạn quân giặc bị ta tiêu diệt.
Sau khi bị chặn đánh quyết liệt ở Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát, tuy bị thất bại nặng nề, nhưng số lượng qn lính vẫn cịn nhiều nên các tướng nhà Minh như Đô đốc Thôi Tụ, Thượng thư Hoàng Phúc... vẫn cố liều chết tiến về thành Xương Giang, hy vọng có quân trong thành ra ứng cứu để từ đây liên hệ với Đông Quan cứu vãn tình thế. Nhưng khi quân giặc kéo xuống Xương Giang thì thành Xương Giang đã bị quân ta đánh chiếm, qn ta đóng giữ hình thành một thế trận bao vây trùng điệp, lớp trong, lớp ngoài. Bốn mặt thành Xương Giang đều có nghĩa quân Lê Lợi vây hãm. Quân giặc phải cố thủ ở ngoài thành, chúng bèn đắp luỹ ngoài đồng để tự vệ chờ đạo quân thứ hai do Mộc Thạch cầm đầu đến ứng cứu. Nhưng mưu mô của chúng đều bị thất bại. Sau khi chiếm được thành Xương Giang, lực lượng nghĩa quân Lam
<i>Sơn đã được tăng cường ở mặt trận này. Sách Đại Việt sử ký</i>
<i>toàn thư chép: “Mùa đông tháng 10, vua sai Lê Lý, Lê Văn An,</i>
đem 3 vạn quân bao vây bốn mặt, lại dựng rào luỹ ở tả ngạn sông Xương Giang để ngăn địch, đồng thời sai Trần Nguyên Hãn chặn đứng đường vận chuyển lương thực của giặc”. “... Lê Vấn, Lê Khơi đem 3 nghìn qn thiết đột, 4 thớt voi cùng với lực lượng
<small>6 Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr.277</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">của Lê Sát, Lê Lý, Nhân Chú, Lê Văn An tấn công quân giặc” <small>7</small>. Qn giặc đóng ở Xương Giang trong tình thế “Lương thực hết tất cả, quân nhân chết đói, xác chất thành núi”.
Ngày 3 tháng 11 năm 1427 (15 tháng 10 năm Đinh Mùi) nghĩa quân Lam Sơn tổng cơng kích qn Minh ở Xương Giang. Từ 4 mặt, qn dân ta nhất tề tổng cơng kích, mở những mũi tiến cơng quyết liệt vào các khu vực phịng ngự của địch. Bộ binh, tượng binh, kỵ binh của ta cùng phối hợp đột phá vào trung tâm doanh trại của địch. Tồn bộ tướng lĩnh chỉ huy từ Thơi Tụ, Hoàng Phúc, Sử An, Trần Dung... cùng hàng vạn quân lính bị giết và bị bắt, được tin này Vương Thông vô cùng hoảng hốt và phải chịu chấp nhận “giảng hoà” xin rút quân về nước. Sử nhà Minh chép: “Toàn quân (quân Minh) tan vỡ hết. Quân Minh đại bại hồn tồn. Các tướng chỉ huy: Thơi Tụ, Hoàng Phúc, Sử An, Trần Dung...cùng hơn 300 tướng chỉ huy khác cùng hơn 5 vạn quân lính bị ta tiêu diệt và bắt sống. Quân ta thu được rất nhiều ngựa, các loại vũ khí cùng vàng bạc, vải lụa...”
<i>Mô tả chiến thắng này, Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngơ</i>
<i>đại cáo:</i>
“Đánh một trận, sạch khơng kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim mng Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội
Thượng thư Hồng Phúc trói tay để tự xin hàng Lạng Giang, Lạng Sơn thây ngả đầy đường Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước” <small>8</small>
Hàng loạt các địa danh vùng Xương Giang, cánh đồng Xương Giang, các địa danh xung quanh như: đồi Phục, đồi Cút, bãi Bêu, bãi Thiều, bãi Cháy...cịn ghi lại chiến cơng oanh liệt của qn dân ta.
<small>7 Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr278, 279</small>
<small>8 Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb KHXH, H. 1976, tr81</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Chiến thắng Xương Giang vang dội, điểm kết huy hoàng của trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng- Xương Giang của nghĩa quân Lam Sơn đã đưa đến kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh ròng rã hơn 10 năm trời. Ngày 16 tháng 12 năm 1427, Vương Thông cùng các tướng giặc cúi đầu xin hàng kéo quân về nước kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh.
Chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang là thắng lợi của chính nghĩa, của tinh thần yêu nước và của ý chí căm thù quân xâm lăng, là thắng lợi của nghệ thuật quân sự tài tình của cha ơng ta từ xa xưa mà vai trò quan trọng là Lê Lợi, Nguyễn Trãi và bộ
<i>tham mưu nghĩa quân. Trong bài Phú Xương Giang, Lý Tử Tấn đã</i>
so sánh những trận đánh kinh điển của Trung Quốc không bằng
<i>chiến thắng vẻ vang ở trận Chi Lăng- Xương Giang: “... Kìa trận</i>
“Non sơng vốn thiêng Nơi đây vũ công lừng lẫy Giúp nên đất nước bình n
Lạch thiên nhiên của trời Nam sẵn có Mở thái bình cho đất Việt khắp miền Ấy Xương Giang một sơng hình đẹp Mà dấu thơm mn thuở cịn truyền...”.
Tồn bộ chiến cục từ Chi Lăng đến Xương Giang với các trận đánh xảy ra theo bố trí chiến dịch của quân ta, đã liên tiếp đẩy địch vào thế bị động. Nghĩa quân với một lực lượng khoảng 5 vạn, đã tiêu diệt và đánh tan trên 10 vạn quân địch trong thời gian không đầy một tháng. Nghĩa quân vận dụng cách đánh “mưu phạt tâm cơng”, dựa vào địa hình hiểm trở, chọn trận địa quyết chiến chính xác nên nhanh chóng giành thắng lợi ở các mặt trận.
<small>9</small><i><small> Hợp Phì: Tên một huyện thuộc tỉnh An Huy (Trung Quốc) nơi sông Hồi hợp lưu với sơng </small></i>
<small>Phì. Tạ Huyền đời Tấn từng đánh phá 100 vạn quân của Bồ Kiên nước Tần trên sơng Phì</small>
<small>10</small><i><small> Xích Bích: Dãy núi trên bờ sông Dương Tử. Thời Tam quốc, thuỷ quân Tào Tháo bị quân </small></i>
<small>Chu Du đốt cháy tan tành ở đấy.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><b>2.5.2 Nhân vật lịch sử</b>
Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là nơi diễn ra nhiều sự kiện đặc biệt quan trọng của lịch sử quân sự Việt Nam. Nơi đây từng gắn liền với tên tuổi, sự nghiệp của chủ tướng Lê Lợi và quân sư Nguyễn Trãi cùng các vị tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy tham gia trận đánh Xương Giang, các anh hùng nghĩa sỹ nghĩa quân Lam Sơn như: Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Phạm Vấn, Lê Lý, Lê Văn An... đều được sử sách ghi nhận họ luôn sống mãi trong lòng dân và xứng đáng được ghi nhớ tơn thờ. Ở đây xin tóm tắt sơ lược về cuộc đời sự nghiệp những nhân vật lịch sử tiêu biểu có cơng lớn trong chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang hiện đang được thờ tại đền Lăng-Xương Giang.
<i><b>● Lê Lợi (Lê Thái Tổ) sinh ngày 10 tháng 9 năm 1385 mất</b></i>
ngày 22 tháng 8 năm 1433. Là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá nay thuộc tỉnh Thanh Hố. Ơng trưởng thành trong thời kỳ nhà Minh đô hộ nước Việt. Là một nhà lãnh đạo quân sự, người đã quy tụ một đội quân chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân đội nhà Minh (Trung Quốc) từ năm 1418 cho đến lúc đánh đuổi hoàn toàn quân Minh ra khỏi Đại Việt vào năm 1428. Lê Lợi là Vua của nước Đại Việt từ năm 1428 cho tới năm 1433. Ơng có vai trò đặc biệt quan trọng với Đại Việt trong khoảng thời gian từ năm 1418 tới năm 1433 khi lãnh đạo người dân Đại Việt đánh bại quân đội xâm lược nhà Minh, sau đó xây dựng và tái thiết lại đất nước. Ông được coi là vị vua huyền thoại của Đại Việt với tài năng quân sự, khả năng cai trị và lòng nhân ái đối với cả kẻ thù. Ông được các sử gia đánh giá cao ở tài năng chính trị, quân sự, kinh tế, Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn như là hình mẫu, niềm cảm hứng và biểu tượng của sự đoàn kết quốc gia.
