Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 90 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>Sinh viên thực hiện: Bùi Minh Ánh Đinh Thùy Linh </b>
<b>Lương Hoàng Ngọc Linh </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>LỜI CAM ĐOAN </b>
Chúng tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng nhóm chúng tơi. Các dữ liệu sử dụng phân tích trong bài nghiên cứu khoa học có nguồn gốc rõ ràng, đã cơng bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong bài nghiên cứu do chúng tơi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
<b>Nhóm tác giả </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>LỜI CẢM ƠN </b>
Đầu tiên, chúng tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Đặng Xuân Huy - giảng viên hướng dẫn đề tài. Thầy đã dành nhiều thời gian, tâm huyết và sự tận tình hướng dẫn, góp ý giúp chúng tơi hồn thành đề tài một cách tốt nhất. Những kiến thức, kinh nghiệm và lời khuyên quý báu của thầy là nguồn động lực to lớn giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn trong q trình nghiên cứu.
Đồng thời, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đơn vị như Thư viện trường Đại học Thương mại, các đơn vị, tổ chức đã hỗ trợ chúng tôi về mặt tài liệu, dữ liệu và thông tin cần thiết cho đề tài. Nhờ sự hỗ trợ của các đơn vị, tổ chức này, chúng tôi có thể thu thập được những thơng tin q giá để hoàn thiện đề tài nghiên cứu này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng hết sức, song bài nghiên cứu có thể cịn những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy/cô trường Đại học Thương mại nói chung và các thầy/cơ Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế nói riêng để bài nghiên cứu được hồn thiện nhất.
<b>Nhóm tác giả </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>MỤC LỤC </b>
<b>CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ... 1 </b>
1.1. Sơ lược vấn đề nghiên cứu ... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ... 2
1.2.1. Mục tiêu chung ... 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể ... 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 2
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu ... 2
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu ... 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ... 3
1.5. Đóng góp của nghiên cứu ... 3
1.5.1. Đóng góp về khoa học ... 3
1.5.2. Đóng góp về thực tiễn ... 4
1.6. Cấu trúc của nghiên cứu ... 4
<b>CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ... 5 </b>
2.1. Các khái niệm liên quan ... 5
2.2 Tổng quan các nghiên cứu có nghiên cứu có liên quan ... 12
2.2.1 Tổng quan các nghiên cứu quốc tế ... 12
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">2.2.2 Tổng quan các nghiên cứu trong nước ... 14
2.3 Khoảng trống trong các nghiên cứu liên quan ... 17
<b>CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 19 </b>
3.1. Phương pháp nghiên cứu ... 19
3.2. Mơ hình nghiên cứu ... 19
3.2.1 Dân số của Việt Nam ... 20
3.2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài ... 20
3.2.3 Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam ... 21
3.2.4 Kim ngạch xuất khẩu ... 22
3.2.5 Lượng phát thải khí CO<sub>2</sub> của Việt Nam ... 22
3.2.6 Đại dịch COVID - 19 ... 24
3.3 Phương pháp thu thập dữ liệu ... 25
3.4 Phương pháp xử lý dữ liệu ... 26
<b>CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ ĐÁNH GIÁ ... 28 </b>
4.1 Tổng quan về thực trạng vấn đề nghiên cứu ... 28
4.1.1 Năng lực sản xuất, xuất khẩu mặt hàng nhôm, sắt thép, xi măng của Việt Nam
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">4.2 Kết quả phân tích các nhân tố ảnh hưởng ... 51
4.2.2 Phân tích độ tin cậy Cronbach’s Alpha ... 55
4.2.3 Phân tích nhân tố khám phá EFA ... 56
4.2.4 Phân tích hồi quy OLS ... 58
4.3 Đánh giá kết quả... 59
<b>CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ... 62 </b>
5.1 Tóm tắt lại các phát hiện của nghiên cứu: ... 62
5.2 Những đóng góp của nghiên cứu ... 62
5.2.1 Đóng góp vào lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu ... 62
5.2.2 Đóng góp vào thực tiễn vấn đề nghiên cứu ... 62
5.3 Một số khuyến nghị:... 63
5.3.1 Đối với doanh nghiệp xuất khẩu: ... 63
5.3.2 Đối với cơ quan quản lý nhà nước: ... 66
<b>KẾT LUẬN ... 68 </b>
<b>TÀI LIỆU LIỆU THAM KHẢO ... i </b>
<b>PHỤ LỤC ... vi </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT </b>
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Association of South East Asian Nations
AFOLU Nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất
Agriculture, Forestry and Other Land Use
ARDL Mơ hình tự phân phối độ trễ hồi quy
<b>Autoregressive Distributed Lag </b>
BOF Sản xuất thép oxy kiềm Basic Oxygen Steelmaking CBAM Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon Carbon Border Adjustment Mechanism
EAF Cơng nghệ luyện thép bằng lị điện hồ quang
Electric arc furnace
EVFTA Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU
European Union-Vietnam Free Trade Agreement
GHG Tổng lượng phát thải khí nhà kính Greenhouse gas emissions IEA Cơ quan năng lượng quốc tế International Energy Agency IMF Quỹ tiền tệ thế giới International Monetary Fund IPCC Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi
Khí hậu
Intergovernmental Panel on Climate Change
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">IPPU Quy trình cơng nghiệp và sử dụng sản phẩm
Industrial processes and product uses
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Organization for Economic Cooperation and Development
OLS Mơ hình quy hồi tuyến tính Ordinary Least Squares SWDS Hệ thống tiêu hủy chất thải rắn Solid Waste Destruction System
VSA Hiệp hội thép việt Nam Vietnam steel association
WTO Tổ chức thương mại thế giới World trade organization
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>DANH MỤC HÌNH </b>
Hình 3. 1. Mơ hình nghiên cứu ... 25
Hình 4. 1. Q trình sản xuất nhơm... 28
Hình 4. 2 Cơ cấu trữ lượng bơ xít trên thế giới năm 2022 ... 28
Hình 4. 3. Sản lượng sản xuất một số sản phẩm thép chính của Việt Nam giai đoạn 2016 – 2022 ... 31
Hình 4. 4. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng sắt thép của Việt Nam ... 33
Hình 4. 5. Cơ cấu thị trường xuất khẩu mặt hàng sắt thép và các sản phẩm sắt thép của Việt Nam giai đoạn 2016 – 2022 ... 34
Hình 4. 6. Sản lượng sản xuất xi măng tại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2022 ... 35
Hình 4. 7. Kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trong Tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam mặt hàng xi măng giai đoạn 2016 – 2022 ... 36
Hình 4. 8. Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu mặt hàng xi măng của Việt Nam theo thị trường giai đoạn 2016-2022 ... 37
Hình 4. 9. Kim ngạch xuất khẩu nhôm của Việt Nam sang EU giai đoạn 2012-2021 ... 39
Hình 4. 10. Kim ngạch xuất khẩu sắt thép của Việt Nam sang EU ... 42
Hình 4. 11. Kim ngạch xuất khẩu xi măng của Việt Nam sang EU ... 43
Hình 4. 12. Tổng phát thải CO<sub>2</sub> và CO<sub>2</sub> bình quân đầu người theo các nước đại diện ... 50
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>DANH MỤC BẢNG </b>
Bảng 4. 1. Sản lượng nhôm của Việt Nam giai đoạn 2018-2021 ... 29
Bảng 4. 2. Giá trị xuất khẩu nhôm của Việt Nam giai đoạn 2018-2022 ... 30
Bảng 4. 3. Phát thải khí nhà kính của Việt Nam giai đoạn 1994 - 2014 ... 47
Bảng 4. 4. Lượng phát thải cụ thể của các loại khí nhà kính ... 48
Bảng 4. 5. Kết quả phát thải, hấp thụ khí nhà kính 2016 ... 49
Bảng 4. 6. Thống kê mô tả dân số Việt Nam ... 52
Bảng 4. 7. Thống kê mô tả FDI đầu tư vào Việt Nam ... 52
Bảng 4. 8. Thống kê mô tả GDP của Việt Nam ... 53
Bảng 4. 9. Thống kê mô tả kim ngạch xuất khẩu ra thế giới không bao gồm nhôm, sắt thép và xi măng sang thị trường EU của Việt Nam ... 53
Bảng 4. 10. Thống kê mô tả tổng kim ngạch xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị trường EU ... 54
Bảng 4. 11. Thống kê mơ tả lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam ... 54
Bảng 4. 12. Hệ số độ tin cậy Cronbach’s Alpha của các nhân tố... 55
Bảng 4. 13. Hệ số KMO và Kiểm định BARLET ... 56
Bảng 4. 14. Phương sai trích ... 57
Bảng 4. 15. Phân tích hồi quy OLS ... 58
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Sơ lược vấn đề nghiên cứu </b>
Hiện nay, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) có tác động trực tiếp đến ba ngành cơng nghiệp chính của Việt Nam bao gồm nhôm, sắt thép và xi măng. Đây đều không phải những ngành xuất khẩu mạnh của nước ta sang EU, do đó, trong ngắn hạn, xuất khẩu tổng thể của Việt Nam sang EU sẽ không bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tuy nhiên, về cơ bản việc áp dụng CBAM sẽ làm tăng giá hàng hóa xuất khẩu, do đó làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam và kéo theo đó là những ảnh hưởng tới nhu cầu tại thị trường EU đối với sản phẩm nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam.
