Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 16 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>ĐỀ TÀI: CHÍNH SÁCH “CHỦ NGHĨA HỊA BÌNH TÍCH CỰC” DƯỚITHỜI SHINZO ABE VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN CỤC DIỆN KHU VỰC</b>
<b>CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG</b>
<b>Sinh viên thực hiện : Nguyễn Tấn DũngMã sinh viên : CATBD49A60031</b>
<b> Lớp : </b>CSĐNVN 1975-nay-49-CATBD.6_LT
<b>Số lượng từ : 5392 từ</b>
<b>Hà Nội – 2023</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT</b>
1 ASDF <sup>Air Self-Defense Force</sup> <sup>Lực lượng Phòng vệ Trên </sup> 3 DPJ <sup>Democratic Party of Japan</sup> <sup>Đảng Dân chủ Nhật Bản</sup>
5 JGC <sup>Japan’s Coast Guard</sup> <sup>Lực lượng Bảo vệ Bờ biển</sup><sub>Nhật Bản</sub> 6 LDP <sup>Liberal Democratic Party</sup> <sup>Đảng Dân chủ Tự do</sup> 7 MSDF <sup>Maritime Selft-Defense Force</sup> <sup>Lực lượng Phòng vệ Hàng</sup><sub>hải</sub> 8 PKOs <sup>UN peacekeeping operations</sup> <sup>Các hoạt động giữ gìn hịa</sup> bình của Liên Hợp Quốc
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>TĨM TẮT</b>
Trong bài nghiên cứu chung, nhóm đã chọn đề tài: Chính sách “Chủ nghĩa hịa bình tích cực” dưới thời Shinzo Abe và những tác động đến cục diện khu vực châu Á - Thái Bình Dương”, phân tích về nội dung, mục tiêu, bản chất, quá trình triển khai, đánh giá chính sách; phân tích tác động của chính sách đến tình hình chung, đến cục diện khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đánh giá quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản, vị trí Việt Nam trong chính sách.
Đối với phần nghiên cứu cá nhân, bài tiểu luận dưới đây hướng tới định nghĩa rõ ràng hơn về “chủ nghĩa hịa bình”, tìm hiểu về nguồn gốc của khái niệm này, những cách tiếp cận khác nhau của “chủ nghĩa hịa bình”. Sau đó người viết nghiên cứu về “chủ nghĩa hịa bình thụ động” dưới thời Shinzo Abe, so sánh hai chủ nghĩa “tích cực” và “thụ động”, từ đó làm rõ hơn những ưu điểm của “chủ nghĩa hịa bình tích cực” mang lại so với “chủ nghĩa hịa bình thụ động”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
Bài nghiên cứu chung của nhóm chưa làm rõ nguồn gốc của từ “chủ nghĩa hịa bình”, dễ gây hiểu nhầm đây là một từ được Nhật Bản phát minh ra. phần I.2. Cơ sở hình thành “chủ nghĩa hịa bình tích cực” có nhắc đến “chủ nghĩa hịa bình thụ động”. Qua đó người viết muốn trình bày thêm những thơng tin về chủ nghĩa này, từ đó có thể so sánh điểm tương đồng và khác biệt giữa 2 chủ nghĩa, giúp nhận biết được những ưu điểm của chủ nghĩa hịa bình tích cực.
Trong bài nghiên cứu chung của nhóm, nhóm chưa nêu được định nghĩa cụ thể về khái niệm “chủ nghĩa hịa bình tích cực”, từ đó có thể gây hiểu lầm rằng khái niệm này được sáng tạo bởi quốc gia Nhật Bản. Trong bài nghiên cứu cá nhân này người viết sẽ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Chủ nghĩa hịa bình là gì?”, “Có bao nhiêu loại chủ nghĩa hịa bình đã được định danh?”.
Và ở phần I.2. Cơ sở hình thành “chủ nghĩa hịa bình tích cực” có nhắc đến “chủ nghĩa hịa bình thụ động”. Cá nhân người viết thấy nhóm chưa làm rõ về khái niệm này, nên người viết đặt ra giả thuyết là chủ nghĩa hịa bình thụ động vốn là “tiền bối” của “chủ nghĩa hịa bình tích cực”. Vì thụ động nên bản chất chính sách này cịn nhiều yếu điểm, từ đó phần tiếp theo của bài làm sẽ trả lời câu hỏi “Ảnh hưởng của chính sách hịa bình thụ động dưới thời Shinzo Abe lên Nhật Bản là gì?”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>1.2. Phân loại chủ nghĩa hịa bình...7</b>
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH “CHỦ NGHĨA HỒ BÌNH TÍCH CỰC” VÀ “CHỦ NGHĨA HỒ BÌNH THỤ ĐỘNG” CỦA NHẬT BẢN...8
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>NỘI DUNG</b>
<b>CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HỒ BÌNH1.1 Định nghĩa:</b>
Chủ nghĩa hịa bình (Pacifism) là cam kết vì hịa bình và phản đối bạo lực, đặc biệt là chiến tranh. Một số người theo chủ nghĩa này mở rộng mục đích của nó bao gồm cả thúc đẩy công lý và nhân quyền.
