Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 27 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>ƠN TẬP HỌC PHẦNDI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HĨA VIỆT NAM</b>
<b>Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày khái niệm di tích lịch sử văn hóa và phântích vai trị, ý nghĩa di tích lịch sử văn hoá trong phát triển du lịch? * Khái niệm: </b>
- theo luật di sản văn hoa: DTLS VH là cơng trình xây dựng, đặc điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”.
<b> * Vai trị </b>
- Là tài sản của nhân dân VN từ thành quả lao động, sáng tạo, dựng xây, giữ gìn và bảo vệ của bao thế hệ người VN qua các thơì kì lịch sử.
- Là “ điểm chốt” để xây dụng các tuyến du lịch văn hóa, mở rộng các tour du lịch văn hóa.
- Là một yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch bền vững.
<b> * Ý nghĩa</b>
Là những biểu hiện và thể hiện của nền văn hóa và văn minh dân tộc; là sản phẩm nhưng cũng là hệ quả của quá trình vận động phát triển trong cơ sở hạ tầng xã hội và giao thoa văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc trong khu vực và trên thế giới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>Câu 2: Anh (chị) hãy trình bày về một di tích mộ chum ở miền Trung ViệtNam. Cho biết khả năng khai thác di tích này trong phát triển du lịch.</b>
Chiếc mộ chum Tam Mỹ tại Bảo tàng Đà Nẵng có kích thước lớn, hình trụ, chiều cao 80cm, đường kính miệng 59cm. Chum làm bằng đất sét pha cát hạt mịn màu đỏ nhạt, kỹ thuật chế tác khá tinh xảo được làm bằng bàn xoay, tạo cho xương gốm có độ mỏng đều. Dáng chum cân xứng và đẹp, vai hơi phình, cổ thắt, miệng loe tạo thành một đường gấp khúc từ vai-cổ-miệng. Nắp chum hình nón cụt đáy bằng đậy vừa khít miệng chum. Mộ chum được tìm thấy ở Tam Mỹ thuộc giai đoạn sớm của thời đại sắt ở nước ta, niên đại khoảng 2.300 đến 2.500 năm cách ngày nay. Có thể người chết được chôn trong chiếc chum này theo cách hỏa táng hoặc cải táng nhưng chắc chắn rằng đây không phải là chiếc quan tài chôn trẻ em.
Đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về hình dáng và kích thước của các loại mộ chum liên hệ như thế nào với thân phận, địa vị của người chết. Cũng như chưa có giải thích nào làm sáng tỏ vì sao lại có nhiều loại như vậy và mỗi loại mang đặc tính kỹ thuật, cách sử dụng hoặc ý nghĩa tâm linh ra sao. Như vậy, từ những đặc trưng của mộ chum chúng ta có thể nhận thấy những biểu hiện chung về quan niệm tín ngưỡng của cư dân thuộc văn hóa Sa Huỳnh. Đó là sự sùng bái linh hồn người chết, là sự biểu hiện mối quan hệ gắn bó giữa con người – linh hồn và biển cả, qua việc lựa chọn những địa hình cao ráo ven biển, ven sơng để đặt khu mộ táng. Từng mộ chum được làm cẩn thận chứng tỏ thái độ kính trọng và tiếc thương với người đã khuất được bầy tỏ sâu sắc và tỉ mỉ, qua đó thể hiện tín ngưỡng đất mẹ và sự bất tử của linh hồn. Đó cũng chính là điều bận tâm muôn thuở của con người.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>Câu 3: Anh (chị) hãy trình bày về một di tích cư trú hang động ở miềnBắc Việt Nam. Cho biết khả năng khai thác di tích này trong phát triển dulịch.</b>
Được mệnh danh là Phong Nha Kẻ Bàng của vùng núi rừng Tây Bắc, Động Tiên của huyện Hàm Yên được xem là địa điểm du lịch nổi tiếng được rất nhiều người biết tới. Quần thể hang động này gồm bảy hang động khác nhau đó là Động Tiên, động Đàn Đá, động Thiên Đình, động Thiên Cung, động Thạch Sanh, động Tam Cung, động Âm Phủ. Tất cả các động này xếp thành hình vịng cung tạo thành một quần thể danh lam thắng cảnh rất đặc sắc và đẹp mắt. Trong số đó, Động Tiên là hang động đẹp nhất. Hang động này thuộc ba vùng núi Châu Qùy, Bạch Mã và núi Tọa của xã Yên Phú. Nơi đây gắn liền với rất nhiều câu chuyện xưa kia. Do đó, khi tới đây tham quan, du lịch thì ngồi việc được ngắm cảnh, bạn sẽ được nghe rất nhiều câu chuyện ly kỳ xung quanh thắng cảnh động Tiên đẹp mê hồn này. Chị Trần Thị Khuyến, du khách đến từ Mỹ Đình, Hà Nội cho biết, khi lên tham quan Động Tiên, chị thực sự ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp lộng lẫy của Động Tiên. Theo thời gian, dưới sự bào mịn của gió, của nước, các khối nhũ đá đã hóa thân thành rất nhiều các hình hài khác nhau. Chị Khuyến được chiêm ngưỡng rất nhiều hình ảnh vạn vật trần gian khi ghé thăm danh thắng độc đáo này.