Nhằm đánh giá các tác động của chính sách CBAM đến Việt Nam, nhóm đã tiến hành nghiên cứu, khảo sát trên ba lĩnh vực hiện có hàng hóa xuất khẩu đáng kể vào thị trường EU bao gồm: nhôm, sắt thép và xi măng. Xét về tổng thể toàn bộ nền kinh tế, tác động của chính sách CBAM không lớn, nhưng đối với từng ngành hàng, từng doanh nghiệp, giá trị xuất khẩu giảm đi là con số không nhỏ, làm gia tăng áp lực với các doanh nghiệp.
Sau khi chính sách CBAM được áp dụng, một phản ứng dây chuyền có thể xảy ra khi các thị trường phát triển khác, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada và Nhật Bản đưa ra các cơ chế riêng của họ để giảm lượng phát thải khí nhà kính (GHGs) khi nhập khẩu. Hiện tại, Hoa Kỳ đang xây dựng Đạo luật cạnh tranh Sạch (Clean Competition Act - CCA), bản dự luật lần một đã được ban hành vào tháng 7 năm 2021. Đạo luật cạnh tranh Sạch (CCA) bao gồm 25 lĩnh vực, chẳng hạn như dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, phân bón, sắt thép, giấy thủy tinh và các lĩnh vực khác. Giá carbon đề xuất là 85 EUR/tấn CO<sub>2</sub> với mức tăng điều chỉnh mỗi năm. Thuế carbon sẽ áp dụng cho phần chênh lệch giữa lượng phát thải thực tế và lượng phát thải cơ bản của Hoa Kỳ.
Để đáp ứng cơ chế này của EU, Việt Nam nên lựa chọn giải pháp chấp nhận cơ chế CBAM và tìm cách giảm thiểu tác động của cơ chế này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><b>1.2. Mục tiêu nghiên cứu </b>
<b>1.2.1. Mục tiêu chung </b>
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định tác động của xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị trường EU đến phát thải khí nhà kính, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao năng lực xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị trường EU đến phát thải khí nhà kính trong bối cảnh thực thi cơ chế CBAM.
<b>1.2.2. Mục tiêu cụ thể </b>
Đánh giá mức độ tác động của xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị trường EU đến phát thải khí nhà kính.
Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả của xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị trường EU đến phát thải khí nhà kính trong bối cảnh thực thi cơ chế CBAM.
<b>1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>
<b>1.3.1. Đối tượng nghiên cứu </b>
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Tác động của xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị trường EU đến phát thải khí nhà kính tại quốc gia này”.
<b>1.3.2. Phạm vi nghiên cứu </b>
Phạm vi không gian: Việt Nam
Phạm vi thời gian: từ năm 1900 đến năm 2021
Phạm vi nội dung: Tác động của xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng sang thị trường EU đến phát thải khí nhà kính, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của xuất khẩu nhôm, xi măng, sắt thép của Việt Nam sang thị trường EU đến phát thải khí nhà kính trong bối cảnh thực thi cơ chế CBAM.
Phạm vi mặt hàng: Theo quy định của CBAM, các mặt hàng hiện đang áp dụng cơ chế này bao gồm nhôm, sắt thép và xi măng thuộc chương 25 (HS 2523), 72, 73 và 76. Đây là những lĩnh vực chiếm tới 94% lượng khí thải cơng nghiệp của EU.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>1.4. Phương pháp nghiên cứu </b>
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu định lượng.
<i>Nghiên cứu định lượng (Quantitative research) là phương pháp thu thập các thông </i>
tin và dữ liệu dưới dạng số học, số liệu có tính chất thống kê để có được những thơng tin cơ bản, tổng quát về đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ mục đích thống kê, phân tích; hay nói cách khác là lượng hóa việc thu thập và phân tích dữ liệu. Các thông tin, dữ liệu thường được thu thập thông qua khảo sát sử dụng bảng hỏi trên diện rộng và thường được áp dụng trong trường hợp mẫu nghiên cứu lớn.
Nhóm quyết định sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng bởi những lý do sau đây:
Tính khách quan khoa học: Dữ liệu định lượng có thể được giải thích bằng phân tích thống kê và vì thống kê dựa trên các nguyên tắc toán học, nên phương pháp định lượng được xem là phương pháp khoa học và hợp lý. Vì thế nghiên cứu định lượng hồn tồn phù hợp để kiểm định các giả thiết được đặt ra.
Độ tin cậy cao của kết quả nghiên cứu, tính đại diện cao nên kết quả nghiên cứu định lượng có thể khái qt hóa lên cho tổng thể mẫu.
Phân tích nhanh chóng: Các phần mềm phân tích giúp việc xử lý lượng lớn dữ liệu một cách nhanh chóng và chính xác. Hạn chế đến mức thấp những lỗi kỹ thuật có thể phát sinh do yếu tố con người trong xử lý số liệu.
<b>1.5. Đóng góp của nghiên cứu 1.5.1. Đóng góp về khoa học </b>
Đề tài xây dựng được mơ hình tác động của xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị trường EU đến lượng phát thải khí nhà kính và phân tích định lượng mức độ ảnh hưởng của các tác động đó. Từ đó, đóng góp nhất định vào khung pháp lý luận và nghiên cứu khoa học về các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><b>1.5.2. Đóng góp về thực tiễn </b>
Đề tài nghiên cứu cung cấp các dữ liệu về tình hình xuất khẩu nhơm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị trường EU đối với phát thải khí nhà kính trong giai đoạn gần đây, đồng thời có kiến nghị giải pháp giúp cải thiện hoạt động xuất khẩu nhôm, xi măng, và sắt thép của Việt Nam sang thị trường EU trong bối cảnh thực thi cơ chế CBAM. Kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp xuất khẩu nhôm, xi măng, và sắt thép của Việt Nam.
<b>1.6. Cấu trúc của nghiên cứu </b>
Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, danh mục hình, danh mục bảng, tài liệu tham khảo, bài báo cáo đề tài nghiên cứu được kết cấu như sau:
● Chương 1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu ● Chương 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ● Chương 3. Phương pháp nghiên cứu ● Chương 4. Kết quả nghiên cứu ● Chương 5. Kết luận và kiến nghị
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><b>CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU </b>
Chương 2 “Tổng quan vấn đề nghiên cứu” đóng vai trò là khung nền tảng cho nghiên cứu, cung cấp cái nhìn tổng quan toàn diện về các khái niệm và lý thuyết chính liên quan đến chủ đề nghiên cứu. Việc nắm vững những yếu tố này là cần thiết để phát triển các phương pháp nghiên cứu hiệu quả trong các chương tiếp theo. Chương này sẽ làm sáng tỏ các khái niệm này dựa trên những góc nhìn đa dạng từ các cá nhân, tổ chức, cơ quan khác nhau, từ đó xây dựng nên cái nhìn khách quan, đa diện về vấn đề nghiên cứu. Các khái niệm được đề cập sẽ bao gồm: xuất khẩu, khí nhà kính, dân số, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và chính sách Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Ngoài ra, chương 2 sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan tồn diện về các nghiên cứu trong nước và quốc tế có liên quan đến chủ đề nghiên cứu. Mỗi nghiên cứu đều thể hiện những điểm tương đồng và khác biệt về phương pháp, phạm vi và kết quả. Thông qua việc tìm hiểu các bài nghiên cứu liên quan, nhóm tác giả xác định những điểm mạnh và hạn chế của các nghiên cứu trước đây, nêu bật những vấn đề chưa được giải quyết cần được chú ý trong nghiên cứu này và những nỗ lực nghiên cứu trong tương lai, đồng thời tránh lặp lại những nghiên cứu đã được thực hiện. Phần đánh giá các nghiên cứu cũng đóng vai trị là cơ sở để lựa chọn một phương pháp nghiên cứu phù hợp phù hợp với mục tiêu, dữ liệu và giả thuyết nghiên cứu.
<b>2.1. Các khái niệm liên quan </b>
<b>2.1.1 Xuất khẩu </b>
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động đưa hàng hoá ra khỏi một nước (từ quốc gia này sang quốc gia khác) để bán trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán hoặc trao đổi lấy một hàng hố khác có giá trị tương đương (Belay S., 2009). Nói một cách khái quát, xuất khẩu hàng hoá là việc đưa hàng hố ra nước ngồi để thực hiện giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá. Xuất khẩu tăng trưởng cao là sự gia tăng về kim ngạch, giá trị xuất khẩu. Ngô Thị Mỹ và Trần Nhuận Kiên (2016) cho rằng xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với phần còn lại của thế giới dưới hình thức mua bán thơng qua quan hệ thị trường nhằm mục đích khai thác lợi thế của đất nước trong phân công lao động quốc tế để đem lại lợi ích cho quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">với phạm vi vượt ra khỏi biên giới quốc gia hoặc là hoạt động buôn bán của một nước với nước khác trên phạm vi quốc tế (Nguyễn Văn Tuấn, 2008). Đây không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là cả hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngồi nhằm thúc đẩy hàng hóa phát triển ổn định đem lại lợi ích cho quốc gia.
Theo khoản 1, Điều 28, Chương 2 Luật Thương mại Việt Nam (2005), xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Hiểu theo cách khái quát, xuất khẩu là một hình thức bán hàng cho nước ngoài để thu về lợi nhuận cho doanh nghiệp và quốc gia.
Có nhiều khái niệm khác nhau về xuất khẩu, dưới góc độ tiếp cận của bài nghiên cứu, xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với phần cịn lại của thế giới dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ thị trường nhằm mục đích khai thác lợi thế của đất nước trong phân công lao động quốc tế để đem lại lợi ích cho quốc gia.