Phiên bản tiếng Pháp là từ “pacifisme” lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1902 tại một hội nghị hịa bình quốc tế, tuy nhiên khái niệm chủ nghĩa hịa bình đã có từ hàng ngàn năm trước.
Từ “chủ nghĩa hịa bình” (pacifism) bắt nguồn từ “pacific” có nghĩa là “kiến tạo hịa bình”: “paci” (từ pax trong tiếng Latin) có nghĩa là “hịa bình”, và “ficus” có nghĩa là “tạo dựng, kiến tạo”. Phải lưu ý một điều là từ này không mang nghĩa “phản đối chiến tranh” - bởi khái niệm về chủ nghĩa hịa bình là lời kêu gọi hành động vì hịa bình. Triết học gia William James đã sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa hòa bình” (pacific-ism) vào năm 1910 để thể hiện việc ơng bác bỏ chủ nghĩa quân phiệt. Từ “pacifism” vốn ngắn hơn được sử dụng phổ biến trong thế kỷ XX nhằm mơ tả những quan điểm chỉ trích, phê phán xung đột bạo lực và chiến tranh.
Chủ nghĩa hịa bình dựa trên các nguyên tắc đạo đức hoặc chủ nghĩa thực dụng (pragmatism). Chủ nghĩa hịa bình theo ngun tắc cho rằng bạo lực là sai trái về mặt đạo đức. Chủ nghĩa hịa bình thực dụng lại cho rằng cái giá phải trả của chiến tranh và bạo lực giữa các cá nhân là rất lớn và nghiêm trọng, nên cần phải tìm ra những hướng giải quyết tranh chấp tốt hơn.
Một số người thường bị nhầm lẫn giữa từ “thụ động” (passive), tức là chấp nhận hoặc cho phép những gì xảy ra hoặc những gì người khác làm mà khơng có phản ứng hoặc phản kháng tích cực, với chủ nghĩa hịa bình. Mặc dù chúng khơng liên quan đến nhau về nghĩa, nhưng sự nhầm lẫn này cùng với những ảnh hưởng về văn hóa và chính trị đã dẫn đến những quan điểm tiêu cực và sai lệch về chủ nghĩa hịa bình.
Quan trọng là phải lưu tâm đến những khác biệt về đạo đức của chủ nghĩa hịa bình khi nó áp dụng cho một cá nhân hoặc quốc gia-dân
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">tộc. Ví dụ, cá nhân theo chủ nghĩa hịa bình (có thể theo hoặc khơng theo một tơn giáo cụ thể) có thể ủng hộ cái chết êm dịu tự nguyện (voluntary euthanasia) đồng thời giữ quan điểm nhất quán về cách tiếp cận các vấn đề xung quanh xung đột bạo lực và lợi ích chung. Mặc dù những vấn đề như vậy làm nảy sinh ra những tình huống khó xử về mặt đạo đức, nhưng đối với một số người, chủ nghĩa hịa bình có thể chấp nhận khả năng hạ sát trong một số trường hợp nhất định.
<b>1.2. Phân loại chủ nghĩa hịa bình</b>
Chủ nghĩa hịa bình có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Một số người theo chủ nghĩa hịa bình tin rằng các tranh chấp quốc tế phải ln được giải quyết theo một cách hịa bình, trong khi những người khác lại chọn cách tiếp cận chủ nghĩa hịa bình ít rõ ràng hơn.
Sau đây là những cách tiếp cận phổ biến của chủ nghĩa hịa bình, tuy nhiên các cá nhân sẽ có những niềm tin khác nhau tùy theo niềm tin văn hóa, tơn giáo và tâm linh của họ.
<b>Chủ nghĩa hịa bình tuyệt đối ( Absolute Pacifism)</b>
Một người theo chủ nghĩa hòa bình tuyệt đối tin rằng việc tham gia chiến tranh là không bao giờ đúng. Quan điểm của họ cho rằng giá trị mạng sống con người là vô giá, khơng gì có thể biện minh cho việc cố ý giết người, ngay cả khi là để tự vệ.
