Tải bản đầy đủ (.pdf) (292 trang)

Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam Tập 2 - Trường Đại học Luật Hà Nội. Chủ biên: Phạm Văn Tuyết, Trần Thị Huệ, Hoàng Thị Loan (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.99 MB, 292 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

GIÁO TRÌNH

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

<small>Tập Il</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu giáo trình Trường Dai học Luật Hà Nội (thành lập theo Quyết định số 1978/OD-DHLHN

<small>ngày 22 thang 5 năm 2019 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Ha Nội)</small>

đồng ý thông qua ngày 23 tháng 8 năm 2019 và được Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội cho phép xuất bản theo Quyết định số 3528/OD-PHLHN ngày 14 tháng 10 năm 2020.

<small>Mã số: TPG/K - 22 - 43</small>

<small>19-2022/CXBIPH/06-03/TP</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>Chủ biên</small>

PGS.TS. PHẠM VĂN TUYẾT PGS.TS. TRAN THỊ HUE

Tập thể tác giả

PGS.TS. TRAN THI HUE Chuong 10 PGS.TS. PHAM VAN TUYET

TS. HOANG THI LOAN

PGS.TS. PHAM VAN TUYẾT Chương 12 (Mục 1, 2, 3, 4) TS. NGUYEN MINH OANH Chương 12 (Mục 5, 6, 7) TS. VƯƠNG THANH THUY Chương 13 (Mục 2.1, 2.2)

TS. LÊ THỊ GIANG Chương 13 (Mục 1, 2.3, 2.4, 2.5)

PGS.TS. BÙI ĐĂNG HIẾU Chương 14 TS. NGUYEN MINH TUẦN Chương 15 TS. VŨ THỊ HONG YEN Chương 16 PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP. Chương 17 PGS.TS. TRAN THỊ HUE

TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ PGS.TS. TRAN THỊ HUE THS. LÊ THỊ HAI YEN

TS. NGUYEN VAN HOI Chuong 18 (Muc 3)

<small>Chuong 11</small>

<small>Chuong 18 (Muc 1)</small>

<small>Chuong 18 (Muc 2)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

LỜI GIỚI THIỆU

<small>Môn học Luật dân sự là một mơn khoa học pháp lí có nhiệm vụ</small>

<small>nghiên cứu các quy định của pháp luật dán sự nói chung và đặc biệtnghiên cứu các quy định trong Bộ luật Dân sự nói riêng.</small>

Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hoa xã hội

<small>chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ hop thứ 10 thơng qua ngày24/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Day là Bộ</small>

luật được ban hành trên cơ sở tiếp thu, sửa đổi và bồ sung các Bộ

<small>luật Dán sự trước đó cua Nhà nước ta. Bộ luật Dán sự năm 2015</small>

là luật chung của các ngành luật tư, quy định địa vị pháp lí, chuẩn mực pháp lí về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quy định quyên, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đăng, tự do y chí, độc lập vé tai sản và tự chịu trách nhiệm.

Để đáp ứng kịp thời cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập

<small>theo sát quy định của Bộ luật Dan sự năm 2015 và phù hop với khoahọc pháp lí hiện đại, Bộ môn Luật dân sự thuộc Khoa Pháp luật</small>

dân sự Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức biên soạn Giáo trình

<small>Luật dân sự Việt Nam. Giáo trình được biên soạn theo chương</small>

<small>trình, mục tiêu đào tạo của Trường Đại học Luật Hà Nội và phùhop với chương trình khung do Bộ Giáo duc và Dao tạo quy định.</small>

Bằng phương pháp tư duy khoa học và trên cơ sở các chủ thuyết cơ bản, Giáo trình đã bám sát các quy định của luật thực định nhằm

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

xác định các khái niệm khoa học, phương pháp tiếp cận và vận dụng các quy định của pháp luật dân sự vào đời sống thực tiễn.

Quá trình biên soạn Giáo trình là sự cơ gang nỗ lực của tập thể tác giả, mặc du vậy vẫn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tập thể tác giả rất mong nhận được những đóng góp của các độc giả để Giáo

<small>trình Luật dán sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội ngày</small>

<small>càng được hoàn thiện hơn.</small>

<small>Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!</small>

<small>Hà Nội, thang 01 năm 2022</small>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>Chương 10</small>

KHÁI QUAT CHUNG VE NGHĨA VỤ

1. NHUNG VAN DE CHUNG VE NGHĨA VỤ 1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lí của nghĩa vu

<small>Thuật ngữ nghĩa vụ là một trong những thuật ngữ thông dụng,</small>

được sử dụng phổ biến trong cuộc sông hàng ngày. Thông thường, nghĩa vụ được hiểu là “các điều mà chúng ta theo lương tâm phải thực hiện dé làm trịn bốn phận”.! Theo đó, bất cứ khi nào một người phải thực hiện một cơng việc nào đó theo yêu cầu của người khác thì đều được hiểu đó là nghĩa vụ của họ, bất kế việc thực hiện cơng việc có mang lại lợi ích cho người u cầu hay khơng. Ví dụ, con cái phải cúng giỗ tổ tiên; con cái phải nghe lời cha mẹ; người tham gia giao thông phải chấp hành các quy định của pháp luật về giao thông... Theo cách hiểu này, những việc mà người có nghĩa vụ phải làm có thể có hoặc khơng có tính bắt buộc đối với chủ thé. Tức là có nhiều nghĩa vụ hình thành và tồn tại trong đời sống hàng ngày không chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật mà chỉ chịu

sự điều chỉnh của các quy tắc đạo đức, nên không thuộc đối tượng

<small>nghiên cứu của các môn khoa học pháp lí, ví dụ như nghĩa vụ cúng</small>

giỗ tô tiên, nghĩa vụ nghe lời dạy bảo của cha mẹ...

Khoa học pháp lí từ trước đến nay chỉ nghiên cứu những nghĩa vụ mà sự hình thành và tồn tại của nó chịu sự điều chỉnh của những

<small>! Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo (Quyển II - Nghĩa vụ và khế óc),</small>

<small>Bộ Quoc gia giáo dục xuât ban, Sai Gòn, 1963, tr. 13.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

quy phạm pháp luật cụ thể. Có nhiều cách hiểu khác nhau về nghĩa vụ đã được đưa ra, song quan niệm “nghĩa vụ là một mối liên hệ

<small>pháp lí giữa hai người, nhờ đó một người là trái chủ (hay chủ nợ)</small>

có quyền địi người kia là thụ trái (hay con nợ) phải thi hành một khoản có thé trị giá bằng tiền”! van là quan niệm phổ biến. Đây là cách hiểu truyền thông về nghĩa vụ và được áp dụng trong khoa học pháp lí từ xưa đến nay. Tại Việt Nam, định nghĩa về nghĩa vụ cũng

được luật hóa từ cách hiểu truyền thống này, theo đó “nghia vu là

việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thé (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyên, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyên)”.? Với định nghĩa này, có thé nhận thấy những đặc điểm cơ bản của nghĩa vụ như sau:

Thứ nhất, nghĩa vụ được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự cụ thé (quan hệ về nghĩa vụ). Về lí luận, quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh, và được cấu thành bởi ba yếu tố đó là chủ thé, khách thé và nội dung của quan hệ. Theo quy định tại Điều 274 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, định nghĩa về nghĩa vu cũng được dé cập với day đủ các yếu tố cầu thành nên một quan hệ pháp luật như: (i) Chủ thé của quan hệ nghĩa vu bao gồm bên có nghĩa vụ và bên có quyền; (ii) Khách thé của

<small>quan hệ nghĩa vụ là những lợi ích mà các bên hướng tới khi xác lập</small>

quan hệ nghĩa vụ. Những lợi ích mà mỗi bên đạt được đều thơng qua những hành vi cụ thê của phía bên kia như hành vi chuyên giao

<small>tài sản, hành vi thực hiện công viéc...; (11) Nội dung của quan hệ</small>

nghĩa vụ bao gồm tông hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên đối với nhau, trong đó xác định cụ thể bên có nghĩa vụ phải thực hiện

<small>' Vũ Văn Mau, tldd, tr. 13.</small>

<small>2 Điều 274 BLDS năm 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>hành vi gì, thực hiện theo phương thức nào, ở thời gian, địa</small>

điểm nào...

<small>Thứ hai, quan hệ nghĩa vụ là một loại quan hệ pháp luật dân sự</small>

tương đối. Trong khoa học pháp lí nói chung, khoa học pháp lí dan sự nói riêng, khi căn cứ vào tiêu chí về tính xác định của chủ thể,

<small>quan hệ pháp luật dân sự được chia thành quan hệ pháp luật dân sự</small>

tuyệt đối và quan hệ pháp luật dân sự tương đối. Không giống như các quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối - quan hệ chỉ xác định chủ thé mang quyên, trong quan hệ nghĩa vụ, các bên chủ thé luôn được xác định cụ thé ngay từ thời điểm quan hệ được xác lập. Việc xác định cu thé các bên chủ thê là căn cứ dé chủ thé mang quyền có thé thực hiện quyền yêu cầu theo thỏa thuận hoặc theo quy định của

<small>pháp luật.</small>

Thứ ba, quan hệ nghĩa vụ là một loại quan hệ trái quyền, quyền của bên mang quyền trong quan hệ này là quyền đối nhân. Đây là đặc điểm quan trong dé phân biệt quan hệ nghĩa vụ với các quan hệ vật quyền (quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế...). Trong quan hệ vật quyền, quyền của chủ thé mang quyền được xác lập trên tài sản. Theo đó, chủ thé mang qun tự mình thỏa mãn quyền bang cách

<small>tác động vào tai sản thuộc sở hữu cua mình hoặc tài sản khơng thuộc</small>

sở hữu nhưng có quyền xác lập trên đó (ví dụ như quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bat động sản liền kề). Tuy nhiên, trong quan hệ nghĩa vụ, quyền của chủ thé mang quyền có được

<small>thỏa mãn hay khơng hồn tồn phụ thuộc vào hành vi thực hiệnnghĩa vụ của bên có nghĩa vụ.</small>

Thứ tw, trong quan hệ nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thê ln đối lập với nhau. Theo đó, quyền của chủ thể này luôn tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể phía bên kia và ngược lại. Tức

<small>là việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ ln hướng tới việc</small>

bảo đảm quyền lợi của bên có quyền. Do đó, sự vi phạm nghĩa vụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

của bên có nghĩa vụ dù là ít nghiêm trọng nhất cũng có thé khiến cho qun và lợi ích hợp pháp của bên có quyên bị ảnh hưởng.