<b>2.1.2 Khí nhà kính </b>
Theo Michael E. Mann (1998), Khí nhà kính là bất kỳ loại khí nào có khả năng hấp thụ bức xạ hồng ngoại (năng lượng nhiệt tỏa ra) từ bề mặt Trái Đất và phát lại nó trở lại bề mặt Trái Đất, góp phần tạo nên hiệu ứng nhà kính. Khí nhà kính quan trọng nhất bao gồm carbon dioxide (CO<sub>2</sub>), methane (CH<sub>4</sub>) và hơi nước (H<sub>2</sub>O). Mặc dù chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số các khí trong khí quyển, nhưng khí nhà kính lại có ảnh hưởng sâu sắc đến cân bằng năng lượng của hệ thống Trái Đất. Định nghĩa này khá tương đồng với khái niệm khí nhà kính được IPCC (2014) đưa ra: "Khí nhà kính là những thành phần khí trong khí quyển có thể hấp thụ và phát ra bức xạ trong dải hồng ngoại nhiệt, giữ nhiệt trong khí quyển". Các ví dụ về khí nhà kính trong khí quyển bao gồm hơi nước, carbon dioxide, methane và oxit nitơ.
Trong đó, Carbon dioxide được định nghĩa là một hợp chất hóa học bao gồm hai nguyên tử oxy liên kết cộng hóa trị với một nguyên tử carbon. CO<sub>2</sub> là khí ở trạng thái nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn và có mặt trong bầu khí quyển Trái đất. CO<sub>2</sub> là một loại khí
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">khơng màu, khơng mùi, được tạo ra bởi tất cả động vật, thực vật, nấm và vi sinh vật. Ngồi ra, CO<sub>2</sub> cịn được tạo ra từ tác dụng phụ của việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch.
Andrew A. Lacis, Gavin A. Schmidt, David Rind, Reto A. Rued (2010) cũng cho rằng carbon dioxide (CO<sub>2</sub>) là loại khí nhà kính quan trọng nhất liên quan đến khí hậu trong bầu khí quyển Trái đất. Khi xem xét sâu hơn cho thấy CO<sub>2</sub> là chất kiểm sốt biến đổi khí hậu. CO<small>2</small> là một loại khí được trộn đều, khơng ngưng tụ hoặc kết tủa từ khí quyển. Như vậy có thể khẳng định sự gia tăng nồng độ CO<sub>2</sub> do hoạt động của con người là nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu trên tồn cầu. Khí nhà kính, đặc biệt là khí thải carbon dioxide (CO<sub>2</sub>), được coi là một trong những nguyên nhân cốt lõi gây ra biến đổi khí hậu và nó đã trở thành một trong những vấn đề môi trường quan trọng nhất trên thế giới (Rehman et al. (2021a)).
<b>2.1.3 Dân số </b>
Theo khái niệm của Tổng cục Thống kê Việt Nam, dân số là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính. Dân số là một khái niệm quan trọng trong sinh học con người, đề cập đến tổng số cư dân sinh sống trong một khu vực nhất định. Quy mô dân số liên tục thay đổi do các yếu tố như sinh đẻ, tử vong, di cư. Giống như bất kỳ quần thể sinh vật nào, quy mô dân số con người bị giới hạn bởi nguồn cung cấp thực phẩm, ảnh hưởng của bệnh tật và các yếu tố môi trường khác. Bên cạnh những yếu tố sinh học, dân số con người còn chịu ảnh hưởng bởi các phong tục xã hội chi phối việc sinh sản và sự phát triển công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế và y tế công cộng, giúp giảm tỷ lệ tử vong và kéo dài tuổi thọ.
Về mặt thống kê, dân số là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý, vùng kinh tế hoặc một đơn vị hành chính, với quy mô dân số tại một thời điểm nhất định. Thuật ngữ dân số không chỉ hàm chứa số dân mà còn phản ánh chất lượng của dân số như kết cấu, sự phân bố, trình độ văn hố. Chất lượng dân số ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của một quốc gia hoặc khu vực.
Martínez-Mesa (2014) đã đưa ra định nghĩa rằng: “dân số là một nhóm cá thể bị giới hạn trong một vùng địa lý (khu phố, thành phố, bang, quốc gia, lục địa, v.v.) hoặc một số tổ chức nhất định (bệnh viện, trường học, trung tâm y tế, v.v.). Nói cách khác, dân số là
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">một tập hợp các cá thể có ít nhất một đặc điểm chung”. Định nghĩa này tập trung vào yếu tố giới hạn địa lý và đặc điểm chung của các cá thể trong một nhóm, giúp làm rõ và cụ thể hóa khái niệm dân số trong sinh học con người.
<b>2.1.4 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) </b>
FDI là viết tắt của cụm từ “Foreign Direct Investment” – Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khái niệm này có thể được giải thích bằng việc định nghĩa hai cấu thành của nó: đầu tư trực tiếp và đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp là hình thức chủ đầu tư bỏ ra một lượng tài sản đủ lớn để lập cơ sở sản xuất mới hoặc mua lại các cơ sở sản xuất hiện có và trực tiếp quản lý các tài sản đó. Hình thức đầu tư này cịn được gọi là đầu tư phát triển (Nhạ, 2013). Hình thức đầu tư này có sự phân biệt tương đối với đầu tư gián tiếp: trong đầu tư gián tiếp, chủ đầu tư bỏ ra tài sản (chủ yếu dưới dạng vốn) để mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu, v.v…. nhằm hưởng lợi tức mà không trực tiếp quản lý những tài sản ấy (Nhạ, 2013).
Đầu tư nước ngoài bao hàm sự dịch chuyển dòng vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác, đem lại cho chủ đầu tư nước ngoài cả quyền hạn và tài sản từ hoạt động của đối tượng nhận đầu tư (Chen, 2020). Có thể nói một cách nơm na rằng đầu tư nước ngồi là nguồn đầu tư cho một quốc gia đến từ chủ đầu tư ở quốc gia khác.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động đầu tư có quy mơ lớn trong dài hạn của một cá nhân, hoặc pháp nhân ở một quốc gia để lập cơ sở sản xuất mới hoặc mua lại cơ sở sản xuất cũ và trực tiếp quản lý, thu lợi ích từ các cơ sở đó. Nói chung, thuật ngữ này được sử dụng để nói về một quyết định kinh doanh để nhận được tầm ảnh hưởng lớn trong một doanh nghiệp nước ngồi (hoặc mua lại nó hồn tồn) để mở rộng hoạt động của nó và kiếm được lợi nhuận từ nó.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được quỹ tiền tệ thế giới (IMF) đưa ra định nghĩa như sau: “FDI là một hoạt động nhằm đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp” (Hernando, 2003).
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Tại Việt Nam thời kỳ đầu thu hút FDI, định nghĩa về khái niệm này từng được quy định trong một số các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư. Chẳng hạn: “"Đầu tư nước ngoài" là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của Luật này” (K. V. QHVN, 1987). Tuy nhiên, các văn bản pháp luật về lĩnh vực ngày nay khơng cịn quy định hay giải thích cụ thể về khái niệm này, thể hiện cái nhìn tiến bộ, tích cực và can thiệp vào nền kinh tế ít hơn, tuân thủ cơ chế thị trường hơn của nhà lập pháp.
<b>2.1.5 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) </b>
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một trong những chỉ tiêu kinh tế quan trọng nhất, phản ánh kết quả sản xuất của một nền kinh tế. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm GDP, nhưng nhìn chung, các quan điểm này đều thống nhất rằng GDP là tổng giá trị bằng tiền của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một quốc gia trong một năm.
Nicolas Gregory Manki - nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng GDP là chỉ tiêu tốt nhất để phản ánh hoạt động của nền kinh tế. Theo ông: “GDP bằng tổng thu nhập của mọi người trong nền kinh tế và tổng chi tiêu để mua sản lượng hàng hóa, dịch vụ của nền kinh tế”. GDP là thước đo thành tựu kinh tế, vì nó phản ánh cái mà mọi người quan tâm đó là thu nhập của họ. GDP là chỉ tiêu quan trọng để tính tốn các chỉ tiêu có liên quan trong nền kinh tế.
Paul Anthony Samuelson là một nhà kinh tế học người Mỹ, đại biểu của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp. Khi đề cập đến kết quả sản xuất của một nền kinh tế, Paul Anthony Samuelson cho rằng GDP là thước đo toàn diện nhất về tổng sản lượng của các hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia. Nó phản ánh tổng giá trị bằng tiền của tiêu dùng, tổng đầu tư, mua sắm hàng hóa và dịch vụ của chính phủ và xuất khẩu rịng được sản xuất trong một quốc gia trong một năm. Theo Ông: “GDP là tổng giá trị bằng tiền của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một quốc gia trong một
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">năm”. GDP là cơ sở để tính tốn nhiều chỉ tiêu với nhiều mục đích khác nhau nhưng quan trọng nhất là để đo lường kết quả sản xuất chung của nền kinh tế.
GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng tiếp cận GDP từ góc độ sản xuất. Theo bà, GDP là tồn bộ giá trị tăng thêm của các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ được tạo ra do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ một nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm). Quan điểm này nhấn mạnh đến tính chất là giá trị tăng thêm của GDP. Giá trị tăng thêm là giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất, sau khi trừ đi chi phí trung gian. Giá trị tăng thêm phản ánh năng suất lao động của nền kinh tế.