<i><b> ● Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai (1380–1442), quê gốc ở</b></i>
làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Ơng là con trai của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán. Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, ông tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><i>giặc Minh. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa qn Lam Sơn. Năm</i>
1442, tồn gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ơng. Ơng là một nhà văn hóa lớn nổi tiếng với bài " Bình Ngơ Đại Cáo " được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc Việt Nam.
<i><b>●Trần Nguyên Hãn (1390-1429). Theo sách Đại Việt</b></i>
<i>thông sử, Trần Nguyên Hãn người huyện Lập Thạch, dịng dõi</i>
Tư đồ Trần Ngun Đán, có học thức, giỏi binh pháp, là nhà quân sự Đại Việt thời Lê sơ. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống sự đô hộ của đế quốc Minh. Ông từng giữ chức Tư đồ (1424-1425), Thái úy (1427), chỉ huy các trận đánh giải phóng Tân Bình, Thuận Hố (1425-1426), bao vây Đông Quan, công phá thành Xương Giang và chặn đường tiếp tế của quân Minh trong chiến dịch Chi Lăng-Xương Giang (1427). Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Lê Lợi lên ngơi Hồng Đế, tức Lê Thái
<i>Tổ (1428). Trần Nguyên Hãn được phong làm Tả tướng quốc. </i>
<i><b> ●. Lê Sát người làng Bỉ Ngũ ở Lam Sơn, trí dũng hơn</b></i>
người. Năm Canh Tý (1420) ông cùng Lê Triện lập công lớn ở trại Quan Du (sau là châu Quan Hóa - Thanh Hóa). Năm Giáp Thìn (1424) ơng tham gia chiến đấu ở ải Khả Lưu, lập công lớn. Mùa thu năm Bính Ngọ (1426) khi Lê Lợi đem quân bao vây Đông Đô, ông và Lưu Nhân Chú được cử mang quân lên phía Bắc đánh Xương Giang, được tiến phong Thiếu úy. Mùa xuân năm Đinh Mùi, ông được gọi về đóng giữ ở cửa Nam thành Đơng Đơ. Đến tháng 6 thăng là Tư mã, được vua sai cùng Thái úy Trần Nguyên Hãn đánh gấp thành Xương Giang. Tháng 9 hạ được thành ấy. Khi đại tướng nhà Minh là An Viễn hầu Liễu Thăng đem viện quân sắp tới, ông đem 2 vạn quân và 5 thớt voi cùng Lưu Nhân Chú, Lê Linh đến mai phục ở Chi Lăng, chỉ mở cho địch lối ra Xương Giang mà chặn hết đường về. Tháng 10, ông cùng các tướng khác lại lập công lớn ở Xương Giang.
<i><b> ● Lưu Nhân Chú, người xã An Thuận, huyện Đại Từ (Thái</b></i>
Nguyên), tham gia phong trào Lam Sơn từ đầu trong đội quân Thiết đột, lập được nhiều công lớn trong các trận đánh ở ải Khả Lưu (1424), Tây Đô (1425) và Trường Yên, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương, Khoái Châu, Lạng Giang, Bắc Giang (1426).
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Tại Chi Lăng ông cùng Lê Sát hợp mưu chung sức, sai Lê Lưu giả thua nhử giặc rồi tung quân ra đánh úp, chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên, sau đó lại chém được Bảo Định bá Lương Minh tại trận, lập công lớn ở Xương Giang.
<i><b> ● Phạm Vấn, người thôn Nguyên Xá, huyện Lương Giang</b></i>
(Thanh Hóa), từng lập nhiều cơng lớn ở Bồ Mộng (1420), Sách Khôi (1422), Trà Lân (1424). Khi quân của Lê Sát đã giết được Liễu Thăng, hội tướng vây Thôi Tụ, Hoàng Phúc ở Xương Giang. Tháng 10 năm Đinh mùi - 1427 vua sai ông cùng Lê Khôi đem 3000 tinh binh trợ chiến, phá được giặc, chém 5 vạn tên, bắt sống Thơi Tụ, Hồng Phúc.