1.2. Đối tượng của nghĩa vụ

Đối tượng của quan hệ pháp luật dân sự nói chung là các yếu tơ mà các chủ thê tác động vào đề thỏa mãn lợi ích của mình hoặc thỏa mãn lợi ich của các chủ thé khác. Trong quan hệ nghĩa vụ, dé đáp ứng các yêu cầu của bên mang quyên, bên có nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi nhất định theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, đồng thời những hành vi đó chỉ thực sự có giá trị khi nó tác động vào một đối tượng cụ thể. Theo quy định tại Điều 276 BLDS năm 2015, đối tượng của nghĩa vụ có thé là tài sản hoặc một công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. Tuy nhiên, dé trở thành đối tượng của nghĩa vụ, tài sản hoặc công việc phải thỏa mãn những điều kiện nhất định.

1.2.1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài san

Thực tế cho thấy, lợi ích mà các chủ thê hướng tới trong quan hệ nghĩa vụ hầu hết là lợi ích về tài sản. Do đó, đối tượng mà bên có nghĩa vụ tác động đến dé mang lại lợi ích cho bên có quyền hầu hết là một loại tài sản cụ thé. Sự tác động đó được biểu hiện thơng qua việc thực hiện hành vi chuyển giao một loại tài sản cụ thể cho bên có quyền. Theo quy định tại Điều 274 BLDS năm 2015, tài sản là đối tượng của nghĩa vụ có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc các quyên tài sản. Phạm vi này hoàn toàn phù hợp với quy định về tài sản tại Điều 105 BLDS năm 2015. Theo quy định, tài sản là đối tượng của nghĩa vụ phải thỏa mãn các điều kiện sau:

Thứ nhất, tài sản là đôi tượng của nghĩa vụ phải được xác định cụ thê. Về lí luận, việc thực hiện đúng nghĩa vụ được xác định trên những khía cạnh cụ thể như có thực hiện hay khơng, thực hiện đầy đủ hay không, đúng hạn hay không. Trong đó, muốn xác định bên

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

có nghĩa vụ có thực hiện đúng đối tượng hay khơng phải dựa trên tính xác định của đối tượng. Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ là tài sản thì tài sản phải được xác định cụ thể về số lượng theo các đơn vị đo lường phù hợp và chất lượng cụ thé. Việc xác định tài sản là đối tượng của nghĩa vụ có thể căn cứ vào thỏa thuận của các bên (vi dụ, khoản tiền cụ thé mà các bên cho nhau vay) hoặc quy định của pháp luật (ví dụ, khoản tiền mua tài sản mà bên mua phải trả

được xác định theo thị trường tại thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận), hoặc băng chứng mà bên có quyền đưa ra (ví dụ, biên lai thu tiền viện phí đối

với u cầu bơi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm).

Thi hai, tài sản là đôi tượng của nghĩa vụ phải là tài sản được phép giao dịch. Trong khoa học pháp lí dân sự, dựa trên quy chế

pháp lí áp dụng với mỗi loại tài sản, tài sản được phân chia thành

tài sản cam lưu thông, tài sản hạn chế lưu thơng và tài sản tự do lưu thơng. Trong đó, tài sản cấm lưu thông không thé trở thành đối tượng của nghĩa vụ. Bởi vì, tài sản cắm lưu thông là những tài sản mà nêu đưa vào lưu thơng có thé gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyên và lợi ích hợp pháp của các chủ thé khác. Do đó, hành vi chuyển giao một loại tài sản cắm lưu thông là hành vi bị cam. Đây là biểu hiện cụ thể của một trong các nguyên tắc cơ bản của

luật dân sự: “Viéc xác lập, thực hiện, chấm diet quyên, nghĩa vụ dan

sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Hơn nữa, chỉ những “cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cam của luật, không trải đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên”. Theo những phân tích này, tài sản là đối tượng của nghĩa vụ phải thuộc nhóm tải sản tự do lưu thông hoặc hạn chế lưu thông. Việc

<small>! Khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015.? Khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

xác lập, thực hiện các loại nghĩa vụ có đối tượng là tài sản cam lưu

thông sẽ bị coi là vi phạm điều cắm của luật.

Thứ ba, tài sản là đối tượng của nghĩa vụ phải là tài sản khơng có tranh chấp về quyền sở hữu. Tài sản đang có tranh chấp về quyền

<small>sở hữu là những tai sản chưa xác định được ai là chủ sở hữu tai thời</small>

điểm bên có nghĩa vụ thực hiện việc chuyên giao tài san đó cho bên có quyền. Việc bên có nghĩa vụ chuyền giao tài sản đang có tranh

chấp về quyền sở hữu cho bên có quyền có thể gây ảnh hưởng đến

quyên và lợi ích hợp pháp của chủ thé khác. Do đó, việc xác lập nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ là tài sản đang có tranh chấp

<small>sẽ khơng có giá trị và bên có nghĩa vụ khơng được thực hiện việc</small>

chuyền giao một tài sản đang có tranh chấp cho bên có quyên. Thứ tr, tài sản là đối tượng của nghĩa vụ không thé là tài sản đang bị kê biên dé thi hành án hoặc dé thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thâm quyên. Khi tài sản đã bị kê biên thì chủ sở hữu khơng được chun giao tài sản đó cho chủ thể khác thơng qua

<small>việc đưa tài sản đó vào giao dịch. Theo đó, tài sản đã bị kê biên</small>

không thé trở thành đối tượng của nghĩa vụ mà người có tài sản bị kê biên xác lập với chủ thể khác. Điều kiện này không đặt ra trong trường hợp tài sản bị kê biên được chủ thé có thâm quyền đưa ra bán đấu giá theo quy định của pháp luật.

1.2.2. Đối trợng của nghĩa vụ là một công việc

Trong quan hệ nghĩa vụ, dé mang lại lợi ích cho bên có qun, ngồi việc chun giao tài sản, bên có nghĩa vụ có thể phải thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc nhất định theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Song, không phải bất cứ

công việc nào cũng có thé trở thành đối tượng của nghĩa vụ, mà chỉ những công việc đáp ứng được các điều kiện sau đây mới có thể trở

thành đối tượng của nghĩa vụ:

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Thứ nhất, công việc là đối tượng của nghĩa vụ phải được xác

định cụ thê. Đây là điều kiện chung được áp dụng với mọi nhóm

đối tượng của nghĩa vụ. Dù đối tượng của nghĩa vụ là một công việc

phải làm hoặc một công việc không được làm thì nó cũng cần phải được xác định cụ thê. Việc xác định công việc phụ thuộc vào từng căn cứ xác lập nghĩa vụ. Có thể là sự thỏa thuận của các bên, có thể là quy định của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có

thâm qun. Việc xác định cụ thể cơng việc mà bên có nghĩa vụ

<small>phải thực hiện hoặc khơng được thực hiện có vai trị quan trọng</small>

trong việc xác định thời điểm nghĩa vụ phát sinh hiệu lực trong một sỐ trường hợp. Ví dụ, nếu các bên thỏa thuận xác lập nghĩa vụ có

đối tượng là cơng việc thì chỉ khi cơng việc được xác định cụ thê

thì thỏa thuận đó mới có thể được hình thành và nghĩa vụ mới có thé có hiệu lực. Đồng thời, việc xác định cụ thé công việc là đối

<small>tượng của nghĩa vụ có vai trị quan trọng trong việc xác định bên cónghĩa vụ có thực hiện đúng nghĩa vụ hay không.</small>

Thứ hai, công việc là đối tượng của nghĩa vụ phải có tính khả thi. Cơng việc có tính khả thi là công việc mà trong những điều kiện, hồn cảnh bình thường, người bình thường có thé thực hiện được cơng việc đó. Điều đó có nghĩa răng, nếu cơng việc khơng có tính kha thi, khơng phù hợp với thực tế cuộc sống sẽ không thé trở thành

đối tượng của nghĩa vụ. Điều kiện này đã được luật hóa thành quy

định cụ thể trong một số trường hợp. Tại Điều 514 BLDS năm 2015

quy định: “Đối tượng của hợp đồng dich vụ là công việc co thể thực

hiện được, không vi phạm điều cắm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Theo quy định nay, chỉ những cơng việc có thê thực hiện được mới có thể trở thành đối tượng của hợp đồng dịch vụ, tức là bên cung ứng dịch vụ chỉ phải thực hiện cơng việc nếu cơng việc đó là

<small>cơng việc có tính kha thi.</small>

<small>Thứ ba, cơng việc là đơi tượng của nghĩa vụ phải là công việc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

không vi phạm điều cắm của luật và không trái đạo đức xã hội. Trên thực tế, có những cơng việc khi được thực hiện hoặc không được thực hiện trên thực tế có thé mang lại lợi ích cho chủ thé này, nhưng đồng thời có thé mang đến những tốn thất về lợi ích cho các chủ thé

<small>khác. Tuy nhiên, theo quy định của BLDS năm 2015 thì: “Viéc xác</small>

lập, thực hiện, cham dứt quyên, nghĩa vụ dán sự khơng được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, qun và lợi

ich hợp pháp của người khác”.! Trường hợp các bên xác lập và thực

hiện nghĩa vụ có đối tượng là cơng việc bị cấm thì phải chịu trách nhiệm nếu việc thực hiện cơng việc đã gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thé khác, đồng thời pháp luật cũng không thừa nhận quan hệ nghĩa vụ liên quan đến công việc bị cắm. Ngồi ra, cơng việc mà việc thực hiện nó bi coi là trái

dao đức xã hội cũng không được coi là đối tượng của nghĩa vụ.