GS.TS Phan Công Nghĩa cho rằng GDP là một bộ phận của giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ đi chi phí trung gian. Đó là một phận giá trị mới do lao động sản xuất tạo ra và khấu hao tài sản cố định trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Quan điểm này có cách diễn đạt tương tự như quan điểm của GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng, nhưng nhấn mạnh đến tính chất là giá trị mới được tạo ra của GDP.
<b>2.1.6 Chính sách CBAM </b>
Theo European Commission (Ủy ban châu Âu), CBAM là từ viết tắt của Carbon Border Adjustment Mechanism có nghĩa là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU (CBAM) là cơng cụ mang tính bước ngoặt của Ủy ban châu Âu nhằm đưa ra mức giá hợp lý cho lượng carbon thải ra trong quá trình sản xuất hàng hóa sử dụng nhiều carbon vào EU và khuyến khích sản xuất cơng nghiệp sạch hơn ở các nước ngoài EU. Việc áp dụng dần dần Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) phù hợp với việc loại bỏ dần việc phân bổ các khoản phụ cấp miễn phí theo Hệ thống mua bán phát thải của EU (ETS) để hỗ trợ quá trình khử cacbon của ngành công nghiệp EU. Bằng cách xác nhận rằng mức giá đã được trả cho lượng khí thải carbon gắn vào được tạo ra trong quá trình sản xuất một số hàng hóa nhập khẩu vào EU, CBAM sẽ đảm bảo giá carbon nhập khẩu tương đương với giá carbon của sản xuất trong nước và các mục tiêu về khí hậu của EU không bị suy yếu. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU (CBAM) được thiết kế để tương thích với các quy định của Tổ Chức Thương mại Thế giới (WTO).
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU (CBAM) ban đầu sẽ áp dụng đối với việc nhập khẩu các hàng hóa sau (Phụ lục 1):
Các lĩnh vực này đã được lựa chọn theo các tiêu chí cụ thể, đặc biệt là những lĩnh vực có rủi ro cao về rị rỉ carbon và cường độ phát thải cao mà cuối cùng sẽ - một khi được thực hiện hoàn toàn - đại diện cho hơn 50% lượng khí thải của các ngành công nghiệp nằm trong phạm vi ETS. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU (CBAM) sẽ áp dụng đối với lượng phát thải trực tiếp khí nhà kính phát ra trong q trình sản xuất các sản phẩm được đề cập, cũng như phát thải gián tiếp cho một tập hợp con của những sản phẩm đó (như xi măng và phân bón). Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU (CBAM) quy định rằng phân tích sẽ cần phải được thực hiện trước khi đưa lượng phát thải gián tiếp vào các sản phẩm tiếp theo trong tương lai. Việc đánh giá hoạt động tổng thể của Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của EU (CBAM) trong giai đoạn chuyển tiếp sẽ cũng phải được ký kết trước khi hệ thống chính thức có hiệu lực.
Lộ trình thực hiện CBAM: Cơ chế CBAM được chia thành ba giai đoạn (Phụ lục 2):
<b>Giai đoạn chuyển tiếp: Từ ngày 01/10/2023 đến cuối năm 2025, các nhà nhập khẩu </b>
phải báo cáo lượng hàng hóa chịu tác động của CBAM. Giai đoạn báo cáo đầu tiên cho các nhà nhập khẩu kết thúc vào ngày 31/01/2024. Trong giai đoạn chuyển tiếp, nhà nhập khẩu EU sẽ khơng phải thực hiện điều chỉnh tài chính nào. CBAM ban đầu sẽ tập trung vào các nhóm hàng hóa có nguy cơ rị rỉ carbon cao nhất, bao gồm: xi măng, sắt và thép, nhôm, phân bón, Hydrogen và điện. Đây là những lĩnh vực chiếm tới 94% lượng khí thải cơng nghiệp của EU. Cuối giai đoạn này, tức năm 2025, Ủy ban châu Âu (EC) sẽ đánh giá về hoạt động của CBAM và có thể mở rộng phạm vi sang nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn, bao gồm cả chuỗi giá trị và có thể bao gồm phát thải gián tiếp. Đồng thời, phạm vi sản phẩm sẽ được xem xét lại vào cuối giai đoạn chuyển tiếp để đánh giá tính khả thi của việc
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">bao gồm các hàng hóa khác đã được Hệ thống mua bán phát thải của Liên minh Châu Âu (EU ETC) điều chỉnh và dễ bị rò rỉ carbon, chẳng hạn như một số sản phẩm cuối nguồn và những sản phẩm được xác định là ứng cử viên phù hợp trong q trình đàm phán (tức là hóa chất và polyme). Báo cáo sẽ bao gồm một thời gian biểu xác định sự tham gia của họ vào năm 2030.
<b>Giai đoạn 2026-2034, CBAM bắt đầu vận hành, các nhà nhập khẩu hàng hóa thuộc </b>
phạm vi điều chỉnh của CBAM tại EU sẽ phải mua chứng chỉ CBAM. Trước ngày 31/5 hàng năm, nhà nhập khẩu EU phải khai báo về số lượng hàng hóa và phát thải gắn liền trong những hàng hóa được nhập khẩu của năm trước. Đồng thời, nhà nhập khẩu nộp lại số lượng chứng chỉ CBAM tương ứng với lượng phát thải khí nhà kính có trong sản phẩm. EU sẽ loại bỏ dần việc phân bổ miễn phí hạn ngạch phát thải khí nhà kính. Từ năm
<b>2034, CBAM chính thức vận hành tồn bộ, các doanh nghiệp sẽ phải nộp 100% phí </b>
CBAM.
Theo nhóm tư vấn tại Hội thảo, những nội dung chưa chắc chắn của CBAM bao gồm: phạm vi áp dụng (có thể mở rộng để bao trùm phát thải gián tiếp, và sang các ngành hàng khác thuộc Hệ thống mua bán phát thải của Liên minh Châu Âu (EU)?); tính tốn suất phát thải (chưa rõ cách xác định đường biên hệ thống, chưa rõ các nguyên liệu đầu vào nào sẽ chịu tính suất phát thải, chưa rõ giá trị mặc định sẽ được tính tốn và điều chỉnh như thế nào?); sử dụng tín chỉ bù trừ (chưa rõ tín chỉ carbon có được bù trừ cho chứng chỉ CBAM hay không?).
Đối với Việt Nam, theo nguyên tắc về phạm vi sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi CBAM, bốn nhóm hàng bao gồm: sắt thép, nhơm, xi măng và phân bón xuất khẩu sang EU sẽ phải nộp “thuế” carbon theo quy định.
<b>2.2 Tổng quan các nghiên cứu có nghiên cứu có liên quan </b>
<b>2.2.1 Tổng quan các nghiên cứu quốc tế </b>
Trong thập kỷ qua, việc gia tăng tiêu thụ năng lượng làm tăng lượng khí thải carbon dioxide trở thành vấn đề toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển đang tiến hành cơng nghiệp hóa để trở thành những nước phát triển như Indonesia. Mục đích của nghiên cứu này là phân tích tác động của việc tiêu thụ năng lượng hóa thạch, tăng trưởng dân số
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">và tiêu thụ năng lượng tái tạo đối với lượng phát thải carbon dioxide. Phương pháp được sử dụng là phân tích hồi quy tuyến tính bội theo phương pháp bình phương tối thiểu thơng thường sử dụng chuỗi thời gian trong giai đoạn 1990 - 2014. Kết quả cho thấy mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch và tăng trưởng dân số có tác động tích cực đến phát thải carbon dioxide ở Indonesia.
Nghiên cứu “Carbon Dioxide Emission, Energy Consumption, Economic Growth, Population, Poverty and Forest Area: Evidence from Panel Data Analysis” (Rabiul Islam, Ahmad Bashawir Haji Abdul Ghani và Emil Mahyudin, 2017) đã phân tích tác động của tiêu thụ năng lượng, tăng trưởng kinh tế, dân số, nghèo đói và diện tích rừng đối với phát thải carbon dioxide (CO<sub>2</sub>) bằng cách sử dụng các phương pháp đo lường kinh tế cho Malaysia, Indonesia và Thái Lan và dữ liệu chuỗi thời gian trong khoảng thời gian 20 năm từ năm 1991 đến năm 2010. Có một số bài kiểm tra đã được thực hiện, bao gồm kiểm tra đơn vị gốc bảng điều khiển, kiểm tra tích hợp và kiểm tra nguyên nhân Granger. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng kinh tế có tác động đáng kể làm tăng lượng khí phát thải CO<small>2</small>.