<b>* tiềm năng du lịch</b>
Ngược lên huyện Na Hang, nơi đây với cảnh núi non hùng vĩ đã tạo nên cho mảnh đất này nhiều cảnh sắc để phát triển du lịch trải nghiệm, khám phá mà bất kỳ một dân phượt nào cũng không thể bỏ qua. Hiện nay, huyện Na Hang đã đưa một số hang động vào tua du lịch khám phá rừng nguyên sinh để phục vụ du lịch như tua du lịch khám phá hang Bó Kim, rừng Nà Niếng, xã Thanh Tương. Trong hang, hệ thống điện đã được lắp đặt làm cho không gian của hang trở nên huyền ảo hơn. Trong hang nhiều khối nhũ đá được hình thành khiến nhiều du khách thích thú khi lên đây.
Nhận thấy tiềm năng phát triển du lịch từ hang động, huyện Na Hang cũng đang tiến hành khảo sát, đánh giá để đưa vào khai thác, phục vụ phát triển du lịch đối với một số hang ở xã Năng Khả, Thanh Tương, Sơn Phú. Đồng chí Bàn Văn Khé, Chủ tịch UBND xã Năng Khả (Na Hang) chia sẻ, trên địa bàn xã hiện đã phát hiện một số hang có khối nhũ đá rất đẹp, nhiều du khách muốn được lên khám phá hang song những hang này vẫn chưa được đưa vào khai thác nên vẫn chỉ được coi là tiềm năng.
Thực tế cho thấy, tiềm năng du lịch từ hang động ở Tuyên Quang còn khá nhiều, nếu biết khai thác tiềm năng này để tích hợp trong các tua du lịch trải nghiệm, du lịch mạo hiểm chắc chắn sẽ phát huy hiệu quả của du lịch hơn nữa. Trong thời gian tới, nếu lập được quy hoạch có tầm nhìn chiến lược hiện tại và tương lai thì các tuyến du lịch gắn với du lịch lịch sử, sinh thái khám phá hang động sẽ có đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>Câu 4: Anh (chị) hãy trình bày khái niệm di tích lịch sử và phân tích đặcđiểm của loại hình di tích này; lấy ví dụ minh họa.</b>
* kn:
Di tích lịch sử là những khu vực, địa điểm, các công trình với quy mơ và tính chất khác nhau; ở đó lưu giữ va ghi những dấu vế các sự kiện- nhân vật lịch sử tiêu biểu có tác động, ảnh hưởng sâu sắc, trục tiếp hoặc gián tiếp đến tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của địa phương, đất nước và dân tộc. (Dương Văn Sáu)
* Đặc điểm di tích lịch sử
-hệ thống di tích lịch sử trước hết thường mang tính chất lưu niệm, tưởng niệm về các doanh nhân, anh hùng dân tộc; tưởng niệm và ghi dấu về các sự kiện chính trị, quân sự, văn hóa-xã hội nổi bật đã xảy ra trong quá khứ ở một địa phương nào đó mà kết quả của sự kiện đó có ảnh hưởng(trực tiếp hay gián tiếp) đến tiến trình phát triển của lịch sử địa phương và đất nước. + Ví dụ: Khu di tích quốc gia đặc biệt Cơn Sơn- Kiếp Bạc
- di tích lịch sử mang tính thời đại, phản ánh thời đại mà ở đó đã diễn ra các sự kiện, biến cố lịch sử
+ Ví dụ: Quần thể di tích Cố đơ Hoa Lư
- di tích lịch sử phản ánh thể hiện tính giai cấp phản ánh thái độ ứng xử của các giai cấp chính thể cầm quyền đương thời đối với các sự kiện biến cố đã diễn ra chunhs trong quá khứ
+ Ví dụ: Quần thể di tích Cố đơ Huế
- di tích lịch sử Việt Nam chiếm số lượng nhiều nhất là các cơng trình địa điểm nơi đã diễn ra các sự kiện quân sự gắn với các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc
+ Ví dụ: Dinh Độc Lập
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>Câu 5: Anh (chị) hãy trình bày về một di tích lịch sử tiêu biểu ghi dấu tộiác của kẻ thù ở miền Nam Việt Nam và cho biết thực trạng bảo tồn, khaithác di tích đó trong phát triển du lịch.</b>