1.3. Thành phần của quan hệ nghĩa vụ

Về lí luận, một quan hệ pháp luật được cầu thành bởi ba yếu tổ đó là chủ thể, khách thé và nội dung của quan hệ. Quan hệ nghĩa vụ

<small>cũng là một loại quan hệ pháp luật dân sự nói riêng và một quan hệ</small>

pháp luật nói chung, nên nó cũng được cấu thành bởi ba yếu tổ như bat cứ quan hệ pháp luật nào khác.

1.3.1. Chủ thể của quan hệ nghĩa vụ

Chủ thé của quan hệ nghĩa vụ là những chủ thể được hưởng các quyên yêu cau và phải thực hiện các nghĩa vu phát sinh từ một quan hệ nghĩa vụ cụ thể. Vì quan hệ nghĩa vụ cũng là một loại quan hệ pháp luật dân sự nên chủ thê của quan hệ nghĩa vụ cũng chính là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nói chung. Khơng giống như

<small>trong các BLDS trước đó, trong BLDS năm 2015, nhà làm luật chỉ</small>

thừa nhận tư cách chủ thé của cá nhân và pháp nhân.

<small>! Khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Dé trở thành chủ thé của quan hệ nghĩa vụ, cá nhân hoặc pháp nhân cũng phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Song, cũng cần lưu ý rằng một chủ thể khơng có năng lực pháp luật thì không thể trở thành chủ thể của quan hệ nghĩa vụ, nhưng một chủ thê khơng có hoặc khơng có đầy đủ năng lực hành vi vẫn có thể trở thành chủ thé của quan hệ nghĩa vụ. Điều này có nghĩa rang, chỉ khi cá nhân hoặc pháp nhân trực tiếp tham gia xác lập và thực hiện quan hệ nghĩa vụ thì các điều kiện về năng lực chủ thể mới đặt ra. Trong trường hợp cá nhân, pháp nhân thông qua chủ thê khác dé xác lập, thực hiện quan hệ nghĩa vụ cụ thê thì năng lực xác lập, thực hiện nghĩa vụ sẽ đặt ra đối với chính chủ thé trực tiếp xác lập quan hệ

<small>nghĩa vụ.</small>

Như đã chỉ ra, trong quan hệ nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thê luôn đối ứng với nhau. Do đó, trong quan hệ nghĩa vụ ln tồn tại hai loại chủ thể đó là chủ thé mang quyên và chủ thé mang nghĩa vụ. Tuy nhiên, việc phân biệt hai loại chủ thé này chi mang tính tương đối và xét ở một loại nghĩa vụ cụ thé trong quan hệ nghĩa vụ đó. Tức là với nghĩa vụ này họ là chủ thể mang quyền nhưng ở nghĩa vụ khác họ là chủ thể mang nghĩa vụ. Do vậy, trong hầu hết các quan hệ nghĩa vụ, chủ thể của quan hệ nghĩa vụ vừa là bên có quyền yêu cầu, vừa là bên có nghĩa vụ. Ví dụ, trong quan hệ mua bán, bên bán là bên có quyền địi tiền nhưng lại có nghĩa vụ giao tài sản, bên mua có quyên nhận tài sản nhưng lại có nghĩa vụ trả tiền. Mặc dù vậy, trong một vài quan hệ cụ thé các chủ thé chỉ tham gia quan hệ với một vai trị là bên có quyền hoặc bên có nghĩa

<small>vụ. Ví dụ, trong quan hệ tặng cho tài sản, bên tặng cho là bên có</small>

nghĩa vụ, cịn bên được tặng cho là bên mang quyên. 1.3.2. Khách thể của quan hệ nghĩa vụ

Về lí luận, khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

các chủ thê hướng tới khi tham gia vào quan hệ pháp luật cụ thẻ. Do đó, khi tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, các bên chủ thể cũng mong muốn đạt được các lợi ích nhất định. Lợi ích mà các chủ thé mong muốn dat được có thé là lợi ích về vật chất như có được một tài sản, hoặc lợi ích về tinh thần như được thưởng thức một bài hát, được nghe một bản nhạc không lời... Tuy nhiên, không giống như quan hệ vật quyên, trong quan hệ trái quyền (trong đó bao gồm quan hệ nghĩa vụ), quyền của chủ thể mang quyên luôn phụ thuộc vào

<small>hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Chỉ khi bên có</small>

nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền mới có thê đạt được lợi ích như mong muốn. Chính vì vậy, dé đạt được lợi ích như mong muốn, bên có quyền ln quan tâm đến hành vi

<small>thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Ví dụ, trong quan hệ mua</small>

bán tài sản, bên mua sẽ quan tâm đến việc bên bán sẽ thực hiện hành vi giao tài sản vào thời điểm và địa điểm nào, còn bên bán sẽ quan tâm đến việc bên mua trả tiền vào thời điểm và địa điểm nào.

Như vậy, trong quan hệ nghĩa vụ, bên có quyền khơng chỉ quan tâm đến lợi ích đạt được ra sao mà còn quan tâm đến hành vi của bên có nghĩa vụ được thực hiện như thế nào. Đặc biệt, để xác định

<small>bên có nghĩa vụ có vi phạm nghĩa vụ hay không người ta không căn</small>

cứ vào lợi ích bên có quyền nhận được mà sẽ phải xác định xem

<small>hành vi thực hiện nghĩa vụ có đúng thỏa thuận hoặc đúng theo quy</small>

định của pháp luật hay không. Trong nhiều trường hợp, ngay cả khi bên có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ nhưng bên có quyền có thể khơng đạt được lợi ích như mong muốn vì lí do khách quan. Ví dụ, bên A th bên B vận chuyền tài sản từ địa điểm X đến địa điểm Y, bên B thực hiện hành vi vận chuyên tài sản theo đúng thỏa thuận, nhưng do xảy ra lốc xoáy bất ngờ nên tai sản vận chuyên bị hư hỏng khiến cho bên A bị thiệt hại. Song, để bảo đảm rằng bên có quyền đạt được lợi ích như mong muốn, bên có nghĩa vụ phải thực hiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

đúng nghĩa vụ của mình. Theo những phân tích này có thể xác định khách thé của quan hệ nghĩa vụ chính là hành vi thực hiện nghĩa vu

<small>của bên có nghĩa vụ.</small>

Hành vi thực hiện nghĩa vụ (khách thể của quan hệ nghĩa vụ) là những xử sự cụ thể của bên có nghĩa vụ mà chỉ khi hành vi đó được

<small>thực hiện theo đúng thỏa thuận hoặc đúng quy định của pháp luật</small>

mới có thé mang lại lợi ích như mong muốn cho bên có quyên. Trên thực tế, hành vi thực hiện nghĩa vụ thường được biểu hiện dưới dạng một hành động cụ thể. Ví dụ, hành động chuyên giao tai sản hoặc

<small>hành động thực hiện một công việc. Song, trong một vài trường</small>

hợp, hành vi thực hiện nghĩa vụ lại được biểu hiện dưới dạng khơng hành động. Ví dụ, trong hợp đồng thuê tài sản, một trong những

<small>nghĩa vụ mà bên th phải tn thủ đó là “khơng được cho thuê lại</small>

nếu không được sự đồng ý của bên cho thuê”.

<small>1.3.3. Nội dung của quan hệ nghĩa vụ</small>

<small>Trong khoa học pháp lí nói chung, nội dung của quan hệ pháp</small>

luật được hiểu là tong hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thé trong quan hệ đó. Do đó, nội dung của quan hệ nghĩa vụ là tong hợp các quyền yêu cầu và các nghĩa vụ mà các bên được và phải thực hiện dé bảo đảm lợi ích của chính mình và của chủ thé khác. Quyên yêu cầu và nghĩa vụ là những yếu tô gắn liền với nhau và không tách rời, đồng thời có tính đối ứng với nhau. Quyền u cầu

<small>chỉ được thỏa mãn thông quan hành vi của bên có nghĩa vụ, việc</small>

thực hiện nghĩa vụ ln hướng tới bảo đảm quyền yêu cầu của bên có quyền.

Nội dung của quan hệ nghĩa vụ chỉ được xác định cụ thé khi

quan hệ nghĩa vụ đó đã được hình thành theo những căn cứ nhất

<small>định. Tùy thuộc căn cứ xác lập nghĩa vụ khác nhau, nội dung củaquan hệ nghĩa vụ sẽ được xác định khác nhau. Trường hợp nghĩavụ được xác lập theo thỏa thuận thì nội dung của quan hệ nghĩa vụ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<small>thường được xác định theo sự thỏa thuận của các bên. Ví dụ, khi</small>

xác lập hợp đồng dịch vụ, các bên thường thỏa thuận cụ thể về việc bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện cơng việc gì, thực hiện như thế nao và ở thời điểm, địa điểm nào, còn bên thuê dịch vụ thì phải trả bao nhiêu tiền, trả ở thời điểm và địa điểm nào... Trường hợp nghĩa

<small>vụ được xác lập theo quy định của pháp luật thì nội dung của quan</small>

<small>hệ nghĩa vụ thông thường sẽ phụ thuộc vào quy định của pháp luật.</small>

Vi dụ, A gây thiệt hại về sức khoẻ cho B thì ngồi những ton thất

về vật chất (chi phí điều trị thương thích, chi phí đi lại...), A cịn phải bù đắp ton thất về tinh thần cho B.

<small>1.4. Phân loại nghĩa vụ</small>

* Căn cứ số người tham gia quan hệ nghĩa vụ, nghĩa vụ được phân chia thành nghĩa vụ một người và nghĩa vụ nhiều người.