Nhóm tác giả Begum, R. A., Sohag, K., Abdullah, S. M. S., & Jaafar, M. (2015) thực hiện đề tài nghiên cứu “CO<sub>2</sub> emissions, energy consumption, economic and population growth in Malaysia”. (Begum, R. A., Sohag, K., Abdullah, S. M. S., & Jaafar, M., 2015). Nghiên cứu này điều tra tác động động lực của tăng trưởng GDP, tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng dân số đối với phát thải CO<small>2</small> bằng cách sử dụng các phương pháp kinh tế lượng cho Malaysia. Kết quả thực nghiệm từ phương pháp kiểm định giới hạn ARDL cho thấy trong giai đoạn 1970–1980, phát thải CO<sub>2</sub> bình quân đầu người giảm khi GDP bình quân đầu người (tăng trưởng kinh tế) tăng; tuy nhiên từ năm 1980 đến năm 2009, phát thải CO<sub>2</sub> bình quân đầu người tăng mạnh cùng với sự gia tăng tiếp tục của GDP bình quân đầu người. Điều này cũng được hỗ trợ bởi các bài kiểm tra bình phương lỗi bình thường động (DOLS) và U test Sasabuchi-Lind-Mehlum (SLM U). Do đó, giả thuyết đường cong môi trường Kuznets (giả thuyết EKC) không đúng ở Malaysia trong thời gian nghiên cứu. Kết quả cũng cho thấy cả mức tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người và GDP bình qn đầu người đều có tác động tích cực lâu dài đến phát thải carbon bình quân đầu người, nhưng tỷ lệ tăng trưởng dân số khơng có tác động đáng kể đến phát
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">thải CO<small>2</small> bình quân đầu người. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng trong dài hạn, tăng trưởng kinh tế có thể có tác động tiêu cực đến phát thải CO<sub>2</sub> ở Malaysia. Do đó, việc chuyển đổi đáng kể các công nghệ carbon thấp như năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng có thể góp phần giảm phát thải và duy trì tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Nhằm mục tiêu nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ nhân quả ngắn hạn và dài hạn giữa tiêu thụ năng lượng, phát thải CO<small>2</small>, tăng trưởng dân số và tăng trưởng kinh tế ở Ethiopia, Erasmus L. Owusu đã sử dụng phương pháp Granger-Causality đa biến trong khuôn khổ kiểm định giới hạn ARDL để tích hợp và mơ hình sửa lỗi khơng hạn chế (UECM). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tăng trưởng dân số và sử dụng năng lượng gây ra phát thải CO<sub>2</sub> cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Nghiên cứu “Long-term model-based projections of energy use and CO<sub>2</sub> emissions from the global steel and cement industries” của Bas J van Ruijven đã trình bày một mơ hình mơ phỏng tồn cầu cho ngành cơng nghiệp thép và xi măng. Mơ hình bao gồm tồn bộ chuỗi mơ hình từ hoạt động kinh tế đến tiêu thụ vật liệu, thương mại, lựa chọn công nghệ, năng lực sản xuất, sử dụng năng lượng và phát thải CO<small>2</small>. Dựa trên kịch bản SSP2 (khơng có chính sách về khí hậu), mơ hình dự báo mức tiêu thụ thép và xi măng sẽ tăng nhanh trong vài thập kỷ tới, sau đó ổn định. Lượng phát thải CO<sub>2 </sub>dự kiến sẽ đạt đỉnh trong cùng thời gian và giảm xuống dưới mức năm 2010 vào năm 2050. Mô hình mơ phỏng và dự báo cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa việc tiêu thu thép và xi măng tăng với sự gia tăng khí thải CO<small>2</small> đồng thời đề cập đến việc áp dụng các biện pháp giảm thiểu (thuế carbon cao, CCS) có thể giảm lượng phát thải CO<sub>2</sub> đáng kể. (Ruijven, n.d.).
<b>2.2.2 Tổng quan các nghiên cứu trong nước </b>
Tang, C.F. and Tan, B.W. (2015) nghiên cứu mối quan hệ giữa phát thải CO<small>2</small> (carbon dioxide), tiêu thụ năng lượng, FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1976 đến 2009. Các kỹ thuật tích hợp và Granger causality được áp dụng để kiểm tra mối quan hệ giữa các biến. Kết quả nghiên cứu xác nhận sự tồn tại của cân bằng dài hạn giữa các biến được quan tâm. Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy có sự tương tác hai chiều giữa giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và phát thải CO<small>2</small> ở Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những yếu
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">tố quyết định chính của phát thải CO<small>2</small> ở Việt Nam. Do đó, việc áp dụng các công nghệ sạch bởi đầu tư nước ngồi đóng vai trị quan trọng trong việc hạn chế phát thải CO<sub>2</sub> ở nước này và đồng thời duy trì phát triển kinh tế
Năm 2023, tác giả Nguyễn Thị Hoài Thu đã tiến hành nghiên cứu “Tác động của FDI đến phát thải khí nhà kính ở Việt Nam”. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu hàng năm của Việt Nam trong giai đoạn 1986- 2021 để kiểm định tác động của đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) đến phát thải khí nhà kính ở Việt Nam. Kết quả cho thấy, sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam thời gian qua có tác động làm giảm phát thải khí nhà kính. Nghiên cứu cũng củng cố thêm bằng chứng về tác động tiêu cực của việc sử dụng điện than và gia tăng dân số đến phát thải khí nhà kính. Từ đó, tác giả cũng đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm giảm phát thải khí nhà kính ở Việt Nam
Nghiên cứu “Ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế và xã hội đến phát thải CO<small>2</small> tại các quốc gia phát triển và đang phát triển” của nhóm tác giả Đào Bích Ngọc, Đào Minh Huyền, Hoàng Thị Băng Ngân đã khám phá ảnh hưởng của một số nhân tố kinh tế và xã hội đến phát thải CO<small>2</small> tại 57 quốc gia (14 quốc gia phát triển và 43 quốc gia đang phát triển) trong giai đoạn 1995- 2015 thông qua phương pháp Bình phương nhỏ nhất sửa đổi hồn tồn (FMOLS), hồi quy phân vị. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng dân số làm tăng phát thải CO<sub>2</sub>. Đặc biệt tác động của dân số đến các nước đang phát triển mạnh mẽ so với các nước phát triển. (Đào Bích Ngọc; Đào Minh Huyền; Hồng Thị Băng Ngân , n.d.).
Bằng việc sử dụng các mơ hình: mơ hình hồi quy tuyến tính với hiệu ứng cố định (FEM), mơ hình hồi quy tuyến tính với hiệu ứng ngẫu nhiên (REM), mơ hình hồi quy tuyến tính với phương sai không đồng nhất (GLS) kết hợp với dữ liệu 128 quốc gia trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2014 Tác giả Nguyễn Thành Huân hoàn thành đề tài nghiên cứu “Tác động của các yếu tố kinh tế xã hội đến biến đổi khí hậu” với kết quả như sau:Nghiên cứu đã cho thấy mức độ sử dụng năng lượng dầu, tăng trưởng kinh tế (GDP đầu người), thương mại có tác động gia tăng lượng khí thải CO<small>2</small> trên 128 quốc gia trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2014. Xét ở góc độ tồn cầu, tăng trưởng kinh tế làm gia tăng lượng khí thải CO<sub>2</sub>.
Nghiên cứu “Đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế và thương mại quốc tế đến phát thải CO<sub>2</sub> ở Việt Nam- Tiếp cận qua mơ hình ARDL” của tác giả Lê Trung Thành và
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Nguyễn Đức Khương được thực hiện nhằm mục đích kiểm tra tác động của những nhân tố chính trong quá trình tăng trưởng kinh tế và mở cửa thương mại đến lượng phát thải CO<sub>2</sub> ở Việt Nam. Mơ hình tự hồi quy trung bình trượt (ARDL) được sử dụng để đánh giá tác động theo giả thuyết đường cong môi trường Kuznets (EKC) và giả thuyết nơi trú ẩn ô nhiễm (PHH) trong thời gian 1990-2011. Kết quả của nghiên cứu cho thấy tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng, phát triển tài chính và độ mở thương mại ảnh hưởng cùng chiều lên lượng phát thải CO<sub>2</sub>. (Lê Trung Thành;Nguyễn Đức Khương , n.d.)
“Chất lượng thể chế, tăng trưởng kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiêu thụ năng lượng tái tạo và phát thải CO<small>2</small> ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Cẩm Vân (năm 2022) đã sử dụng phương pháp tiếp cận mơ hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) để phân tích tác động của chất lượng thể chế, tiêu thụ năng lượng tái tạo, tăng trưởng kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài đền phát thải CO<small>2</small> ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-2020. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong ngắn hạn và dài hạn, đầu tư trực tiếp nước ngồi làm gia tăng nhanh chóng lượng khí thải CO<sub>2</sub> (Vân, 2022).
Nhóm tác giả Đoàn Thị Thu Trang; Phạm Thảo Linh; Nguyễn Thị Thu Huyền; Nguyễn Bảo Anh; Phùng Thị Hồng Ngát; PGS.TS Phan Thế Công (2023) đã sử dụng phương pháp mơ hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) với số liệu về Việt Nam giai đoạn 2000 - 2021 để làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, độ mở thương mại và lượng phát thải CO<sub>2</sub> trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả thu được rằng trong ngắn hạn, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và sự phát thải CO<small>2</small> không tuân theo giả thuyết Đường cong môi trường Kuznets (giả thuyết EKC) còn trong dài hạn, tăng trưởng kinh tế tác động đến lượng phát thải CO<sub>2</sub> theo dạng hình chữ U ngược. Trong khi đó, độ mở thương mại và lượng phát thải CO<small>2</small> chỉ có mối quan hệ nhân quả trong ngắn hạn.
Đề tài “Tăng trưởng xanh tại Việt Nam - Góc nhìn từ tác động năng lượng và tăng trưởng kinh tế đến khí thải Carbon- Bằng chứng tồn diện từ phương pháp ARDL” của tác giả Trần Văn Nguyên và Vũ Việt Linh đã phân tích và đánh giá tác động ngắn hạn và dài hạn của tiêu thụ năng lượng và GDP bình quân đầu người đến khí thải carbon dựa trên chuỗi thời gian từ 1971 đến 2013 tại Việt Nam. Kết quả chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và khí thải carbon tuân theo dạng đường cong Kuznets (EKC) trong dài hạn tại Việt Nam. Đồng thời chỉ có mối quan hệ một chiều giữa khí thải carbon và thu
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">nhập bình quân đầu người. Hơn nữa, kết quả trong nghiên cứu chỉ ra rằng trong dài hạn khi tiêu dùng năng lượng tăng 1% thì mức độ xả thải khí carbon ra môi trường tăng 1.1187%, trong khi tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng lớn đến lượng phát thải carbon. Tuy nhiên, trong ngắn hạn tăng trưởng kinh tế khơng có tác động làm thay đổi khí thải carbon.
<b>2.3 Khoảng trống trong các nghiên cứu liên quan </b>
Vấn đề bảo vệ mơi trường nói chung và vấn đề kiểm sốt khí thải nhà kính nói riêng được các chính phủ đặc biệt quan tâm và đưa ra các công cụ nhằm kiểm sốt lượng phát thải khí nhà kính trên bình diện quốc gia và tồn cầu. Trước những thách thức của biến đổi khí hậu, các quốc gia trên thế giới đã và đang triển khai nhiều biện pháp để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, trong đó có việc đánh thuế carbon. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu (EU) là một trong những sáng kiến mới nhất trong lĩnh vực này. Trong bối cảnh EU đang triển khai các chính sách nhằm đánh thuế carbon đối với các sản phẩm nhập khẩu (chưa bị đánh thuế tại nơi sản xuất), Việt Nam cần tính tốn lượng khí thải nhà kính được tạo ra từ xuất khẩu nhôm, thép, xi măng sang thị trường EU để có các chính sách thu thuế carbon phù hợp. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này để có các chính sách thu thuế carbon phù hợp, góp phần bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Hiện nay, có một số nghiên cứu trong và ngồi nước đã tính tốn lượng khí thải nhà kính của các ngành cơng nghiệp nói chung tác động tới tình hình phát thải khí nhà kính của một quốc gia. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở mức độ tổng quát, chưa đề cập cụ thể đến các ngành công nghiệp sẽ bị Liên minh châu Âu (EU) đánh thuế carbon trong thời gian tới. Sự tác động của xuất khẩu nhơm, sắt thép, xi măng đến lượng khí thải khí nhà kính ở Việt Nam cịn khá hạn chế. Các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến sự phát thải khí nhà kính hiện nay mới chỉ dừng lại ở các yếu tố xuất khẩu chung, chưa nhiều nghiên cứu đề cập nhiều tới các ngành công nghiệp sẽ bị Liên minh Châu Âu (EU) đánh thuế carbon trong thời gian tới. Theo đó các giải pháp kiến nghị được đề xuất chưa khơng cịn phù hợp với tình hình thực tế nhiều biến động như xu hướng phát triển kinh tế gắn với sự phát triển bền vững như hiện nay khi Liên minh Châu Âu (EU) đã và đang áp dụng cơ chế Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM).
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Ngoài ra, cũng rất ít cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện, đầy đủ về phát thải khí nhà kính tại Việt Nam theo hướng phân tích sự ảnh hưởng của những ngành phát thải nhiều khí CO<sub>2</sub> như nhơm, sắt thép, xi măng. Các nghiên cứu đa phần chỉ nghiên cứu sự ảnh hưởng của từng khía cạnh tới sự phát thải khí nhà kính. Các số liệu ở các nghiên cứu khá cũ. Mỗi quốc gia lại có một đặc điểm riêng biệt về dân số, về trình độ phát triển kinh tế khác nhau, do đó các nghiên cứu nước ngồi khơng sát với đặc điểm tình hình của Việt Nam.
Có thể thấy khoảng trống nghiên cứu của đề tài khá lớn và là đề tài mang tính thời sự cao, tuy nhiên phạm vi của đề tài nghiên cứu này chỉ tập trung đánh giá sự một số ngành có ảnh hưởng lớn bởi Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), mong rằng các đề tài tới đây sẽ giải quyết được các vấn đề tồn tại còn lại mà nghiên cứu chưa đề cập tới.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><b>CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU </b>
Trong chương này, nhóm sẽ thiết lập nền móng cho quá trình nghiên cứu bằng cách đưa ra phương pháp nghiên cứu, mơ hình nghiên cứu, phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu được áp dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Hiểu biết và áp dụng đúng các phương pháp này là một yếu tố quan trọng để đạt được kết quả chính xác và đáng tin cậy trong quá trình nghiên cứu.
<b>3.1. Phương pháp nghiên cứu </b>
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Sau khi số liệu được thu thập phương pháp này được sử dụng giải quyết các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra.
Thông qua phương pháp nghiên cứu định lượng, các dữ liệu được giải thích bằng phân tích thống kê và vì thống kê dựa trên các ngun tắc tốn học nên phương pháp định lượng được xem là khách quan khoa học và hợp lý (Carr, 1994; Denscombe, 2010). Theo Phan Thị Thu Hiền thì nghiên cứu định lượng thường gắn liền với số lượng, tần số, cường độ, và thường sử dụng các phương pháp thu thập số liệu “cứng” dưới dạng con số và với số lượng mẫu lớn (Hiền, 2006). Trong khi đó Bryman cũng cho rằng nghiên cứu định lượng thường nhắm tìm hiểu mối quan hệ giữa các biến số và dự đoán (Bryman, 1995). Nghiên cứu định lượng cũng rất hữu ích và phù hợp trong các trường hợp vấn đề cần nghiên cứu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến một kết quả nào đó (Đinh Văn Sơn và cộng sự, 2015).
Vì vậy, sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng là phù hợp với đề tài này.
<b>3.2. Mơ hình nghiên cứu </b>
<i>Mơ hình nghiên cứu của đề tài dựa vào bài nghiên cứu “Đề xuất mơ hình nghiên cứu đánh giá tác động của xuất khẩu nhôm, thép và xi măng sang EU đến lượng khí thải nhà kính ở Việt Nam.” của nhóm tác giả đã được đăng trên tạp chí Kinh tế dự báo số 33 năm </i>
2023.
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><b>3.2.1 Dân số của Việt Nam </b>
Anqing Shi (2001) (Shi, 2001) kiểm nghiệm tác động của gia tăng dân số lên lượng khí thải CO<sub>2</sub> bằng dữ liệu bảng của 93 quốc gia trong giai đoạn 1975-1995. Kết quả của nghiên cứu cho thấy gia tăng dân số là một trong những nguyên nhân chính làm tăng lượng phát thải CO<sub>2</sub> trên toàn cầu trong giai đoạn này. Tương tự với nghiên cứu trên, nghiên cứu của Onozaki (2009) khẳng định rằng tăng dân số có liên quan chặt chẽ tới tăng lượng CO<sub>2</sub> trong khí quyển và gợi ý rằng gia tăng dân số ở các quốc gia đang phát triển là nhân tố quan trọng trong sự gia tăng của CO<sub>2 </sub>(Onozaki, 2009) .
Theo Song và cộng sự (2012), gia tăng dân số ở Trung Quốc và Ấn Độ là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự thay đổi của lượng khí thải CO<sub>2.</sub> Đối với Trung Quốc, mặc dù quy mô dân số ở mỗi vùng là khác nhau nhưng tác động của dân số đến lượng phát thải khí nhà kính là tương tự nhau (Song, X. H., Zhang, Y. F., Wang, Y. M., & Feng, Y. C., 2012).Như vậy, khi dân số của một quốc gia tăng lên, có thể kỳ vọng rằng lượng phát thải khí CO<sub>2</sub> tại quốc gia đó cũng tăng theo hay tồn tại mối quan hệ thuận chiều giữa dân số của một quốc gia và lượng phát thải khí nhà kính của quốc gia đó.
<i>Giả thuyết H<sub>1</sub>: Dân số có tác động thuận chiều với lượng phát thải khí nhà kính tại Việt Nam. </i>
<b>3.2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
Tác động của FDI đến từng quốc gia và từng khu vực trong mỗi quốc gia là rất khác nhau. FDI chảy vào các nước có thu nhập thấp và trung bình làm suy giảm mơi trường, trong khi dịng chảy vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi đến các nước có thu nhập cao lại có lợi ích cho môi trường của quốc gia tiếp nhận đầu tư. Nghiên cứu của (Zheng,J and Sheng, P, 2017) đã đưa ra kết quả: ở cấp độ quốc gia rằng FDI và lượng khí thải carbon có mối quan hệ thuận chiều ở Trung Quốc. Xu hướng tăng trưởng trong quy mô FDI gần giống như của lượng khí thải carbon. Tuy nhiên, với khu vực miền đông và miền trung Trung Quốc, sự gia tăng FDI vào khu vực này lại có tác động nghịch chiều đến lượng phát thải khí nhà kính. Hiện tượng này được giải thích bằng việc cơ cấu ngành được tập trung thu hút đầu tư tại khu vực miền đông và miền trung đa số là các ngành công nghệ cao, thân thiện với môi trường.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Nghiên cứu của (Huang, Y. W. a. Y., 2022) đã xem xét tác động dài hạn và ngắn hạn của FDI, tăng trưởng kinh tế (GDP bình quân đầu người) đối với lượng khí thải CO<sub>2</sub> của các nước Đơng Á bằng mơ hình ARDL. Kết quả cho thấy trong ngắn hạn; FDI tăng trong giai đoạn hiện tại và trước đó sẽ làm tăng lượng khí thải CO<sub>2</sub>. Trong dài hạn, FDI khơng có tác động đáng kể đến lượng khí thải CO<sub>2</sub>. Như vậy, có thể nhận định rằng đầu tư trực tiếp nước ngồi có ảnh hưởng nhất định đến lượng phát thải khí nhà kính của một quốc gia. Tuy nhiên, tác động của dịng vốn FDI lại khơng thực sự rõ ràng và phụ thuộc vào ngành nghề thu hút đầu tư, công nghệ được áp dụng, mức độ phát triển kinh tế của một quốc gia, v.v…
<i>Giả thuyết H<sub>2</sub>: FDI có tác động thuận chiều với lượng phát thải khí nhà kính tại Việt Nam. </i>
<b>3.2.3 Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam </b>
Nghiên cứu của (Huh, 2020) đã cố gắng khám phá quỹ đạo toàn cầu về mối quan hệ giữa GDP và phát thải CO<sub>2</sub> theo chuỗi thời gian và quan điểm chuyển tiếp (trong khoảng thời gian 22 năm, từ năm 1992 đến năm 2014). Nghiên cứu đã chỉ ra GDP và lượng khí thải CO<sub>2</sub> có mối liên hệ rất chặt chẽ. Nghiên cứu này đã phát hiện và nhấn mạnh rằng tăng trưởng kinh tế (GDP) và các vấn đề môi trường (phát thải CO<small>2</small>) gắn liền với nhau trong mối quan hệ phụ thuộc vào con đường rất vững chắc bằng cách so sánh trình độ tồn cầu của các nước tiên tiến như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức.