Địa đạo Củ Chi là một hệ Thống phòng thủ trong lòng đất ở huyện Củ Chi, cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về hướng tây-bắc. Hệ thống này được quân kháng chiến Việt Minh và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đào trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Hệ thống địa đạo bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở, nhà bếp, kho chứa, phòng làm việc, hệ thống đường ngầm dưới lịng đất, dài khoảng 250 km và có các hệ thống thơng hơi tại vị trí các bụi cây. Địa đạo Củ Chi được xây dựng ở điểm cuối Đường mịn Hồ Chí Minh, trên vùng đất được mệnh danh là "đất thép" để ca ngợi ý chí phòng thủ kiên cường của quân dân nơi đây. Trong Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, quân Giải phóng miền Nam đã xuất phát từ hệ thống địa đạo này để tấn công vào Sài Gòn.
Sau chiến tranh, khu địa đạo Củ Chi trở thành di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2015, khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động do có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng tạo. Trong 20 năm hoạt động, khu di tích đón hơn 20 triệu lượt khách trong và ngồi nước tới tham quan, tìm hiểu.[1] Ngày 12 tháng 2 năm 2016, khu di tích đón nhận Bằng xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt[2]
Tiềm năng du lịch
Những năm qua, di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi đã được đưa vào Chương trình hành động quốc gia về du lịch của Chính phủ do Tổng cục Du lịch tổ chức thực hiện, ln được vinh danh trong tốp các di tích lịch sử, văn hóa, nghê•th•t tiêu biểu thuộc chương trình “Thành phố Hồ Chí Minh - 100 điều thú vị”, và gần đây là được xác lập kỷ lục châu Á về địa đạo dài nhất di tích hiện nay cịn gặp một số hạn chế: đối với các di tích địa đạo ở nước ta do hồn tồn nằm trong lịng đất nên dễ bị hư hỏng. Qua khảo sát tìm hiểu ở khu địa đạo bến Dược Củ Chi, chúng tơi nhận thấy di tích thường bị hư hỏng do khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều và lượng mưa lớn nên dễ gây sụt lở. Ngoài ra, địa đạo còn bị ảnh hưởng do rễ cây mặt đất ăn lan vào địa đạo và do các loại mối phá hoại. Ban quản lý chọn giải pháp gia cố bằng xi măng và bê tông, nhằm bảo đảm an toàn cho khách tham quan.
Nhận thấy Địa đạo Củ Chi đáp ứng một số tiêu chí có giá trị nổi bật tồn cầu, tính tồn vẹn và tính xác thực theo hướng dẫn thực hiện Công ước di sản thế giới UNESCO, UBND TP.HCM đã chuẩn bị hồ sơ đề nghị công nhận Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi là di sản thế giới. Việc đề xuất công nhận di sản văn hóa thế giới khơng chỉ nhằm giới thiệu tới bạn bè thế giới mà còn là cơ hội để người Việt Nam có dịp nhìn lại, trân trọng hơn đối với di tích này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>Câu 6: Anh (chị) hãy trình bày về một di tích lịch sử tiêu biểu ghi dấuchiến cơng của quân và dân ta ở miền Bắc Việt Nam. Cho biết thực trạngbảo tồn, khai thác di tích đó trong phát triển du lịch.</b>
Quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ – Điện Biên
Quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ là nơi gắn liền với chiến dịch 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” của quân và dân ta làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” kết cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của quân và dân ta.