- Nghĩa vụ một người là loại nghĩa vụ mà mỗi bên của quan hệ nghĩa vụ chỉ có một người. Nghĩa là bên có quyền có một người,

<small>bên có nghĩa vụ cũng chỉ có một người. Đây là loại nghĩa vụ hình</small>

thành phổ biến trong thực tế đời sống và là biểu hiện đơn giản nhất

<small>của quan hệ nghĩa vụ.</small>

- Nghĩa vụ nhiều người là loại nghĩa vụ mà ít nhất một bên của quan hệ nghĩa vụ có từ hai người trở lên. Loại nghĩa vu này được biéu hiện ở một trong ba dạng cụ thé như sau: (i) Một người có quyên, nhiều

người có nghĩa vụ; (1) Nhiều người có quyền, một người có nghĩa vụ;

(iii) Nhiều người có quyền, nhiều người có nghĩa vụ. Đối với loại nghĩa vụ này, ngồi việc xác định các quyền và nghĩa vụ cụ thê của mỗi bên, cần phải xác định phạm vi quyền yêu cầu của từng người có

quyền cũng như phạm vi nghĩa vụ của từng người có nghĩa vụ. Thơng

thường, mỗi người có nghĩa vụ chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình đối với người có quyền, và mỗi người có quyền cũng chỉ được yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện phần nghĩa vụ tương ứng với phần quyền yêu cầu của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

thé, những người có nghĩa vụ có thé phải thực hiện nghĩa vụ thay cho nhau theo yêu cầu của bên có quyên, và những người có quyền có thê thực hiện quyền yêu cầu thay cho nhau.

Ngoài ra, cần phân biệt nghĩa vụ nhiều người với trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ với một người. Nếu nhiều người có nghĩa vụ với một người và nghĩa vụ của tất cả những người này đều được xác lập trên một quan hệ nghĩa vụ thì đó là nghĩa vụ nhiều người. Nếu nhiều người có nghĩa vụ với một người nhưng nghĩa vụ

<small>của từng người được xác lập trên từng quan hệ khác nhau thì đó làcác nghĩa vụ độc lập và là nghĩa vụ một người. Ví dụ, A cho B vay</small>

tiền theo hợp đồng giữa A và B, A cũng cho C vay tiền trong hợp

đồng giữa A và C thì mặc dù B và C đều có nghĩa vụ trả nợ cho A

nhưng nghĩa vụ của B, C với A không phải là nghĩa vụ nhiều người. * Căn cứ mối liên hệ giữa các chủ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ và thực hiện quyền yêu cầu, nghĩa vụ được phân chia thành nghĩa

<small>vụ riêng rẽ và nghĩa vụ liên đới.</small>

<small>- Nghia vụ riêng rẽ:</small>

Nghĩa vụ riêng rẽ được ghi nhận cụ thể thông qua quy định tại Điều 287 BLDS năm 2015 như sau: “Ki nhiều người cùng thực hiện một nghĩa vụ, nhưng mỗi người có một phần nghĩa vụ nhất

định và riêng ré thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của

<small>minh”. Theo quy định này, nghĩa vụ riêng rẽ được xác định theo</small>

những dấu hiệu sau: (i) Nghĩa vụ riêng rẽ là loại nghĩa vụ nhiều người và có thê thuộc một trong các dạng biểu hiện như đã đề cập

<small>ở cách phân loại trên; (1) Trong quan hệ nghĩa vụ riêng rẽ, những</small>

người có nghĩa vụ hồn tồn độc lập trong việc thực hiện phần nghĩa vụ của mình với bên có quyên.

<small>- Nghĩa vụ liên đới:</small>

Khoản | Điều 288 BLDS năm 2015 quy định: “Nghia vụ liên

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyên có thể yêu cau bắt cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”. Ngoài ra, khoản 1 Điều 289 BLDS năm 2015 quy định: “Nghia vụ doi với nhiều người có quyên liên đới là nghĩa vụ mà theo đó mỗi người trong số những người có quyên déu có thể yêu cẩu bên có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vu’. Nhu vậy, cũng giống như nghĩa vụ riêng rẽ, nghĩa vụ liên đới cũng là nghĩa vụ nhiều người. Tuy nhiên, những người có nghĩa vụ ln có sự liên quan trong việc thực hiện phần nghĩa vụ của mình với người

có quyền. Đồng thời, nếu nhiều người có quyền liên đới thì họ có

thé thực hiện quyền u cầu thay cho nhau khi yêu cầu người có

<small>nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.</small>

<small>* Căn cứ phương thức thực hiện nghĩa vụ, nghĩa vụ được phân</small>

chia thành nghĩa vụ phân chia được theo phần và nghĩa vụ không phân chia được theo phần.

- Nghĩa vụ phân chia được theo phần là loại nghĩa vụ mà trong đó bên có nghĩa vụ có thé phân chia nghĩa vụ thành nhiều phan dé thực hiện ở các thời điểm hoặc các giai đoạn khác nhau phù hợp với

<small>thời hạn thực hiện nghĩa vụ.</small>

- Nghĩa vụ không phân chia được theo phần là loại nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ khơng thể phân chia nghĩa vụ thành nhiều phần mà phải thực hiện nghĩa vụ làm một lần từ khi phải thực hiện cho đến khi nghĩa vụ được hoàn thành. Đây là loại nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ không thé chia được hoặc các bên có

<small>thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bên có nghĩa vụ phải thực</small>

hiện nghĩa vụ một lần.

* Căn cứ thời điểm hình thành nghĩa vụ, nghĩa vụ được phân chia thành nghĩa vụ đầu tiên và nghĩa vụ hoàn lại.

- Nghĩa vụ đầu tiên là nghĩa vụ hình thành và được thực hiện

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>một cách độc lập theo những căn cứ khác nhau mà không phụ thuộcvào việc thực hiện nghĩa vụ khác.</small>

- Nghĩa vụ hoàn lại là nghĩa vụ chỉ xuất hiện hoặc chỉ được thực

<small>hiện sau khi có một nghĩa vụ đã được thực hiện xong. Tức là nghĩa</small>

vụ hoàn lại có mối quan hệ trực tiếp với một nghĩa vụ trước đó và

<small>nghĩa vụ hồn lại chỉ được thực hiện khi nghĩa vụ trước đó đã được</small>

hồn thành. Ngồi ra, một bên chủ thê trong quan hệ nghĩa vụ hồn lại chính là một bên chủ thể của quan hệ trước đó. Nếu trong quan

<small>hệ nghĩa vụ trước họ là người có nghĩa vụ thì trong quan hệ nghĩa</small>

vụ hồn lại họ là người có quyền và ngược lại.

BLDS năm 2015 không ghi nhận trực tiếp về nghĩa vụ hoàn lại,

song căn cứ vào nhiều quan hệ nghĩa vụ được thực hiện trên thực

tế, có thé nhận thay nghĩa vụ hoàn lại phát sinh trong những trường

<small>hợp sau:</small>

<small>Một là, nghĩa vụ hoàn lại phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụ</small>

liên đới hoặc quyền liên đới. Trường hợp một trong số những người

<small>có nghĩa vụ liên đới đã thực hiện tồn bộ nghĩa vụ với người có</small>

quyền thì những người có nghĩa vụ liên đới khác sẽ phải hồn lại phần mà người có nghĩa vụ kia đã thực hiện thay mình. Nếu một trong số những người có quyền liên đới đã thực hiện quyền yêu cầu thay những người có quyền liên đới khác thì họ phải hồn lại cho những người đó phan giá trị mà mình đã u cau thay họ.

<small>Hai là, nghĩa vụ hồn lại phát sinh từ việc thực hiện nghĩa vụbảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh. Khi bên bảo lãnh đã thực hiện</small>

nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh thì bên bảo lãnh có quyền yêu

cầu bên được bảo lãnh phải hồn lại cho mình những gì mà mình

<small>đã thực hiện thay.</small>

Ba là, nghĩa vụ hoàn lại phát sinh từ việc pháp nhân bồi thường

<small>thiệt hại do người của pháp nhân gây ra, cá nhân hoặc pháp nhân đã</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

bồi thường thiệt hại do người làm công, học nghề gây ra, Nhà nước đã bồi thường thiệt hai do người thi hành công vụ gây ra. Day là

<small>những trường hợp mà việc thực hiện nghĩa vụ hoàn lại chỉ đặt ra</small>

trong trường hợp người gây thiệt hại là người có lỗi khi thực hiện

<small>hành vi gây thiệt hai.</small>

* Căn cứ mối liên hệ giữa các loại nghĩa vụ, nghĩa vụ được phân chia thành nghĩa vụ chính và nghĩa vụ bồ sung.

<small>- Nghĩa vụ chính là nghĩa vụ được hình thành và được thực hiện</small>

<small>một cách độc lập.</small>

- Nghĩa vụ bô sung là nghĩa vụ phụ, được hình thành và thực

<small>hiện với mục đích hồn thiện nghĩa vụ chính, chỉ khi nghĩa vụ chính</small>

khơng được hồn thành, bên có nghĩa vụ b6 sung mới phải thực hiện nghĩa vụ của mình với bên có quyền trong quan hệ nghĩa vu chính. Nghĩa vụ bé sung giống với nghĩa vụ hoàn lại ở chỗ một bên chủ thé có nghĩa vụ bổ sung cũng chính là một bên chủ thé của nghĩa vụ chính. Tuy nhiên, nghĩa vụ bổ sung khác với nghĩa vụ hoàn lại ở chỗ, trong cả hai quan hệ nghĩa vụ thì chủ thể đó đều là bên mang quyền.

BLDS năm 2015 khơng quy định trực tiếp về nghĩa vụ bồ sung, theo đó nghĩa vụ bố sung được xác định thông qua việc hồn thiện nghĩa vụ chính trong một số trường hợp cụ thê như: (i) Bên bảo lãnh thực hiện phần nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh chưa thực hiện với

bên nhận bảo lãnh; (11) Cha mẹ hoặc người giám hộ bồi thường phần

<small>thiệt hại mà người chưa thành niên gây ra thiệt hại nhưng khơng có</small>

đủ tài sản dé bồi thường.