Bằng phương pháp tuần tự định tính, bao gồm phân tích theo kinh nghiệm nhằm mang lại sự gắn kết và khả thi cho nghiên cứu đồng thời sử dụng các phương pháp định lượng, bao gồm Bình phương tối thiểu thơng thường động (DOLS), kiểm tra nghiệm đơn vị và kỹ thuật đồng liên kết cộng với nguồn dữ liệu chính là cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, Chỉ số Phát triển Thế giới, (Mihaela Onofrei, Anca Florentina Vatamanu, Elena Cigu, 2022) đã đưa ra kết quả nghiên cứu xác nhận sự tồn tại của mối quan hệ đồng liên kết dài hạn có ý nghĩa thống kê giữa tăng trưởng kinh tế và lượng phát thải CO<small>2</small>, cho thấy rằng trung bình, thay đổi 1% trong GDP sẽ dẫn đến thay đổi 0,072 trong phát thải CO<sub>2</sub>.
<i>Giả thuyết H<sub>3</sub>: GDP có tác động thuận chiều với lượng phát thải khí nhà kính tại Việt Nam. </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><b>3.2.4 Kim ngạch xuất khẩu </b>
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi một quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển có sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu, mơi trường của quốc gia đó có xu hướng suy thoái (Samuel Asumadu Sarkodie, Vladimir Strezov, 2019). Nhằm ước lượng lượng khí thải sẽ bị đánh “thuế carbon” của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU, nghiên cứu cần chia kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thành 2 nhóm: kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường EU (nhôm, thép, xi măng) và kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng còn lại ra toàn thế giới.
<i>Giả thuyết H<small>4</small>: Kim ngạch xuất khẩu ra thế giới không bao gồm nhôm, thép, xi măng sang thị trường EU có tác động thuận chiều với lượng phát thải khí nhà kính tại Việt Nam. </i>
<b>3.2.5 Lượng phát thải khí CO<sub>2</sub> của Việt Nam </b>
Các nghiên cứu trước đây (Mori, G. &. A. W., 1998), (Plinke, E., Schonert, M., Meckel, H., Detzel, A., Giegrich, J., Fehrenbach, H., ... & Schmitz, S, 2000), (Quinkertz, R., & Rombach, G., 1999), (DoE, 1997), (Briem, S., Alkan, Z., Dienhart, M., Kugeler, K. and Quinkertz, R., 1999), (Briem, S., Alkan, Z., Quinkertz, R., Dienhart, M., & Kugeler, K., 2000) (Fecker, 1989), đã phát hiện lượng khí thải CO<small>2</small> cao trong quá trình sản xuất nhôm sơ cấp và thường không dựa trên thông tin cụ thể của nhà máy. Nghiên cứu của (Guo, J. E., Zhang, Z., & Meng, L., 2012) cũng đã chỉ ra rằng lượng khí thải CO<sub>2</sub> từ ngành công nghiệp nhôm sơ cấp của Trung Quốc một phần là do xuất khẩu nhôm chưa gia công và các sản phẩm cuối cùng sang các nước phát triển khác. Việc tiêu thụ năng lượng cao và lượng khí thải cao đã khiến ngành cơng nghiệp nhơm khơng cịn lựa chọn nào khác ngồi việc phải trải qua quá trình chuyển đổi carbon thấp. Mặt khác, việc sản xuất nhôm cũng gián tiếp gia tăng mức phát thải CO<sub>2</sub> của một quốc gia. Trung Quốc là quốc gia đứng đầu trong ngành sản xuất, tiêu thụ nhôm và alumina sơ cấp toàn cầu (Xu, G.-D & Ao, H. & She, Y.-G., 2012). Việc mở rộng năng lực sản xuất nhôm tại Trung Quốc đã gia tăng đáng kể mức tiêu thụ điện tại quốc gia này. 90% lượng nhôm sơ cấp được sản xuất tại Trung Quốc phụ thuộc vào nhiệt điện, gián tiếp gia tăng lượng phát thải CO<sub>2</sub>. Do đó, khi kim ngạch xuất khẩu nhơm ln thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực và liên
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">tục tăng trưởng của Việt Nam sang thị trường EU, lượng phát thải khí nhà kính có thể được kỳ vọng sẽ gia tăng.
Sheinbaum và cộng sự (2010) đã khám phá lượng khí thải CO<sub>2</sub> trong ngành sắt thép của Mexico từ năm 1970 đến năm 2006. Kết quả cho thấy sự phát triển kinh tế, gia tăng sản xuất sắt thép dẫn đến sự gia tăng lượng khí thải CO<sub>2</sub> (Sheinbaum, C., Ozawa, L., & Castillo, D, 2010). Tương tự như ngành sản xuất nhôm, ngành thép là một trong những ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất. Sự đóng góp của khí thải từ các ngành cơng nghiệp thép tồn cầu không chỉ từ việc sử dụng năng lượng mà cịn từ sự biến đổi hóa học trong q trình sản xuất sắt thép. Nghiên cứu của Hans Sandberg và cộng sự (2001) về lượng khí thải CO<sub>2</sub> của ngành thép tại Thụy Điển đã chỉ ra rằng xuất khẩu thép Thụy Điển sang Châu Âu, Bắc Mỹ hay các địa điểm khác nhau trên thế giới tiêu tốn nhiên liệu cho việc vận chuyển và do đó làm tăng mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải CO<small>2</small> (Sandberg, H., Langenborg, R., Lindblad, B., Axelsson, H., & Bentell, L, 2001). Mặt khác, hầu hết CO<sub>2 </sub>mà ngành công nghiệp thép ngày nay tạo ra xuất phát từ sự tương tác hóa học giữa cacbon và quặng sắt trong lò cao. Quá trình này, được gọi là khử sắt, tạo ra sắt nóng chảy được chuyển thành thép. Như vậy, ngành sản xuất thép theo đó khơng chỉ phát thải một lượng khí nhà kính đáng kể trong quá trình sản xuất mà còn tiêu thụ một lượng năng lượng khổng lồ và gián tiếp gia tăng mức độ phát thải CO<sub>2</sub>.
Quy trình sản xuất xi măng dẫn đến phát thải CO<sub>2</sub> thơng qua hai nguồn chính. Đầu tiên là phản ứng hóa học tham gia vào q trình sản xuất thành phần chính của xi măng, clinker là cacbonat (phần lớn là CaCO<sub>3</sub>, được tìm thấy trong đá vơi) quy trình này đóng góp khoảng 5% tổng lượng CO<sub>2</sub> do con người tạo ra lượng khí thải không bao gồm thay đổi sử dụng đất (Gilfillan, D., Marland, G., Boden, T., & Andres, R, 2020). Nguồn phát thải thứ hai là từ quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch để tạo ra năng lượng đáng kể cần thiết để đun nóng ngun liệu thơ lên hơn 1000 độ C. Lượng phát thải “năng lượng” này, bao gồm cả lượng phát thải từ điện mua, có thể làm tăng thêm 60% lượng phát thải của q trình sản xuất. Do đó, tổng lượng khí thải từ ngành cơng nghiệp xi măng có thể đóng góp tới 8% lượng khí thải CO<sub>2</sub> toàn cầu (Andrew, 2018). Tại Trung Quốc nhiều nhà nghiên cứu về mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải CO<small>2</small> trong ngành xi măng và phân tích lượng CO<sub>2</sub> phát thải trong ngành xi măng Trung Quốc cùng các yếu tố thúc đẩy nó trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">giai đoạn 1990–2009. Họ chỉ ra rằng sự tăng trưởng của sản xuất xi măng là yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải CO<sub>2</sub> (Ansari, N., & Seifi, A, 2013). Kim và Worrell (2002) cũng xác minh rằng sự tăng trưởng của sản xuất xi măng là nguyên nhân chính làm tăng lượng khí thải CO<sub>2</sub>.