Quần thể di tích Chiến trường Ðiện Biên bao gồm các di tích nổi bật như: Đồi A1, đồi Ðộc Lập, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, cầu Mường Thanh, hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (hay hầm Đờ Cát), Tượng đài chiến thắng, Tượng đài kéo pháo, Sở chỉ huy chiến dịch Ðiện Biên Phủ…
Trong đó, đồi A1- cứ điểm quan trọng bậc nhất trong tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp, là nơi bất cứ du khách nào cũng muốn tới thăm khi đến đây. Qua 39 ngày đêm chiến đấu ác liệt, tại đây quân đội Việt Nam đào một đường hầm đặt khối thuốc nổ nặng gần 1000kg và cho điểm hỏa vào đêm ngày 6 tháng 5 năm 1954. Đến sáng 7-5-1954 ta đã làm chủ hoàn toàn cứ điểm A1 mở đường cho đợt tổng cơng kích cuối cùng vào sở chỉ tập đoàn cứ điểm giành thắng lợi hoàn toàn.
* Phát triển trong du lịch
Công tác bảo tồn, tơn tạo và phát huy giá trị Di tích lịch sử chiến trường Điện Biên Phủ trong những năm qua đã đạt được hiệu quả tích cực. Tuy nhiên vẫn cịn một số bất cập.Vấn đề cần nói đến đầu tiên, cũng là nỗi lo chung của toàn ngành là vốn đầu tư dành cho công tác Bảo tồn tơn tạo, trùng tu các di tích cịn thiếu và yếu. Vì vốn ít nên việc đầu tư mới chủ yếu ở những di tích quan trọng, gần trung tâm, cịn đối với những di tích xa trung tâm thì hầu như vẫn còn bỏ hoang, chưa được quy hoạch, khoanh vùng; kéo theo đó vấn đề về nhân lực tại các điểm di tích cũng hạn chế. Bên cạnh đó, tác động của thiên nhiên, thời tiết, các yếu tố ngoại vi mà đặc biệt là trải qua thời gian khá dài các di tích đang mất dần các yếu tố gốc và bị bào mòn trầm trọng. Ngày càng nhiều các hộ dân cư sinh sống xung quanh đang làm thay đổi môi trường, cảnh quan di tích, thậm chí là tình trạng xâm lấn di tích cũng đang diễn ra ngày càng nhiều khiến cho các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di tích bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên cũng đã chỉ đạo các đơn vị chức năng trực tiếp quản lý di tích đẩy mạnh việc nghiên cứu, bổ xung thơng tin khoa học cho di tích, sưu tầm các tư liệu, hiện vật liên quan đến di tích, khai thác các nguồn tài liệu, nhân chứng một cách toàn diện.
Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá giá trị di tích, phối hợp với chính quyền và nhân dân tại các địa bàn có di tích cùng phối hợp bảo vệ di tích, chống các hoạt động phá hoại di tích, nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của người dân trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử chiến trường Điện Biên Phủ. Bên cạnh đó cơng tác xã hội hóa trùng tu tơn tạo di tích cũng được đẩy mạnh và đã thu được những kết quả đáng kể. Hiện nay đối với một số di tích và hiện vật ngồi trời của di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ đã được xây dựng cơng trình mái che
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>Câu 7: Anh (chị) hãy trình bày khái niệm di tích kiến trúc nghệ thuật vàphân tích đặc điểm loại hình di tích này.</b>
Di tích kiến trúc nghệ thuật là những cơng trình kiến trúc, điêu khắc với quy mơ và tính chất khác nhau; các tác phẩm nghệ thuật của nhiều thời đại… chúng được tạo dựng để phục vụ đời sống tinh thần đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tơn giáo-thì ngữơng, văn hóa xã hội của các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