<i><b>● Lê Lý, người thơn Đạo Xá thuộc Lam Sơn (Thanh Hóa), từ</b></i>
đầu đã tham gia vào đội quân Thiết đột, lập được công lớn ở Lạc Thủy (1418), Mường Thôi (1420). Từ đó về sau, giữ Lam Sơn, đánh Trà Lân, tấn công cửa ải Khả Lưu, bao vây Nghệ An, trải qua mấy chục trận, ơng đều có cơng lớn, lần lượt thăng đến Thiếu úy. Năm 1426, vua Lê Lợi tiến quân ra vây Đông Đô, sai ông cùng Lê Sát đánh thành Xương Giang. Sau vua lại sai ông cùng Lê Văn An đem 3 vạn quân đến tiếp ứng đánh địch ở Cần Trạm, Phố Cát, Xương Giang bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng 3 vạn quân địch làm nên chiến thắng Xương Giang.
<i><b>● Lê Văn An, người sách Mục Sơn, tham gia phong trào Lam</b></i>
Sơn từ đầu, có mặt trong đội quân Thiết đột. Trải qua hơn 100 trận đánh lớn nhỏ, ông đều lập nhiều cơng tích... Khi nhà vua tiến về Tây Đơ, lưu ông lại bao vây chỉ huy của địch là Thái Phúc ở Nghệ An. Khi Phúc đã hàng, ông bèn dẫn quân ra Đông Đô. Ra tới nơi, vua lại sai ông cùng Lê Lý đem 3 vạn quân lên hỗ trợ Lê Sát làm thế ỷ dốc. Ông liên tục đánh phá qn của Thơi Tụ, Hồng Phúc và vây chúng ở Xương Giang rồi cùng các tướng hợp lực lượng phá địch, bắt sống được Thơi Tụ, Hồng Phúc và 3 vạn quân địch làm nên chiến thắng Xương Giang.
<i><b>● Lê Văn Linh, sinh năm Đinh Tỵ (1377), ở làng Hải Lịch,</b></i>
huyện Lôi Dương, nay là xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân từ một gia đình có truyền thống hiếu học, từ nhỏ Lê Văn Linh học rộng biết nhiều, am tường tinh thơng, có tài làm văn thơ. Lê Văn Linh lớn lên trong hoàn cảnh đất nước
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Đại Việt chịu ách độ hộ của nhà Minh. Trước tình cảnh nhân dân chịu sự áp bức, khổ cực nên Lê Văn Linh đã tìm đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông là người đứng đầu trong ba văn thần có mặt trong hội thề Lũng Nhai, được Bộ chỉ huy Lam Sơn và Bình Định Vương Lê Lợi trọng dụng.
<i><b>● Trần Lựu, quê xã Lỗ Tự, huyện Thụy Nguyên (nay thuộc</b></i>
huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá) được theo họ vua Lê, nên cũng gọi là Lê Lựu. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn ngay từ buổi đầu hội thề ở Lũng Nhai. Ông chỉ huy đội quán thiết, đội hoạt động ở Nghệ An, nổi tiếng trong nhiều trận đánh lớn. Cuối năm 1426, ông cùng Lê Bơi, Trịnh Khả, giải phóng các vùng Hồng Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, rồi được phong làm Tổng tri Hồng Châu kiêm tri An Bang (1427). Sau đó, ơng nhận lệnh điều động qn sĩ chặn viện binh của Liễu Thăng nơi Lạng Giang. Khởi nghĩa thành công, ông được dự vào bậc công thần đệ nhất, phong làm Trấn viễn đại tướng quân, tước Thượng Trí Tự.
<i><b>●. Phạm Văn Liêu, thôn Nguyễn Xá, hương Lam Sơn,</b></i>
huyện Thuỷ Nguyên, phủ Thiên Trường, xứ Thanh Hoa. Phạm Văn Liêu theo Lê Lợi khởi nghĩa từ những năm đầu (1418) có nhiều chiến cơng ở Thanh Hố, Nghệ An nên được phong Đô Đốc Khang Vũ Bá. Trong chiến dịch chặn viện binh quân nhà Minh, Lê Lợi cử tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ, Lê Lỗng, Phạm Văn Liêu đem 1 vạn quân tinh nhuệ, 100 ngựa và 5 voi chiến tiến lên bố trí mai phục sẵn ở ải Chi Lăng, phối hợp với quân của Trần Lựu, Lê Bôi đánh giặc, chém Liễu Thăng, tiếp tục đánh quân Minh ở Cần Trạm, Phố Cát, Xương Giang.