* Căn cứ đối tượng của nghĩa vụ, nghĩa vụ được phân loại thành nghĩa vụ có đối tượng là tài sản và nghĩa vụ có đối tượng là

<small>cơng việc.</small>

- Nghĩa vụ có đối tượng là tài sản là loại nghĩa vụ mà trong đó

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

bên có nghĩa vụ phải chuyên giao một lượng tài sản nhất định cho bên có quyền hoặc người thứ ba. Bên có nghĩa vụ phải giao đúng

SỐ lượng, chất lượng, chủng loại mà các bên đã thỏa thuận hoặc luật

có quy định và phải giao đúng thời điểm và địa điểm đã được xác định hoặc có thể xác định. Loại nghĩa vụ có đối tượng là tài sản thường khơng gan với nhân thân của bên có nghĩa vụ, nên có thê dé dàng chuyên giao cho bên thứ ba khi bên có quyền đồng ý.

- Nghĩa vụ có đối tượng là công việc là loại nghĩa vụ mà bên có

nghĩa vụ phải thực hiện một cơng việc nhất định theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật. Ví dụ, theo thỏa thuận A sẽ thiết kế cho B một trang web chuyên về kinh doanh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nghĩa vụ này có thể là nghĩa vụ không được thực hiện một công việc nhất định. Ví dụ, theo thỏa thuận C sẽ trả cho D một khoản tiền để được đi qua đất nhà D trong thời gian 02 năm, D cam kết khơng xây dựng nhà trên khu đất đó cho đến khi thời hạn 02 năm đã kết thúc.

2. XÁC LẬP NGHĨA VỤ

Trên thực tế, nghĩa vụ có thể được xác lập theo nhiều căn cứ khác. Có thé là từ sự thỏa thuận của các bên chủ thé tham gia quan hệ nghĩa vụ (ví dụ, các bên thỏa thuận xác lập một hợp đồng VỚI các quyền và nghĩa vụ của thé), cũng có thé là từ quy định của pháp luật đối với những sự kiện xảy ra trong đời sống xã hội (ví dụ, người gây thiệt hại có nghĩa vụ bơi thường cho người bị thiệt hại). Theo quy định tại Điều 275 BLDS năm 2015, nghĩa vụ có thê được xác

<small>lập từ một trong các căn cứ sau:</small>

2.1. Hợp đồng

Hợp đồng được coi là một trong các căn cứ phổ biến làm phát sinh nghĩa vụ, bởi đây được coi là công cụ quan trọng để các chủ thé trao đơi các lợi ích nhằm đáp ứng các nhu cầu của mình. Về lí

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

luận, hợp đồng được coi là sự thỏa thuận giữa các bên chủ thé và sự thỏa thuận này hướng tới việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nghĩa vụ. Do đó, có thể thấy rằng đây là trường hợp nghĩa vụ phát sinh từ sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của các bên. Hợp đồng là một trong hai loại giao dịch dân sự, nên để có thé làm phát sinh nghĩa vụ thì hợp đồng phải tuân thủ day đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015 và các quy định khác có liên quan. Trường hợp hợp đồng được giao kết nhưng không tuân thủ đầy đủ các điều kiện này thì ngay cả khi các bên đã thực hiện xong hợp đồng, hợp đồng vẫn có thể bị tuyên vô hiệu và nghĩa vụ của các bên khơng thé phát sinh từ thời điểm giao kết. Vì vậy, dé hạn chế

tối đa thiệt hại có thé xảy ra và đạt được mục đích giao kết hợp

đồng, các bên cần phải lưu ý các quy định liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp đồng khi giao kết.

Về nguyên tắc, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng phải được các bên tuân thủ. Mọi sự vi phạm của bên có nghĩa vụ đều có thé khiến cho lợi ích của bên có quyền bị ảnh hưởng, thậm chí khơng đạt được mục đích giao kết hợp đồng. Trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ, bên có quyền được quyền yêu cầu bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, để xác định khi nào bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ, cần phải xác định được thời điểm phát sinh nghĩa vụ. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 401 BLDS năm 2015, hợp đồng được giao kết hợp pháp có thé phát sinh hiệu lực ở một trong các thời điểm như: thời điểm giao kết hợp

đồng, thời điểm do các bên thỏa thuận, thời điểm luật liên quan có

<small>quy định.</small>

<small>Thơng thường, khi nghĩa vụ phát sinh, bên có nghĩa vụ phải</small>

thực hiện nghĩa vụ với bên có quyên. Song, trong một số trường

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

hợp, các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận thời điểm các bên phải thực hiện nghĩa vụ là một thời điểm sau khi hợp đồng đã có hiệu lực một khoảng thời gian. Ví dụ, A và B giao kết hợp đồng mua bán tài sản và trong hợp đồng các bên xác định bên bán phải thực hiện nghĩa vụ giao tai sản sau 5 ngày ké từ ngày hợp đồng có hiệu lực, bên mua phải trả tiền sau khi đã nhận tài sản. Như vậy, trường hợp nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, cần xác định cụ thê thời điểm phát sinh và thời điểm thực hiện nghĩa vụ. Việc xác định các loại thời điểm này có vai trị quan trọng trong việc xác định thời điểm cham dứt nghĩa vụ cũng như khi nào bên có nghĩa vụ bị coi là

<small>vi phạm nghĩa vụ.</small>

<small>2.2. Hành vi pháp lí đơn phương</small>

Hành vi pháp lí đơn phương là sự thể hiện ý chí đơn phương của một bên chủ thé và khi hành vi đó được thực hiện sẽ dẫn tới

<small>một hậu quả pháp lí. Hậu quả pháp lí xảy ra khi hành vi được thực</small>

hiện phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và ý chí của chủ thể thực

<small>hiện hành vi trong từng trường hợp đó. Có những trường hợp, người</small>

<small>thực hiện hành vi đơn phương khơng có mục đích hướng tới việc</small>

<small>xác lập quan hệ nghĩa vụ với người khác, song quan hệ nghĩa vụ</small>

vẫn có thé phát sinh và được giải quyết theo quy định pháp luật phù hợp. Ví dụ, A hất nước thải ra đường công cộng, B lái xe mô tô qua

bị ngã do trơn trượt thi A phải bồi thường thiệt hại cho B. Tuy nhiên,

<small>trong trường hợp này, hành vi của A bi coi là hành vi gây thiệt hại</small>

nên nghĩa vụ bồi thường của A đối với B được giải quyết theo quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

<small>Truong hợp người thực hiện hành vi pháp lí đơn phương có mục</small>

đích xác lập quan hệ nghĩa vụ với chủ thé khác thì hành vi pháp li

<small>đơn phương đó được coi là giao dich dân sự. Trong trường hợp này,</small>

hành vi pháp lí đơn phương chỉ có thê làm phát sinh nghĩa vụ nếu hành vi đó thỏa mãn day đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

dân sự. Tuy nhiên, không giống như hợp đồng, khi hành vi pháp lí đơn phương đã được xác lập và thỏa mãn day đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì nghĩa vụ cũng chưa chắc đã phát sinh. Chi trong trường hợp có chủ thé đã thỏa mãn day đủ các điều

<small>kiện hoặc hoàn thành công việc mà người xác lập hành vi pháp lí</small>

<small>đơn phương đã đưa ra thì hành vi đó mới có hiệu lực và nghĩa vụ</small>

mới phát sinh. Ví dụ, ngày 10/02/2019, A đưa ra tuyên bố hứa thưởng với nội dung sẽ thưởng số tiền 50.000.000 đồng cho ai đạt điểm tuyệt đối môn Văn trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phố thông năm 2019. Lời tuyên bố hứa thưởng được đưa ra từ ngày 10/02/2019 và hoàn toàn phù hợp với quy định, nhưng lời tuyên bố này chỉ có giá trị cho đến khi có người đạt được điều kiện mà A đưa ra. Tức là chỉ khi có các điều kiện đó, A mới phải thực hiện nghĩa

<small>vụ trả thưởng.</small>

Tại thời điểm hành vi pháp lí đơn phương đã có hiệu lực, chỉ bên xác lập hành vi pháp lí đơn phương phải thực hiện nghĩa vụ đối với chủ thể khác. Bởi vì, hành vi pháp lí đơn phương là hành vi chỉ thê hiện ý chí đơn phương của phía chủ thể xác lập về tat cả các van đề có liên quan đến nghĩa vụ. Hơn nữa, về nguyên tắc, ý chí của chủ thé này không thể khiến cho chủ thé khác phải gánh chịu bat cứ tốn thất về lợi ích nào, tức là người xác lập hành vi pháp lí đơn phương khơng thé bắt buộc chủ thể khác thực hiện nghĩa vụ mà họ không muốn. Đây là điểm khác biệt so với trường hợp nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Trên thực tế, hợp đồng có thể chỉ làm phát sinh nghĩa

vụ của một bên, nhưng cũng có thể làm phát sinh nghĩa vụ của tất

cả các bên chủ thể tham gia giao kết hợp đồng. 2.3. Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền

Thơng thường, một chủ thể chỉ thực hiện công việc thay chủ thể

khác khi được chủ thể có cơng việc ủy quyền. Điều này phù hợp

với thực tế và sự nhận thức của người Việt Nam từ xưa đến nay với

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

quan niệm “ăn có mời, làm có khiến”. Dưới góc độ pháp lí, việc thực hiện cơng việc nếu được người khác ủy quyền sẽ bảo đảm

người thực hiện có thể thực hiện cơng việc theo đúng tính chất,

phạm vi và phù hợp với yêu cầu của người có cơng việc. Đồng thời, cũng bao đảm cho người thực hiện cơng việc có thé được hưởng những lợi ích nhất định từ việc thực hiện cơng việc đó. Song, trong thực tế cuộc sống, nhiều trường hợp người có cơng việc khơng thê kiểm sốt hết tất cả những cơng việc mà mình phải thực hiện dẫn đến việc họ có thé phải gánh chịu những thiệt hại nếu cơng việc khơng được hồn thành đúng hạn. Dé giúp cho người có cơng việc khắc phục, hạn chế những thiệt hại xảy ra khi công việc không được thực hiện đúng thời điểm, nhiều chủ thé đã tự nguyện thực hiện cơng việc thay người có cơng việc khi khơng có sự ủy quyền của