di tích kiến trúc nghệ thuật phản ánh tâm 4 tình cảm ước vọng của tầng lớp nhân dân thơng qua các cơng trình kiến trúc, các tác phẩm điêu khắc hội họa đồng thời chúng cũng phản ánh trình độ khả năng và điều kiện của cá nhân, + đồng dân cư trong những thời điểm nhất định của lịch sử dân tộc ở những nơi các di tích ra đời, tồn tại và phát triển
* Đặc điểm về vị trí xây dựng
- di tích kiến trúc nghệ thuật thường được đặt ở những nơi có phong cảnh thiên nhiên kỳ thú, sơn thủy hữu tình. Được xây dựng ở những nơi đã có sự lựa chọn về mặt phong thủy theo quan niệm truyền thống để có yếu tố “địa linh” để người dân thờ cúng mong muốn sản sinh ra “nhân kiệt”, “địa linh sinh phúc ấm sự”
- di tích kiến trúc nghệ thuật thường là những cơng trình thuộc các hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu công+, sở hữu tập thể, sở hữu 4 nhân hoặc các hình thức sở hữu khác nhưng điều phục vụ đời sống nhiều mặt của đông đảo quần chúng nhân dân
* đặc điểm về kiến trúc và trang trí kiến trúc - bố cục mặt bằng:
+ dạng 1: được xây dựng trên khu vực mặt bằng có nhiều cấp độ khác nhau, thường ứng với các cơng trình kiến trúc xây dựng ở các khu vực thuộc trung du và miền núi
+ dạng 2: các đơn ngun hoạc quần thể các cơng trình đều có chung một mặt bằng, chúng thường được xây dựng ở các khu đất tương đối cao so với xung quanh, đều có móng vững chắc, nằm ở khu vực đồng=, ven biển hải đảo
+ bình đồ hình chữ tam: gồm 3 cơng trình nằm song song với nhau vng góc với hướng của di tích
+ bình đồ hình chữ đinh, cịn gọi là chi vồ, bao gồm một tịa nhà vng góc với hướng của di tích, và phần hậu cung nối ở chính giữa phía sau của tịa nhà này
+ bình đồ hình chữ quốc, là di tích có nhiều cơng trình bộ phận được bố trí với nhau một cách liên hồn, trong đó có thể chứa đựng kiểu nội công ngoại quốc - kiến trúc chủ yếu là kiến trúc gỗ
+ kiến trúc truyền thống của các cơng trình thường là kiến trúc gỗ, phổ biến là gỗ lim và một số loại gỗ tứ thiết khác như đinh lim sến táu
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">+ các kết cấu gỗ được liên kết bởi hệ thống vì cái áo thơng qua các mộng và ngồm mà không cần đến sắt thép phải kim loại đống chốt
+ bên cạnh kiến trúc gỗ là chủ yếu, có sự kết hợp nhuần nhuyễn tinh tế khoa học với các chất liệu khác như gạch đá
+ Các bộ phận kiến trúc gỗ được liên kết chặt chẽ khoa học với nhau tạo giao bộ khung vững chắc mà các cột không cần chôn chân xuống đất gọi là kiến trúc nối kiến trúc nền tảng
-chủ đề trong trang trí kiến trúc:
+ chủ đề trang trí kiến trúc ở trong các cơng trình di tích truyền thống ln đề cao và tơn vinh thế quyền thẩm quyền
+ trang trí kiến trúc phản ánh một phần cuộc sống sinh hoạt mn mặt của các tầng lớp dân cư. Hình tượng cho anh trí ln là sự phản ánh và thể hiện một phần của cuốn “bách khoa thư tự nhiên” về thời kỳ mà di tích ra đời và tồn tại đặc biệt ghi dấu ấn ở vào thời điểm nó ra đời
+ hù dọa, nhắc nhở giới bình dân hoặc các tín đồ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>Câu 8: Anh (chị) hãy phân tích đặc điểm chung của di tích đình làng ViệtNam. Trình bày về di tích đình làng Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh) vàcho biết thực trạng bảo tồn, khai thác di tích đó trong phát triển du lịch.* Phân tích đặc điểm chung của di tích đình làng VN</b>
Kiến trúc đình làng gắn liền với khu sinh sống của dân làng, nối với ngõ, thôn… tuân theo các nguyên tắc phong thủy về địa lý, phía trước đình lành sẽ thống đãng có thể nhìn ra sơng nước, thường chọn vị trí theo hướng nam và đơng nam.