<i>Giả thuyết H<sub>5</sub>: Tổng kim ngạch xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng sang thị trường EU có tác động thuận chiều với lượng khí thải nhà kính tại Việt Nam. </i>
<b>3.2.6 Đại dịch COVID - 19 </b>
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết lượng khí thải CO<sub>2</sub> tồn cầu đã giảm 5,8% vào năm 2020 do đại dịch Covid-19 cản trở hoạt động kinh tế. Một nghiên cứu cho thấy lượng phát thải carbon toàn cầu hàng ngày trong giai đoạn phong tỏa bởi đại dịch covid vào đầu tháng 4 năm 2020 đã giảm 17% và có thể dẫn đến giảm lượng khí thải carbon hàng năm lên tới 7%. Họ cho rằng những sụt giảm này chủ yếu là do giảm các hoạt động sử dụng và công nghiệp vận chuyển (Anh, 2021). Theo nghiên cứu của tổ chức khí hậu phi lợi nhuận Carbon Brief, trong thời gian dịch COVID-19 diễn ra, lượng CO<sub>2</sub> thải ra môi trường của Trung Quốc giảm khoảng 25% so với cùng kỳ năm 2019 (tương đương giảm 200 triệu tấn). Hoạt động công nghiệp gián đoạn không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở nhiều quốc gia khác là nguyên nhân chủ yếu gây suy giảm lượng khí thải CO<small>2</small> trên toàn cầu. Ngoài ra, nhiều quốc gia cũng đã yêu cầu tránh tụ tập đông người, bên cạnh tâm lý hạn chế ra ngoài trong những ngày này cũng góp phần giảm lượng khí CO<sub>2</sub>. Carbon Brief ghi nhận trong những ngày dịch COVID-19 đạt đỉnh, những chuyến bay bị hủy đã làm giảm bớt đến 10% lượng khí nhà kính và tính trung bình 2 tháng qua giảm 5%. (BT,
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><i> POP<sub>t </sub></i>: Dân số Việt Nam trong năm t
<i>FDI<sub>t</sub> : Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong năm t GDP<sub>t</sub> : Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam trong năm t </i>
<i>EXPW-EU<sub>t</sub> : Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ra thế giới của Việt Nam trong năm t, không </i>
bao gồm kim ngạch xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng sang thị trường EU trong năm t
<i>EXPASCEU<sub>t</sub> : Kim ngạch xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng của Việt Nam sang thị </i>
trường EU trong năm t
<i>COVID<sub>t </sub></i>: Sự xuất hiện của COVID trong năm t
<i>µ: Sai số ngẫu nhiên </i>
<i><b>Hình 3. 1. Mơ hình nghiên cứu </b></i>
<i>Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp </i>
<b>3.3 Phương pháp thu thập dữ liệu </b>
Do đặc thù của lĩnh vực nghiên cứu nên việc sử dụng dữ liệu thứ cấp là khó thực hiện được do đó Đề tài này nhóm nghiên cứu chỉ sử dụng dữ liệu thứ cấp - là những dữ liệu đã được công bố trên các nguồn thơng tin uy tín trong và ngồi nước để phân tích.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Dữ liệu thứ cấp phục vụ nghiên cứu được thu thập từ một số nguồn sau: Trong các thư viện bao gồm: sách, luận án, cơng trình nghiên cứu được lưu trữ ở Thư viện Quốc gia, Thư viện Trường Đại học Thương mại; Trong các cơ quan, tổ chức lưu trữ: các báo cáo của Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê, trung tâm WTO; Bản đồ Thương mại của ITC (Trademap); World Bank - Ngân hàng thế giới; Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA);... Và một số nguồn dữ liệu thứ cấp có giá trị tham khảo khác.
Nguồn dữ liệu này sau khi được tổng hợp và phân tích sẽ phản ánh khái quát về thực trạng của xuất khẩu nhôm, sắt thép và xi măng sang thị trường EU cùng một số nhân tố ảnh hưởng khác đến lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
<b>3.4 Phương pháp xử lý dữ liệu </b>
Dữ liệu định lượng được tiến hành xử lý như sau:
Sau khi thu thập dữ liệu, nhóm nghiên cứu sử dụng các cơng cụ và phần mềm Excel và Stata - 17 để thực hiện các bước xử lý và phân tích cần thiết.
Bước 1: Sau khi thu thập dữ liệu, nhóm nghiên cứu sẽ tổng hợp dữ liệu vào một tập tin Excel. Trong tập tin này, nhóm sẽ tiến hành kiểm tra tính chính xác và đầy đủ của dữ liệu. Bằng cách sử dụng các công cụ tính tốn và kiểm tra trong Excel, nhóm xác định và xử lý các sai sót hoặc thiếu sót trong dữ liệu thu thập được.
Bước 2: Nhóm nghiên cứu sẽ tải bộ dữ liệu đã được xử lý lên phần mềm Stata - 17 một phần mềm phổ biến được sử dụng trong phân tích dữ liệu. Trong Stata, nhóm sử dụng các câu lệnh tương ứng để tiến hành phân tích phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
Đầu tiên, nhóm sẽ tiến hành phân tích mơ tả số liệu để khám phá các đặc điểm cơ bản của dữ liệu. Bằng cách sử dụng câu lệnh Sum (tên biến) trong Stata để thống kê mô tả như giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất. Điều này giúp nhóm hiểu rõ hơn về phân phối và biến động của các biến trong bộ dữ liệu.
Tiếp theo, nhóm có thể sử dụng phân tích nhân tố khám phá (EFA). Bằng cách sử dụng câu lệnh Factor (tên biến) tương ứng trong Stata, nhóm có thể tiến hành EFA và xem xét các mơ hình nhân tố khác nhau để khám phá cấu trúc dữ liệu và các mối quan hệ giữa các biến.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Cuối cùng, nhóm sẽ sử dụng mơ hình hồi quy tuyến tính OLS (Ordinary Least Squares) để phân tích mối quan hệ giữa các biến trong nghiên cứu. OLS là một phương pháp phân tích thống kê phổ biến để xác định mối quan hệ tuyến tính giữa biến phụ thuộc và biến độc lập. Bằng cách sử dụng lệnh Linear Regression trên thanh công cụ trong Stata, nhóm có thể xây dựng và đánh giá các mơ hình OLS để hiểu rõ hơn về tương quan và tác động của các biến trong mục tiêu nghiên cứu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><b>CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ ĐÁNH GIÁ </b>
Chương “Kết quả và Đánh giá” đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong cấu trúc của một bài nghiên cứu khoa học. Trong chương này, nhóm tác giả sẽ đưa ra một cái nhìn tổng quan về thực trạng của vấn đề nghiên cứu, kết hợp với việc phân tích chi tiết về dữ liệu thu thập được. Bằng cách áp dụng các phương pháp phân tích như phân tích mơ tả số liệu, độ tin cậy Cronbach's Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, và phân tích hồi quy OLS, nhóm tác giả sẽ từ đó rút ra những kết luận sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề nghiên cứu. Sự kết hợp này giúp định hình một nền tảng vững chắc, từ đó nhóm tác giả có thể đưa ra những kết luận và nhận định chính xác về vấn đề nghiên cứu, cũng như mở ra những hướng nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng cho tương lai<small>.</small>
<b>4.1 Tổng quan về thực trạng vấn đề nghiên cứu </b>
<b>4.1.1 Năng lực sản xuất, xuất khẩu mặt hàng nhôm, sắt thép, xi măng của Việt Nam 4.1.1.1. Mặt hàng nhôm </b>
<b>a) Thực trạng sản xuất </b>
Ở Việt Nam, ngành công nghiệp bauxite-alumin mới chỉ phát triển trong hơn 10 năm trở lại đây. Việt Nam hiện chưa có năng lực luyện nhôm, doanh nghiệp trong ngành nhôm vẫn hồn tồn phụ thuộc vào nhơm thỏi, phơi nhơm nhập khẩu để sản xuất các sản phẩm từ nhôm.
<b>Hình 4. 1. Q trình sản xuất nhơm </b>
<i> Nguồn: Hội nhôm thanh định hình Việt Nam </i>
<b>Hình 4. 2 Cơ cấu trữ lượng bơ xít trên thế giới năm 2022 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><i>Nguồn: Trademap </i>
Biểu đồ cơ cấu trữ lượng bơ xít trên thế giới năm 2022 cho thấy Việt Nam là quốc gia có trữ lượng bơ xít lớn thứ 3 trên thế giới. Điều này chứng minh Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu nhơm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Trong giai đoạn 2016 – 2022, sản lượng sản xuất sắt, thép dạng thỏi đúc hoặc dạng thơ khác và thép cán, theo hình của Việt Nam tăng trưởng tốt. Trong đó, sản lượng sắt, thép dạng thỏi đúc hoặc dạng thô khác tăng từ 5.472,0 nghìn tấn năm 2016 lên 21.866,4 nghìn tấn năm 2022, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân rất cao là 27,05%/năm. Sản lượng thép cán và thép hình của Việt Nam tăng từ 15.523,0 nghìn tấn năm 2016 lên 34.146,5 nghìn tấn năm 2022, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 15,38%. Sản lượng sản xuất thép một phần để phục vụ nhu cầu trong nước, một phần để xuất khẩu. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành là sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch (than) nên lượng phát thải khí CO<sub>2 </sub>ra mơi trường rất lớn. Nếu q trình sản xuất khơng có sự cải tiến về cơng nghệ, sản lượng thép tăng nhanh đồng nghĩa với việc lượng khí CO<sub>2</sub> thải ra trong quá trình sản xuất cũng tăng cao. Hiện nay, bình quân sản xuất 1 tấn thép phát thải ra khoảng 2 tấn CO<sub>2</sub>.
</div>