Sau ngày đại thắng, Phạm Văn Liêu được phong tặng Bình Ngơ khai quốc cơng thần Khang Thái uý và được ở lại xứ Kinh Bắc, thuộc khu vực xóm Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
<i><b>● Nguyễn Công Chuẩn, quê ở Bồng Trung, Vĩnh Lộc,</b></i>
Thanh Hoá. Ông được vua Lê Thái Tổ ban quốc tính nên cịn gọi là Lê Cơng Chuẩn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, ông là người lo liệu đảm bảo việc cung cấp hàng vạn tấn gạo muối và binh khí cho nghĩa quân. Đặc biệt trong chiến thắng
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Chi Lăng- Xương Giang, ông cũng là người lo việc lương thực cho quân ta để đại thắng quân Minh.
<i><b>● Lê Lĩnh, Theo sổ hội đồng ở nhà thờ họ Phạm, xã Xuân</b></i>
Hương ghi về ông như sau: Niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất làm Tả lang hổ, Thượng tướng quân, Tổng quản. Đến năm thứ 5 được phong danh hiệu Bảo Chính cơng thần, chức Nhập nội. Niên hiệu Thiệu Bình thứ 6 đi qua Ai Lao (nước Lào) đánh trận bị chết. Khi còn sống làm quan đến chức Thiếu uý.
<i><b>● Đinh Liệt, người Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh</b></i>
Hóa, em ruột của danh tướng Đinh Lễ. Ông theo vua Lê Lợi đánh quân Minh từ những ngày đầu khởi nghĩa. Ông được Lê Lợi coi như tâm phúc luôn luôn theo hầu ở bên cạnh. Khi Liễu Thăng kéo quân sang, Lê Lợi sai ông theo Tư Mã Lê Sát đem quân lên Chi Lăng chống cự. Ơng cùng các tướng góp sức tiêu diệt địch, chém được Liễu Thăng. Năm 1428, vua Lê Lợi xếp ông vào chức Thủ quân thiết đột.
<i><b>● Lê Thụ được danh hiệu Bình Ngơ khai quốc cơng Thần.</b></i>
Ơng theo Lê Lợi đánh giặc từ ngày đầu khởi nghĩa. Trong chiến dịch Chi Lăng- Xương Giang, Lê Lợi sai tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt, Lê Thụ…đem 1 vạn quân tinh nhuệ, 100 ngựa và 5 voi chiến tiến lên bố trí mai phục sẵn ở Chi Lăng. Khi Trần Lựu nhử quân Liễu Thăng lọt vào ải Chi Lăng, Lê Thụ cùng các tướng hô quân ra đánh, chém đầu Liễu Thăng, bẻ gãy quân tiên phong của quân Minh. Sau đó Lê Thụ lại cùng nghĩa quân bám sát quân Minh tiếp tục vây đánh ở Cần Trạm, Phố Cát, Xương Giang, góp phần làm nên chiến thắng Xương Giang lẫy lừng.
<i><b>● Lê Khôi, hương Lam Sơn, năm Thuận Thiên nguyên niên</b></i>
phong Bảo chính cơng thần, Nhập nội thiếu , niên hiệu Thái Hoà năm thứ 4. Làm quan tới chức Tham chính. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484) được gia tặng Thái truyền tán quốc công. Trong chiến thắng Chi Lăng -Xương Giang cánh quân của Lê Lý, Lê Văn An, Lê Khôi đánh, phá địch ở Xương Giang bắt sống được Hoàng Phúc, diệt toàn bộ cánh quân của địch.
<i><b>● Phạm Bơi, có tài liệu gọi là Lê Bơi vì ơng được mang họ</b></i>
vua. Trong chiến dịch chặn viện đánh quân Minh do Liễu Thăng chỉ huy. Lê Lợi đã phái Trần Lựu và Lê Bôi lên trấn giữ vùng
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">biên giới Lạng Sơn, giải phóng Khâu Ơn, phá tan đạo viện binh của Trần Viễn Hầu kéo sang, chém 3000 tên giặc, bắt 500 ngựa. Sau khi Lê Sát kéo quân lên chặn quân Liễu Thăng ở Chi Lăng, quân của Lê Bôi cùng quân của Trần Lựu nhử quân Minh tiến sâu vào Chi Lăng, cho phục binh của ta ra đánh, chém được Liễu Thăng. Sau đó, Trần Lựu, Lê Bôi tiếp tục lui về đánh quân Minh ở Xương Giang.