Đình làng là một ngơi nhà to lớn, rộng rãi và có thể được xem là một trong những ngôi nhà đẹp nhất Việt Nam thời cổ đại, được dựng lên bởi những cột gỗ to tròn thẳng tắp đặt trên những hịn đá lớn. Vì, kèo, xà dọc, xà ngang, xà gồ của đình cũng được làm làm bằng những loại gỗ tốt, có thể kể đến là gỗ lim. Tường của ngơi đình thường sẽ được xây dựng bằng gạch. Mái đình sẽ được lợp ngói mũi hài, hai đầu hồi làm bốn góc đầu đao cong hoặc xây bít đốc. Trên nóc kiến trúc đình thơng thường sẽ có hai con rồng chầu mặt nguyệt, người ta gọi đây là lưỡng long tranh châu hay lưỡng long chầu nguyệt.
Kiến trúc sân đình đồng thời được lát gạch. Phía trên đình làng được tạc hình con nghê, phía trước đình sẽ có hai cột trụ cao. Phía trong đình, có bàn thờ ở gian giữa, thờ cúng vị thần Thành hoàng, thần của làng. Trong đình cịn có một chiếc trống cái dùng để để đánh lên theo nhịp ngũ liên nhằm thúc giục dân trong làng tụ họp tại đình để bàn tính các cơng việc của làng. Nhiều đình cịn có các tấm bình phong, những nét điêu khắc thường thấy là Long Mã hoặc con hổ để trấn trạch.
Bên cạnh kiến trúc tổng thể của đình làng thì những bức tượng thờ, cửa võng trang trí, các bức chạm khắc, hoành phi câu đối…. trong các ngơi đình cũng là điểm nổi bật, mang ý nghĩa như kể lại một câu chuyện nào đó của làng. Điển hình như đình làng Diềm (Bắc Ninh), xây dựng vào cuối thế kỷ XVII. Trong gian giữa của đình là bức chạm cửa võng với nét chạm khắc tinh xảo hình vân mây, rồng, hoa bốn cánh… Đồng thời, ngơi đình cịn có nhiều hình khối chạm khắc nghệ thuật như những bức chạm: các cô thôn nữ, bát tiên, ông già ngồi đánh cờ… những khung cảnh sinh hoạt gần gũi này thể hiện những ao ước của người dân muốn có được cuộc sống bình yên và nhẹ nhàng. Nội dung của những bức chạm đồng thời cũng cho thấy tâm hồn bay bổng, mơ mộng của những nghệ nhân làng Việt thời bấy giờ.
Có thể nói, những người đã xây dựng những cơng trình đình lành đã gửi gắm một phần tâm trí của bản thân mình vào việc điêu khắc và chạm trổ. Đây không chỉ là một cơng trình kiến trúc mà cịn là nơi nghệ thuật dân gian sinh sôi và tỏa sáng. Những đường nét kiến trúc, chạm khắc trang trí của cơng trình cịn tồn tại cho đến ngày nay vẫn là những câu chuyện lịch sử, nó thể hiện sự tài hoa của những người thợ thủ công.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>* Giới thiệu về đình làng Đình Bảng</b>
<b> Cách Hà Nội 20km về phìa Bắc, Đình làng Đình Bảng (Đình Báng) thuộc</b>
thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh (xưa là Hương Cổ Pháp). Vùng địa linh này là quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010)
Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700 thời Hậu Lê kéo dài ba mươi sáu năm đến năm 1736 mới hoàn thành. Người hưng cơng là quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyện, q ở Thanh Hóa. Ơng bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngơi đình.
Đình Đình Bảng gồm tịa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chi vồ, cịn gọi theo dạng chữ Nho là kiểu "chữ đinh" 丁. Tịa đại đình dài 20 m, rộng 14 m, cao 8 m, phần mái rủ xuống đẹp đẽ chiếm tới 5,5 m tổng chiều cao.
Vẻ độc đáo của ngơi đình thể hiện ở khơng gian mái đình tỏa rộng, nét đồ sộ của những đầu đao, quy thức thích nghi với khí hậu gió mùa, và trang trí điêu khắc dày đặc.
Đình có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Đình được dựng trên nền cao có thềm bó bằng đá xanh. Đặc biệt, đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ bề thế cao 0,7 m so với mặt nền, sáu hàng cột ngang và mười hàng cột dọc bằng gỗ lim có đường kính từ 0,55m (với cột con) đến 0,65m (với cột mẹ) được kê trên các tảng đá xanh.