<small>người có cơng việc. Việc thực hiện công việc trong những trường</small>

hợp này được gọi là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền. Về lí luận, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc một

<small>người khơng có nghĩa vụ phải thực hiện công việc cho người khác,nhưng lại tự nguyện thực hiện cơng việc đó hồn tồn vì lợi ích của</small>

người có cơng việc khi người có cơng việc khơng biết hoặc biết mà khơng phản đối. Ví dụ, A và B cùng mở cửa hàng kinh doanh hải

<small>sản đông lạnh. Do cả nhà A đi du lịch nước ngoai nên có nhờ B ở</small>

nhà bán hàng giúp nếu có khách mua hàng. Tuy nhiên, trong thời gian gia đình A đi du lịch, đã xảy ra vụ nổ tụ điện ở trạm biến áp, dẫn đến mắt điện toàn khu vực. Trước tình hình đó, để tránh tình

<small>trạng hàng hải sản đông lạnh bị hư hỏng, B đã thuê máy phát điện</small>

về đề phát điện cho cả nhà mình và nhà A mặc dù trước đó A khơng

ủy quyền cho B thực hiện cơng việc này. Đứng trước tình trạng

cơng việc của người khác cần phải được thực hiện để tránh thiệt hại xảy ra, người thực hiện công việc có quyền quyết định thực hiện

<small>hoặc khơng thực hiện cơng việc đó. Trường hợp khơng thực hiện</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<small>công việc, người không thực hiện công việc cũng không phải gánh</small>

chịu bất cứ loại trách nhiệm gì. Bởi theo quy định họ không bắt

<small>buộc phải thực hiện. Trường hợp họ thực hiện cơng việc đó, họ đã</small>

tự đặt mình vào trạng thái phải chịu các ràng buộc pháp lí đối với người có cơng việc theo quy định của luật. Bởi vì, khi họ bắt đầu

<small>thực hiện cơng việc, quan hệ nghĩa vụ giữa họ và người có cơngviệc đã phát sinh.</small>

<small>Đây là trường hợp nghĩa vụ phát sinh khơng dựa trên ý của</small>

<small>người có cơng việc cũng như người thực hiện công việc. Bởi thực</small>

tế, việc thực hiện cơng việc chỉ nhằm mục đích giúp đỡ người có cơng việc, thậm chí người thực hiện cơng việc có thể có tâm lí

<small>“cứ thực hiện, khơng thích thì bỏ”. Song, theo quy định của BLDS</small>

năm 2015, khi bắt đầu thực hiện cơng việc mà khơng có ủy quyền

<small>của người thực hiện cơng việc, người có cơng việc phải gánh chịu</small>

những nghĩa vụ được quy định tại Điều 575. Trong đó có những

<small>nghĩa vụ cơ bản như: nghĩa vụ thực hiện công việc phù hợp với</small>

khả năng, điều kiện của mình; phải thực hiện cơng việc như cơng việc của chính mình; nếu biết hoặc đốn biết được ý định của

<small>người có cơng việc thì phải thực hiện cơng việc phù hợp với ý định</small> đó.! Theo đó, người thực hiện công việc phải tự bỏ ra các chi phi

(nếu có) dé hồn thành cơng việc. Mặc dù vậy, người thực hiện công việc cũng không phải gánh chịu những tơn thất từ việc thực

<small>hiện cơng việc. Bởi, người có cơng việc phải thanh tốn chi phí</small>

mà người thực hiện công việc bỏ ra dé thực hiện công việc cho mình. Đồng thời phải trả cho người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện cơng việc chu

<small>đáo, có lợi cho mình, trừ trường hợp người thực hiện cơng việc</small>

khơng có ủy quyền từ chối.

<small>! Xem khoản 1, 2 Điều 575 BLDS năm 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<small>Như vậy, mặc dù quan hệ nghĩa vụ giữa người có cơng việc vàngười thực hiện công việc không phát sinh từ sự thỏa thuận của các</small>

bên, tuy nhiên, khi quan hệ này phát sinh, cả hai bên đều phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau. Quy định này bảo đảm sự cân bằng và thé hiện nguyên tắc bình đăng về lợi ích giữa các chủ thé tham gia

<small>quan hệ pháp luật dân sự nói chung, quan hệ nghĩa vụ nói riêng.</small>

2.4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản khơng

<small>có căn cứ pháp luật</small>

Chiếm hữu tài sản là hoạt động được thực hiện bởi những chủ thê nhất định nhằm nắm giữ, quản lí tài sản của mình hoặc của người

khác. Sử dụng tài sản là việc chủ thé thực hiện hoạt động khai thác

<small>công dụng hoặc khai thác hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó.</small>

Việc chiếm hữu, sử dụng tài sản ln hướng tới việc bảo vệ tài sản

hoặc mang lại lợi ích nhất định cho chủ thé. Thông thường, các hành vi này được thực hiện bởi chủ sở hữu hoặc những chủ thể khác được chủ sở hữu chuyền giao quyền chiếm hữu, sử dụng. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật, một số chủ thé được chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác để bảo đảm lợi ích của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng. Tắt cả những trường hợp chiếm hữu. sử dụng tài sản này đều được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, và được coi là chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật. Ngoài các trường hợp này, việc một chủ thể chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác sẽ bị coi là chiếm hữu, sử dụng tài sản

<small>khơng có căn cứ pháp luật.</small>

Hành vi chiếm hữu, sử dụng tài sản khơng có căn cứ pháp luật có thê khiến chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải gánh chịu những thiệt hại nhất định. Theo đó, người chiếm hữu, sử

<small>dụng tài sản khơng có căn cứ pháp luật sẽ phải gánh chịu những loại</small>

trách nhiệm pháp lí nhất định. Trong đó, một trong những loại trách nhiệm mà họ phải thực hiện nhăm hạn chế, khắc phục ngay lập tức

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

những thiệt hại có thé tiép tuc xay ra đối với chủ sở hữu, chủ thé có quyên khác đối với tài sản đó là phải thực hiện nghĩa vụ hồn tra lại tài sản và hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được cho chủ sở hữu, chủ thê có quyền khác đối với tài sản.

Ngoài ra, trường hợp một chủ thé được lợi về tài sản của người khác mà khơng có căn cứ dẫn đến người có tài sản bị thiệt hại thì

<small>người được lợi phải hồn trả lại tài sản mà mình được lợi và hoalợi, lợi tức cho người có tài sản.</small>

về nguyên tắc, ngay tại thời điểm chủ thé chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật thì nghĩa vụ hồn tra đã phát sinh, bất kế chủ thé đó và chủ sở hữu, chủ thé có

quyền khác đối với tài sản đã biết về việc chiếm hữu, sử dụng tài

sản, được lợi về tài sản là khơng có căn cứ pháp luật hay chưa. Tuy nhiên, việc xác định thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật và thời điểm các chủ thê biết hoặc có thé biết về việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật có vai trị quan trọng. Trước hết, nó là căn cứ dé xác định các loại hoa lợi, lợi tức phải hoàn trả trong trường hợp chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản khơng

<small>có căn cứ pháp luật là ngay tình hay khơng ngay tình. Theo quy</small>

<small>định, người ngay tình chỉ phải trả lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ</small>

thời điểm người đó biết hoặc buộc phải biết việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản là không có căn cứ pháp luật. Trong

<small>khi đó, người khơng ngay tình phải hồn trả tồn bộ hoa lợi, lợi tức</small>

thu được. Ngoài ra, việc xác định các thời điểm bắt đầu chiếm hữu, sử dụng tải sản, được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật là căn cứ dé xác định thời hiệu mà người chiếm hữu, sử dụng, được lợi về

<small>tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình được xác lập</small>

quyên sở hữu đối với tài sản theo quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu tại Điều 236 BLDS năm 2015.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<small>2.5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật</small>

Dưới góc độ lí luận nhà nước và pháp luật, mỗi ngành luật đều sử dụng phương pháp đặc trưng để điều chỉnh các quan hệ thuộc

đối tượng thuộc lĩnh vực mà ngành luật đó điều chỉnh. Trong đó,

luật dân sự điều chỉnh quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân băng cách ghi nhận cho “cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyên, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận”. Song, “việc xác lập, thực hiện, chấm dit quyên, nghĩa vụ dân sự khơng được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.? Tức là mỗi chủ thê đều có quyền được thực hiện những hành vi nham xác lập các lợi ích mà mình mong muốn, nhưng khơng được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thé khác. Hanh vi xâm phạm quyền và lợi ích của chủ thé khác bị coi là hành vi trái pháp luật, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Nhu vậy, về lí thuyết, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thé phát sinh từ hành vi trái pháp luật của một chủ thê. Song, việc thực hiện trách nhiệm lại được biểu hiện thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tiền, chuyển giao vật hoặc thực hiện một cơng việc nào đó nhằm khắc phục và hạn chế thiệt hại cho

<small>bên bị thiệt hại. Do đó, việc thực hiện hành vi trái pháp luật gâyra thiệt hại là một trong các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ. Tuy</small>

nhiên, trong nhiều trường hợp, hành vi trái pháp luật đã gây thiệt hại cho người bị thiệt hại nhưng có thê khơng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người thực hiện hành vi hoặc chủ thé

<small>khác. Đó là trường hợp gây thiệt hại trong những trường hợp mà</small>

theo quy định của luật, trách nhiệm bồi thường được loại trừ hoặc

<small>! Khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015.? Khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra khơng có mối quan hệ nhân quả. Điều này có nghĩa rằng, một hành vi được thực hiện trên thực tế chỉ là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường khi có các điều kiện cơ bản như: (i) Hanh vi đó là hành vi trái pháp luật; (ii) Có thiệt hại xảy ra đối với chủ thê nhất định; (iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; (iv) Không thuộc các trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường như sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại.