<i><b>● Lê Thiệt, theo sổ Hội đồng ở nhà thờ họ Phạm, xã Xuân</b></i>
Hương ghi về ông như sau: Người Nguyệt Sơn Khúc, niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất làm Đồng quân tổng quản phủ Thiên Trường trông nom các việc quân sự. Niên hiệu Đại Bảo thứ 3 mất. Khi còn sống làm quan tới chức Tổng quản. Niên hiệu Hồng Đức thứ 15 tặng phong Thái truyền Qch quận cơng.
<b>2.5.3 Sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng liên quan đến di tích</b>
Đại thắng Xương Giang đã góp phần chấm dứt 20 năm đơ hộ của nhà Minh đối với nước ta, đất nước Đại Việt thái bình, thịnh trị gần 04 thế kỷ, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc. Để ăn mừng chiến thắng quân Minh, Vua Lê Lợi đã mở hội để khao quân, úy lạo tướng sỹ, tuyên đọc "Đại cáo Bình Ngơ". Trong niềm vui chung đó, ở Kinh Bắc (Bắc Đạo) có trụ sở là thành Xương Giang cũng được hưởng lộc và tổ chức lễ hội lớn để cáo tế trời đất.
Quanh thành Xương Giang có các làng: Thành (Đông Nham), Vẽ (Nam Xương), Thọ Xương (làng Thương), Hòa Yên, Cung Nhượng... là những địa danh lịch sử gắn liền với chiến thắng Xương Giang lừng lẫy cũng hân hoan cùng nhau tổ chức ăn mừng chiến thắng. Tại đây, nhân dân còn bảo lưu những truyền tích dân gian về sự chiến dấu hy sinh của danh tướng Lều Văn Minh và nhân dân các làng đã hết lòng ủng hộ, giúp đỡ và phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn bao vây công thành diệt viện… góp phần làm nên chiến cơng oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Đó cũng chính là những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc được hội tụ và kết tinh gắn với phong tục, tập qn, tín ngưỡng của vùng đất này. Từ đó, vào những dịp
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">hội lệ, nhân dân nơi đây lại mở hội để tri ân, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền bối với các nghi thức, nghi lễ truyền thống.
Đến thời Lê Trung Hưng, thành Xương Giang khơng cịn là trị sở của Kinh Bắc nữa mà chuyển về thành Thị Cầu. Do nhu cầu canh tác, sản xuất mà đất thành Xương Giang đã được chia cho các làng: Thành, Vẽ, Hòa Yên, Thương, Châu Xuyên, do vậy hội lệ cũng chuyển đổi nhập vào hội của các làng này. Chính vì vậy, đến nay, lễ hội tại các địa danh này luôn mang màu sắc, hào khí của chiến thắng Xương Giang năm xưa.
Nhằm gìn giữ, kế thừa và phát huy giá trị của các sinh hoạt văn hóa truyền thống xưa, năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 571 năm chiến thắng Xương Giang (1427-1998), lễ hội Xương Giang được tổ chức, để kỷ niệm sự kiện lịch sử, khẳng định tầm vóc, ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn của chiến thắng Xương Giang trong lịch sử dân tộc, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Dựa trên các yếu tố sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân quanh thành Xương Giang còn lưu giữ, hằng năm vào hai ngày 6, 7 tháng Giêng, nhân dân thành phố Bắc Giang lại long trọng tổ chức lễ hội Xương Giang với các nghi thức, nghi lễ truyền thống được diễn ra trong không khí trang nghiêm cùng nhiều hoạt động văn hóa, thể thao bổ ích, hấp dẫn.
Lễ hội Xương Giang là một trong những lễ hội có qui mơ rộng, có sức ảnh hưởng lớn đến các làng, xã xung quanh thành Xương Giang xưa. Không gian lễ hội không những được diễn ra khắp các khu vực quanh thành Xương Giang như làng Thành, làng Vẽ, làng Hòa Yên, phường Dĩnh Kế, mà còn trải dài ở khắp các phường khác trong thành phố Bắc Giang như: Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ, Trần Nguyễn Hãn… Đặc biệt hơn, lễ hội cịn có sự phối hợp tham gia của các địa phương ở huyện Lạng Giang (Bắc Giang), huyện Hữu Lũng-Chi Lăng (Lạng Sơn), Thị Cầu (Bắc Ninh). Khu trung tâm thành Xương Giang, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang là địa điểm chính diễn ra các hoạt động của lễ hội Xương Giang.
Lễ hội Xương Giang được tổ chức bao gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội, thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập
</div>