Nóc đình cao tới 8 mét với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) tạo nên cảm giác bề thế. Đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vươn xa nhất trong các cơng trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt Nam. Đình có cửa bức bàn bao quanh.
<b>* Khả năng khai thác trong du lịch</b>
Đình Đình Bảng là một di tích vơ cùng q báu đã được nhân dân trong vùng bảo vệ, gìn giữ trong suốt những năm dài kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Đến nay, ngôi đình đã và đang được nhân dân và các cấp uỷ Đảng, chính quyền trùng tu tơn tạo, trở thành một điểm du lịch văn hóa truyền thống đặc sắc của Bắc Ninh. Tuy nhiên lượng khách đến đình Đình Bảng phụ thuộc vào lượng khách đến Đền Đơ. Đình Đình Bảng chỉ là điểm tham quan bổ trợ khi du khách đã thăm đền Đơ. Thường thì có 1/3 lượng khách ở Đền Đơ sẽ ghé thăm đình Đình Bảng. Vì lượng khách đến đây ít và ở lại không lâu nên các dịch vụ du lịch ở đây khơng phát triển. Mặc dù có tiềm năng lớn để phát triển loại hình du lịch văn hóa nhưng đình Đình Bảng vẫn chưa thực sự thu hút du khách. Công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch ở đây chưa thực sự được chú trọng, vì vậy mà hoạt động du lịch tại đây chỉ mang tính chất tự phát của du khách chứ chưa có sự phối hợp của nhân dân địa phương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>Câu 9: Anh (chị) hãy phân tích đặc điểm chung của di tích tháp cổ Chămpa. giới thệu về quần thể di tích Thánh địa Mỹ Sơn và cho biết thực trạngbảo tồn, khai thác quần thể di tích đó trong phát triển du lịch.- (Vị trí,chức năng, lịch sử hình thành pt, công trinh kt tbieeu trục trạng bảo tồngthực trạng đưa vào du lịch ra sao)</b>
<b>* Đặc điểm chung cua di tích tháp cổ Cham Pa </b>
<b> Một trong những đặc điểm kiến trúc đền tháp Champa ở Việt Nam đó chính</b>
là mặt bằng tháp đa số là hình vng.
Vì diện tích xây dựng mỗi tịa tháp khá nhỏ nên khơng gian bên trong mỗi ngơi khá chật hẹp, thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông là hướng Mặt Trời mọc.
Giải thích về điều này, các nhà nghiên cứu cho rằng: Người cổ xưa ở đây quan niệm thế giới có hình vng, xung quanh là núi và đại dương bao bọc, chính giữa là một trục xuyên đến mặt trời. Vì thế, đặc điểm kiến trúc các ngôi đền tháp ở đây đều mô phỏng theo quan niệm đó.
Về bố cục tổng thể, một nhóm đền tháp Chăm Pa thường được bố cục theo một đường trục chạy giữa với hướng chính của các cơng trình thường mở ở phía Đơng – hướng mặt trời mọc cũng được quan niệm là hướng của thần thánh, của sự sinh sôi, nảy nở.
Về đại thể, đặc điểm kiến trúc đền tháp Champa ở Việt Nam có thể chia thành hai dạng:
Loại bố cục có một tháp trung tâm (tức là 1 Kalan): Tháp trung tâm là nơi thờ thần chủ Siva. Điều này cũng một phần phản ánh bối cảnh tôn giáo lúc bấy giờ, cho thấy lúc này người Chăm đã lựa chọn song quốc giáo cho riêng mình là Siva giáo.
Tiêu biểu cho loại bố cục này là một loạt nhóm đền tháp trong khu thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam), Po Nagar (Khánh Hoà), Poklong Garai (Ninh Thuận), …
Trong đó, tháp Yang Prong (Easup – Đắk Lắk) lại thờ thần Siva dưới dạng Mukhalinga, nhưng tháp bà Po Nagar thờ bà mẹ xứ sở, Quốc mẫu của người Chăm dưới sự ảnh hưởng của Siva giáo cho thấy sự dung hội giữa tín ngưỡng bản địa với Ấn Độ giáo, thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa tộc người Chăm với những bộ lạc sống trên cao nguyên phía Tây…
Loại bố cục bộ ba song hành (kiến trúc có 3 Kalan).