<small>2.6. Căn cứ khác do pháp luật quy định</small>

<small>Ngoài những căn cứ xác lập nghĩa vụ được phân tích ở trên,</small>

nghĩa vụ cịn có thé xác lập theo những căn cứ khác do pháp luật

<small>quy định. Đó là những trường hợp nghĩa vụ được xác lập theo quy</small>

định của một văn bản pháp luật hoặc một quyết định của cơ quan

nhà nước có thâm quyên. Vị dụ, khi A và B ly hơn, Tịa án chỉ định

B mơi con còn A sẽ phải cấp dưỡng cho con chung mỗi tháng 5.000.000 đồng, số tiền này được chuyên cho B. Hoặc, theo quy định tại các điều từ Điều 171 đến Điều 178 BLDS năm 2015, khi thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản, chủ sở hữu, chủ thé có quyền khác đối với tài sản có nghĩa vụ bảo vệ mơi trường, bảo đảm an tồn, trật tự xã hội, tơn trọng quy tắc xây dựng... Có thé thấy răng, nghĩa vụ phát sinh trong các trường hợp này thường khơng dựa trên ý chí của chủ thể có nghĩa vụ và việc thực hiện nghĩa vụ trong các trường hợp này không dựa trên quyên lợi trực tiếp được hưởng mà dựa trên việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thê khác. Tức là trong những trường hợp này, nghĩa vụ chỉ đặt ra đối với một bên chủ thé. Ngoài ra, nghĩa vụ được xác lập trong các trường hợp này có thé bao gồm nghĩa vụ tồn tại dưới dang khơng hành động (ví dụ, nghĩa vụ tơn trọng quyền và lợi ích pháp của chủ thé khác), hoặc dưới dạng hành động.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

3. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ

<small>3.1. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ</small>

<small>Thời hạn thực hiện nghĩa vụ là khoảng thời gian mà bên có</small>

nghĩa vụ phải hồn thành nghĩa vụ với bên có quyền. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ có thể được xác định theo thỏa thuận của các bên, theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thấm qun. Trường hợp khơng thê xác định thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo các căn cứ này thì bên có quyền được u cầu thực hiện nghĩa vụ và bên có nghĩa vụ được quyền thực hiện nghĩa

vụ bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho nhau một khoảng thời

gian hợp lí. Ví dụ, A cho B vay số tiền là 100.000.000 đồng nhưng không thỏa thuận thời hạn trả nợ nên A chỉ có quyền yêu cau B trả

<small>nợ khi báo trước một khoảng thời gian hợp lí. Cụm từ “khoảng thời</small>

<small>gian hợp lí” là cụm từ định tính, hiện BLDS năm 2015 khơng giải</small>

thích thế nào là hợp lí. Do vậy, việc xác định khoảng thời gian này phải tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào khả năng, hoàn cảnh và điều kiện thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ cũng như khả năng, hồn cảnh, điều kiện tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của bên có quyên.

<small>Khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã được xác định, bên có nghĩa</small>

<small>vụ phải thực hiện nghĩa vụ theo đúng thời hạn đó, trừ trường hợp</small>

BLDS hoặc luật liên quan có quy định khác. Về nguyên tắc, việc thực hiện đúng hoặc không đúng nghĩa vụ có thé gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền. Song, trong một SỐ trường hợp, việc thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn sẽ mang lại lợi ich cho bên có quyền nhưng có thê ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên có nghĩa vụ. Do đó, để bảo đảm quyền lợi của cả hai bên trong quan hệ nghĩa vụ, trong một số trường hợp khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ có thé tạm thời khơng

<small>phải thực hiện nghĩa vụ (hỗn thực hiện nghĩa vụ). Ví dụ, bên phải</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

thực hiện nghĩa vụ trước có quyền hỗn thực hiện nghĩa vụ, nếu khả

<small>năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia đã bị giảm sút nghiêm trọng</small>

đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có biện

pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vu.' Bên phải thực hiện nghĩa vu sau

có qun hỗn thực hiện nghĩa vụ đến hạn nếu bên thực hiện nghĩa vụ trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn.?

Bên có nghĩa vụ chỉ được thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn nếu bên có quyền đồng ý. Có thể sẽ có ý kiến khác nhau về sự không phù hợp của quy định về việc thực hiện nghĩa vụ trước hạn. Bởi vì thơng thường chúng ta hay nhận thức rằng chỉ khi không thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn mới có thé khiến cho lợi ich của bên có quyền bị ảnh hưởng. Song thực tế, việc thực hiện nghĩa vụ trước hạn cũng có thé khiến quyền và lợi ich của bên có quyền bị ảnh hưởng. Vi dụ, A và B ký hợp đồng thuê xe máy trong thời hạn 1 tuần, nhưng đến ngày thứ ba B đã mang xe đến trả và chấp nhận trả tiền thuê cho cả tuần. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, A khơng thé tiếp nhận việc trả lại xe nên A có quyền từ chối tiếp nhận cho đến khi có khả năng hoặc khi hết thời hạn.

<small>Việc xác định thời hạn thực hiện nghĩa vụ có vai trị quan trọng</small>

<small>trong quan hệ nghĩa vụ. Chỉ khi xác định chính xác thời hạn mới có</small>

thé xác định được bên có nghĩa vụ có thực hiện đúng nghĩa vụ hay khơng. Qua đó xác định thời điểm có sự vi phạm nghĩa vụ dé từ đó xác định thời hiệu khởi kiện u cầu Tịa án giải quyết tranh chấp

<small>có liên quan.</small>

3.2. Địa điểm thực hiện nghĩa vụ

Xuất phát từ nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận

<small>! Khoản 1 Điều 411 BLDS năm 2015.? Khoản 2 Điều 411 BLDS năm 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

của các bên khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự, trước hết địa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận. Theo đó, địa điểm thực hiện nghĩa vụ có thể là nơi cư trú hoặc trụ sở của bên mang quyền hoặc bên có nghĩa vụ hoặc ở một địa điểm nào đó mà các bên đã xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng. Việc xác định địa điểm thực hiện nghĩa vụ sẽ ảnh hưởng đến việc xác định chủ thé chịu chi phí cho việc thực hiện nghĩa vu, do đó các bên thường thỏa thuận cụ thê về vấn đề này, đặc biệt là trường hợp nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Trường hợp các bên không có thỏa thuận, địa điểm thực hiện nghĩa vụ được xác định theo đối tượng của nghĩa vụ. Đó là nơi có bất động sản nếu đối tượng của nghĩa vụ là bất động sản, đó là nơi cư trú hoặc trụ sở của bên mang quyền nếu đối tượng của nghĩa vụ không phải là bất động sản. Trường hợp bên có quyền thay đổi nơi cư trú hoặc trụ sở thì phải báo cho bên có nghĩa vụ và phải chịu chi phí tăng lên do việc thay đổi nơi

cư trú hoặc trụ sở, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.!

Về lí thuyết, địa điểm thực hiện nghĩa vụ là nơi hoặc khơng gian mà bên có nghĩa vụ phải chuyển giao vật, chuyền giao tiền hoặc các loại tài sản khác, hoặc phải thực hiện công việc nhằm mang lại lợi ích cho bên có quyền hoặc người thứ ba. Trước đây, địa điểm thực hiện nghĩa vụ thường được xác định bằng địa chỉ cụ thé theo đơn vị hành chính. Song ngày nay, địa điểm thực hiện nghĩa vụ có thé được xác định theo một địa chỉ điện tử khi việc thực hiện nghĩa vụ được tiến hành thông qua hệ thống internet. Vi du, A cho B vay tiền và thỏa thuận đến thời han trả nợ, B sé chuyên số tiền phải trả vào số tài khoản ngân hàng mà A cung cấp. Trong thời đại công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, việc thực

<small>hiện nghĩa vụ thông qua các phương tiện điện tử ngày càng trở</small>

<small>! Khoản 2 Điều 277 BLDS năm 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<small>nên phô biên khiên cho việc xác định địa điêm thực hiện nghĩa</small>

<small>vụ cũng trở nên linh hoạt hơn, đặc biệt là các nghĩa vụ có đơi</small>

<small>tượng là tiên hoặc các loại giây tờ hoặc các thông tin.3.3. Phương thức thực hiện nghĩa vụ</small>

<small>Phương thức thực hiện nghĩa vụ là cách thức mà bên có nghĩa</small>

vụ chuyền giao tài sản, phải thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc nhất định theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật nhằm đem lại lợi ích cho bên có quyền. Phương thức thực hiện nghĩa vụ thường được xác định thông qua những biểu hiện cụ thé như thực hiện một lần hay nhiều lần, thực hiện liên đới hoặc

<small>riêng rẽ, tự thực hiện hay thông qua người thứ ba...</small>

Cách thức thực hiện nghĩa vụ không phải là yếu tố tác động đến việc hồn thành nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, song lại là yếu tố ảnh hưởng đến quyền và lợi ich hợp pháp của bên mang quyền. Vi dụ,

<small>A bán tài sản cho B, theo thỏa thuận A phải giao tài sản cho B trong</small>

vòng 03 ngày ké từ ngày hợp đồng có hiệu lực, nếu A giao tài sản một lần thì B chỉ phải sắp xếp thời gian để nhận tài sản một lần, nhưng nếu A giao tài sản nhiều lần thì B sẽ mắt nhiều thời gian để tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ giao tài sản của A. Hơn nữa, việc thực hiện nghĩa vụ theo các phương thức khác nhau có thể làm tăng chi phí liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ cũng như chi phí liên quan đến việc tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ.

Để bảo đảm việc xác định phương thức thực hiện không ảnh hưởng đến quyên và lợi ích hợp pháp của các bên, pháp luật ghi nhận cho các bên được thỏa thuận về phương thức thực hiện nghĩa vụ. Theo đó, các bên được quyền thể hiện ý chí nhằm xác định cách

thức mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ với bên có quyên.

Chỉ khi nào các bên đạt được sự nhất trí thì mới có thể xác định được phương thức thực hiện nghĩa vụ. Các bên có thé thỏa thuận phương thức thực hiện nghĩa vụ tại thời điểm giao kết hợp đồng

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

hoặc tại một thời điểm bắt kỳ trước khi bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền.

<small>Trường hợp các bên khơng có thỏa thuận thì phương thức thựchiện nghĩa vụ được xác định theo quy định của pháp luật. BLDS</small>

năm 2015 không quy định cụ thé về phương thức thực hiện nghĩa vụ nói chung mà ghi nhận về phương thức thực hiện nghĩa vụ khi các bên khơng có thỏa thuận trong từng trường hợp cụ thê. Ví dụ,

về phương thức giao tài sản trong hợp đồng mua bán tài sản,

khoản 1 Điều 436 BLDS năm 2015 quy định: “Tai sản được giao theo phương thức do các bên thỏa thuận; nếu khơng có thỏa thuận thì tài sản do bên ban giao một lan và trực tiếp cho bên mua”. Hoặc, ví dụ về việc nhiều người cùng bảo lãnh, Điều 338 BLDS năm 2015

quy định: “Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải

<small>liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc</small>

pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phân độc lập”. 3.4. Thực hiện nghĩa vu trong từng trường hợp cu thé

<small>3.4.1. Thực hiện nghĩa vụ giao vật</small>

Nghĩa vụ giao vật là nghĩa vụ có đối tượng là một vật cụ thể mà bên có nghĩa vụ phải chuyền giao cho bên có quyền hoặc người thứ ba. Trên thực tế, nghĩa vụ giao vật có thể được xác lập từ nhiều căn cứ khác nhau, nên tùy từng trường hợp cụ thể nghĩa vụ giao vật sẽ có nội dung cụ thé khác nhau. Về nguyên tắc, bên có nghĩa vụ phải

<small>thực hiện đúng nghĩa vụ giao vật mà các bên thỏa thuận hoặc luật</small>

<small>có quy định. Việc xác định bên có nghĩa vụ có thực hiện đúng nghĩa</small>

vụ hay khơng phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản như:

Thứ nhất, bên có nghĩa vụ có giao đúng chủng loại, tình trạng

<small>của vật hay không.</small>

<small>Theo quy định của BLDS năm 2015, dựa trên từng tiêu chí cụ</small>

thé, vật có thé được phân chia thành nhiều loại khác nhau như vật

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

chính và vật phụ, vật cùng loại và vật đặc định, vật đồng bộ và vật đơn lẻ... Dựa trên căn cứ xác lập nghĩa vụ giao vật, có thể xác định được vật mà bên có nghĩa vụ phải giao cho bên có quyên thuộc loại nào. Đó là căn cứ dé đánh giá mức độ hoàn thành nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ là vật đặc định hoặc vật đồng bộ thì phải giao đúng vật đó mà khơng được thay thế bang bat cứ vật nào khác. Bởi vì vật đặc định là vật có thé phân biệt

với các vật bởi một trong các yếu tố như hình dáng, tính chất, tính

<small>năng, cơng dụng... nên việc xác định bên có nghĩa vụ giao vật không</small>

đúng thỏa thuận là rat dé dàng. Trường hợp vật phải giao là vật cùng loại thì bên có nghĩa vụ phải giao vật cùng loại với vật là đối tượng

<small>của nghĩa vụ. Do vật cùng loại là những vật có cùng hình dáng, tính</small>

chất, tính năng, cơng dụng... nên có thê thay thế được cho nhau. Vì vậy, trong quan hệ nghĩa vụ, yếu tố mà bên có quyền quan tâm đó là bên có nghĩa vụ có giao vật cùng loại đúng chất lượng như đã thỏa thuận hoặc như chất lượng trung bình hay khơng.

Thứ hai, bên có nghĩa vụ có giao đúng số lượng vật hay không. Một trong những điều kiện của tài sản là đối tượng của nghĩa vụ đó là tài sản phải được xác định cụ thê về số lượng. Do đó, khi đối tượng của nghĩa vụ là vật thì vật đó phải được xác định cụ thể làm căn cứ xác định mức độ thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Tùy thuộc vào từng căn cứ xác lập nghĩa vụ mà số lượng vật bên có nghĩa vụ phải chuyển giao sẽ được xác định

<small>theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật thơng qua các đơn v1</small>

đo lường cụ thé.

Q trình thực hiện nghĩa vụ giao vật có thể phat sinh các chi phí có liên quan. Ví dụ, chi phí vận chuyền, chi phí bảo quan... Các

bên có quyền thỏa thuận về chủ thể phải chịu loại chi phí này.

<small>Trường hợp khơng có thỏa thuận thì bên có nghĩa vụ phải chịu chi</small>

phí liên quan đến việc giao vật đến địa điểm đã thỏa thuận.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

3.4.2. Thực hiện nghĩa vụ trả tiền

Trên thực tế, hầu hết các nghĩa vụ được xác lập và thực hiện đều là nghĩa vụ về tài sản hoặc nghĩa vụ có liên quan đến tài sản nên các quan hệ nghĩa vụ hầu hết là các quan hệ về tài sản. Xuất

<small>phát từ một trong các đặc trưng của quan hệ tài sản do luật dân sự</small>

điều chỉnh đó là quan hệ tài sản mang đặc trưng của quan hệ hàng hóa - tiền tệ, có thể thấy trong các quan hệ nghĩa vụ về tài sản, tiền luôn là đại lượng xuất hiện với tư cách là đối tượng của nghĩa vụ hoặc công cụ dé định giá giá trị của các loại tài sản khác hoặc thù lao mà một bên phải trả cho bên kia. Do đó, có thé thay nghĩa vụ về tiền nói chung, nghĩa vụ trả tiền nói riêng có thé xuất hiện ở hầu hết các quan hệ nghĩa vụ về tài sản, bao gồm cả quan hệ có đối tượng là tài sản (ví dụ, nghĩa vụ trả tiền trong quan hệ mua bán, quan hệ thuê tài sản, quan hệ vay tài sản...), cả quan hệ có đối tượng là cơng việc (ví dụ, nghĩa vụ trả tiền của bên thuê vận chuyên trong quan

hệ vận chuyên, nghĩa vụ trả tiền của bên thuê dịch vụ...).

Nghĩa vụ trả tiền có thé xác định ở thời điểm xác lập quan hệ, nhưng cũng có thể xác lập ở thời điểm bên có nghĩa vụ đã vi phạm

<small>nghĩa vụ. Ví dụ, theo thỏa thuận A phải thực hiện công việc theo</small>

yêu cau của B, nhưng hết thời han A vẫn khơng hồn thành cơng việc dẫn đến B bị thiệt hại. Theo đó, A phải bồi thường một khoản tiền dé bù dap thiệt hai cho B theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Theo quy định của BLDS năm 2015, nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả nghĩa vụ trả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp các bên

có thỏa thuận khác.!

Bên có nghĩa vụ trả tiền phải thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận. Sự vi phạm nghĩa vụ trả tiền có thể khiến cho quyền lợi của bên có quyền bị ảnh hưởng,

<small>! Khoản 2 Điều 280.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

nên trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả tiền thì phải chịu trách nhiệm tương ứng với hành vi vi phạm. Trên thực tế, bên có nghĩa vụ trả tiền thường vi phạm về thời hạn thực hiện nghĩa vụ nên trách nhiệm dân sự mà họ phải gánh chịu thường liên quan đến việc trả lãi đối với số tiền chậm trả.

3.4.3. Thực hiện nghĩa vụ có đối tượng là cơng việc

Điều 281 BLDS năm 2015 quy định: “/. Nghia vụ phải thực

<small>hiện một công việc là nghĩa vụ mà theo đó bên có nghĩa vụ phảithực hiện dung cơng việc đó. 2. Nghĩa vụ không được thực hiện mộtcông việc là nghĩa vụ mà theo đó bên có nghĩa vụ khơng được thực</small>

hiện cơng việc đó”. Theo quy định này, thực hiện nghĩa vụ có đối tượng là cơng việc có thé là việc chủ thé có nghĩa vụ phải thực hiện

hoặc khơng được thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định theo

thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền hoặc người thứ ba.

Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ là một công việc phải thực

<small>hiện, việc xác định bên có nghĩa vụ thực hiện đúng hoặc khơng đúng</small>

nghĩa vụ dựa trên sự thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện công việc. Trong trường hợp này, việc thực hiện nghĩa vụ được biểu hiện thông qua hành động cụ thể của bên có nghĩa vụ, nên khi bên có nghĩa vụ khơng thực

<small>hiện hành động đó sẽ bị coi là không thực hiện nghĩa vụ và phải</small>

chịu trách nhiệm dân sự về việc khơng thực hiện đó. Trường hợp

đối tượng của nghĩa vụ là một công việc không được thực hiện thì

biéu hiện của việc thực hiện đúng nghĩa vụ là bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hành vi cụ thé.

Việc thực hiện nghĩa vụ có đối tượng là cơng việc có một số

điểm khác biệt với việc thực hiện nghĩa vụ chuyên giao một loại tài sản cụ thé. Sự khác biệt đầu tiên đó là việc thực hiện nghĩa vụ có đối tượng là cơng việc có thê trực tiếp hoặc gián tiếp mang lại lợi

</div>

×