Đặc điểm kiến trúc đền tháp Champa ở Việt Nam theo dạng này có phần kiến trúc chủ thể gồm ba ngôi đền tháp đứng song hành theo trục Bắc – Nam, cùng quay mặt về hướng Đông, được gọi là những Kalan Nam, Kalan giữa hay Kalan Bắc, tùy theo vị trí đứng. Mỗi một ngơi đền tháp lại tương ứng với ba vị thần được thờ là: Brahma, Siva và Visnu.
Như vậy, trong những buổi đầu tiếp xúc với Ấn Độ giáo, cộng đồng người Chăm Pa tôn sùng cả ba vị thần này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Tuy nhiên, tháp thờ Siva (Kalan giữa) thường có kích thước lớn hơn hai tháp kia, một phần chứng tỏ trong đời sống người Chăm khi đó cũng đã manh nha xuất hiện việc lựa chọn vị thần chủ Siva cho mình.
<b>* giới thiệu quần thể di tích thánh địa mỹ sơn</b>
- Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi.
- chức năng hành lễ, giúp các vương triều tiếp cận với các Thánh thần, Mỹ Sơn còn là trung tâm văn hóa và tín ngưỡng của các triều đại Chămpa và là nơi chôn cất các vị vua, thầy tu nhiều quyền lực.
Những di vật đầu tiên được tìm thấy ghi dấu thời đại vua Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt) (trị vì từ năm 381 đến 413), vị vua đã xây dựng một Thánh đường để thờ cúng linga và Shiva. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc – thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong huy hồng q khứ, và về văn hóa – thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm bia.
Dựa trên các tấm bia văn tự khác, người ta biết nơi đây đã từng có một đền thờ đầu tiên được làm bằng gỗ vào thế kỷ IV. Hơn 2 thế kỷ sau đó, ngơi đền bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ VII, vua
Sambhuvarman (Phạm Phạn Chi) (trị vì từ năm 577 đến năm 629) đã dùng gạch để xây dựng lại ngơi đền cịn tồn tại đến ngày nay (có lẽ sau khi dời đô từ Khu Lật về Trà Kiệu). Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ và xây dựng các đền tháp mới để thờ các vị thần. Gạch là vật liệu tốt để lưu giữ ký ức của một dân tộc kỳ bí và kỹ thuật xây dựng tháp của người Chàm cho tới nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thích hợp về chất liệu gắn kết, phương thức nung gạch và xây dựng.
Những ngọn tháp và lăng mộ có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIV, nhưng các kết quả khai quật cho thấy các vua Chăm đã được chôn cất ở đây từ thế kỷ IV. Tổng số cơng trình kiến trúc là trên 70 chiếc. Thánh địa Mỹ Sơn có thể là trung tâm tơn giáo và văn hóa của nhà nước Chăm Pa khi thủ đô của quốc gia này là Trà Kiệu hay Đồng Dương.
Tại Thánh địa Mỹ Sơn có một đền xây dựng bằng đá, nó cũng là đền đá duy nhất của các di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn cho biết, đền này được trùng tu lần cuối cùng bằng đá vào năm 1234.Nhưng rất tiếc là xây dựng chưa hoàn thành. Khi người Pháp khám phá Mỹ Sơn nó có nền như ngày nay, phía trên là đống gạch khổng lồ mà họ phải dọn dẹp 2 tháng mới xong (theo Vòng tròn Mỹ Sơn, tác giả Parmentier, 1904) Ngày nay, ngơi đền này đã bị sập (có lẽ do bom Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, vì ngay sát tháp là một hố bom sâu hoắm vẫn dấu tích) nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30 m và đây là ngơi đền cao nhất của Thánh địa này. Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả năng đây là vị trí của ngơi đền đầu tiên vào thế kỷ IV.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Văn hóa Thế giới Mỹ Sơn gắn với phát triển du lịch bền vững; đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và kinh tế, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại trong công tác bảo tồn và phát huy di sản; tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về quản lý nhà nước, các Công ước Bảo tồn Di sản thế giới và Luật Di sản Văn hóa là quan điểm xuyên suốt trong việc bảo tồn và phát huy giá trị Di sản Văn hóa Thế giới Mỹ Sơn đang được huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam thực hiện.
</div>