<b>Chủ nghĩa hịa bình q khích (Militant Pacifism)</b>
Những người theo chủ nghĩa này sẽ sử dụng mọi biện pháp hịa bình mà họ có để chống lại bạo lực và chiến tranh. Điều này có thể bao gồm sự bất tuân dân sự, điều này có thể dẫn đến bỏ tù hoặc thậm chí tử vong.
<b>Chủ nghĩa hịa bình có điều kiện (Conditional Pacifism)</b>
Những người theo chủ nghĩa hịa bình có điều kiện về nguyên tắc họ chống lại chiến tranh và bạo lực, nhưng họ chấp nhận rằng có thể có những trường hợp khi chiến tranh xảy ra có thể dẫn đến ít đau khổ hơn, hay nói cách khác đôi khi chiến tranh là không thể tránh khỏi.
<b>Chủ nghĩa hịa bình chọn lọc (Selective Pacifism)</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Những người theo chủ nghĩa hịa bình có chọn lọc chỉ phản đối các cuộc chiến tranh liên quan đến vũ khí hủy diệt hàng loạt (vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học) vì những hậu quả tàn khốc của chúng đối với không chỉ con người mà còn đối với tất cả các sinh vật sống. Việc sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt trên quy mô lớn cũng gia tăng khả năng tuyệt chủng của lồi người nói riêng và tồn bộ sinh vật sống nói chung.
<b>Chủ nghĩa hịa bình tích cực (Active Pacifism)</b>
Những người theo chủ nghĩa hịa bình tích cực ủng hộ hịa bình và tranh luận chống lại bạo lực và chiến tranh.
<b>CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH “CHỦ NGHĨA HỒ BÌNH TÍCH CỰC” VÀ “CHỦ NGHĨA HỒ BÌNH THỤ ĐỘNG” CỦA NHẬT BẢN </b>
<b>2.1. Chủ nghĩa hịa bình tích cực</b>
“Chủ nghĩa hịa bình tích cực” của Nhật Bản (Proactive pacifism) khác với những định nghĩa trên, vốn là những hệ tư tưởng, lại là một chính sách, là định hướng cho quốc gia này hướng theo.
Thuật ngữ “hịa bình chủ động” hay “hịa bình tích cực” bắt nguồn từ nhà nghiên cứu hịa bình nổi tiếng người Na Uy Johan Galtung. “Tích cực đóng góp cho hịa bình” (Proactive contribution to peace) được chính phủ Nhật Bản dịch từ “sekkyokuteki
“chủ động”, điều đó cho phép từ này đóng vai trị là cầu nối ngơn ngữ giữa “chủ nghĩa hịa bình” và khái niệm của Galtung về “hịa bình tích cực”.
Trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản, thuật ngữ “chủ nghĩa hòa bình tích cực” bắt nguồn từ khoảng năm 1991, khi Chủ tịch Diễn đàn Nhật Bản về Quan hệ quốc tế Ito Kenichi sử dụng thuật ngữ này trong một cuốn sách mà ông xuất bản để bày tỏ quan điểm với việc Chiến tranh Lạnh kết thúc và Chiến tranh vùng Vịnh từ đầu năm đó. Ơng khơng liên kết thuật ngữ này với “hịa bình tích cực” của Galtung, mà định nghĩa nó trái ngược với “chủ nghĩa hịa bình thụ động” (passive pacifism). Với Ito, Điều 9 của Hiến pháp Nhật Bản tương tự như “chủ nghĩa hịa bình thụ động”, hay “khơng trở thành kẻ xâm lược” thông qua “sự tiết chế” và “tự chủ” (Ito, 1991, pp. 117-118). Ông đối chiếu điều này với lời kêu gọi Nhật Bản trở thành “quốc gia đóng góp” cho hịa
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">bình quốc tế có trong phần mở đầu của Hiến pháp Nhật Bản. Ông kêu gọi duy trì “sự cân bằng” và “sự hài hịa” giữa chủ nghĩa hịa bình thụ động và chủ nghĩa hịa bình tích cực (Ito, 1991, pp. 117-118). Ito đã tích cực thúc đẩy khái niệm “chủ nghĩa hịa bình tích cực” như một khái niệm định hướng cho chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ năm 2004 (Nihon kokusai fora-mu, 2004), và đặc biệt là từ năm 2007 (Ito, 2007; Japan Forum on International Relations, 2009), mặc dù ông đã từ bỏ ý tưởng cân bằng giữa “chủ nghĩa hịa bình tích cực” và “chủ nghĩa hịa bình thụ động” để hồn tồn thay thế “chủ nghĩa hịa bình thụ động” bằng “chủ nghĩa hịa bình tích cực”. Cụ thể, các chính sách khuyến nghị do viện của ông công bố dưới danh nghĩa thúc đẩy chủ nghĩa hịa bình tích cực đã kêu gọi Nhật Bản xem xét lại 3 nguyên tắc phi hạt nhân và 3 ngun tắc khơng xuất khẩu vũ khí. Các chính sách khuyến nghị khác bao gồm đòi lại quyền tự vệ tập thể và sửa đổi Điều 9 từ bỏ chiến tranh trong Hiến pháp Nhật Bản (Nihon Kokusai Fora-mu, 2004; Japan Forum on International Relations, 2009). Mata Kamiya, một cộng sự của Ito, đã giải thích thêm về “chủ nghĩa hịa bình thụ động” và “chủ nghĩa hịa bình tích cực”, chia mỗi khái niệm thành 2 phần. Chủ nghĩa hịa bình bị động bao gồm “sự thiếu sẵn sàng chủ động hành động hướng tới hịa bình” và “sự thiếu sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân sự vì hịa bình”. Kamiya lập luận rằng “điều kiện đầu tiên của tính chủ động” được thấy là đã tiến triển đáng kể trong vòng 24 năm kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, với việc điều động và tham gia tích cực của Lực lượng Phịng vệ (Self-Defense Force - SDF) ở nước ngồi nhằm tiến hành gìn giữ hịa bình, triển khai các hoạt động nhân đạo và cứu trợ thiên tai (Kamiya, 2014). Như vậy, Nhật Bản đã đạt tiến bộ đáng kể trong việc vượt qua “chủ nghĩa hịa bình thụ động”, tiến tới “chủ nghĩa hịa bình tích cực”.
Mặt khác, Kamiya tun bố rằng cơng chúng Nhật Bản đã không đạt được nhiều tiến bộ trong việc “chấp nhận khái niệm về vai trò của sức mạnh qn sự đối với hịa bình”. Điều này liên quan đến việc thừa nhận “lực lượng quân sự đóng vai trị thiết yếu trong việc xây dựng và duy trì hịa bình … trên thực tế, hịa bình và trật tự không thể tồn tại nếu thiếu đi vũ lực”. Do đó, cơng chúng Nhật Bản “tiếp tục kêu gọi các nỗ lực hịa bình quốc tế của Lực lượng Phòng vệ tránh xa các vấn đề quân sự hết mức có thể”. Tuy nhiên, ơng khẳng định hình thức thứ hai của chủ nghĩa hịa bình tích cực này đang được các nhà hoạch định chính sách tích cực thúc đẩy: “Chủ nghĩa hịa bình tích cực gần đây đã được đưa vào Chiến lược An ninh Quốc gia và Hướng dẫn Chương trình Phịng thủ của Nhật Bản có thể được hiểu là Thủ tướng Abe nói rõ rằng chính
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">quyền của ơng ấy sẽ thúc đẩy điều kiện thứ hai của việc trở nên thụ động” (Kamiya, 2014, pp. 2-3).
Khái niệm của Ito và Kamiya về chủ nghĩa hịa bình tích cực như là sự bình thường hóa với tư cách là một cường quốc quân sự phản ánh cách chính quyền Abe sử dụng thuật ngữ này. Do đó, khơng có gì ngạc nhiên khi khái niệm “chủ nghĩa hịa bình thụ động” bị chỉ trích là một sự lừa dối, khơng liên một chút nào đến khái niệm “hịa bình tích cực” hay chủ nghĩa hịa bình của Galtung. Bản thân Galtung cũng đã chỉ trích việc áp dụng “chủ nghĩa hịa bình thụ động” của chính quyền Abe. Đây có thể coi là hành vi đánh tráo khái niệm, khi coi các hành động như răn đe và cân bằng quyền lực thành các hình thức của “chủ nghĩa hịa bình”, thay vì trình bày chúng dưới các khái niệm hiện thực đúng như bản chất của chúng. Với định nghĩa như vậy, hầu như mọi quyết định sử dụng vũ lực quân sự đều có thể được định nghĩa là “hịa bình”.
<b>2.2. Xây dựng hịa bình và chủ nghĩa hịa bình thụ động của Shinzo Abe</b>
Trong bối cảnh hợp tác an ninh giữa Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản, chủ nghĩa hịa bình tích cực nhấn mạnh vào việc sử dụng sức mạnh quân sự, bao gồm cả vũ khí hạt nhân, đặt ra câu hỏi liệu Nhật Bản áp dụng khái niệm này có bị xa rời các giá trị chung mà quốc gia này đã chia sẻ với EU cho đến nay hay không, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng hịa bình hậu xung đột về mối quan hệ giữa an ninh và phát triển, ủng hộ các chính sách tập trung vào quân đội hơn. Nhật Bản và EU đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tái thiết kinh tế và xã hội, và tái hòa nhập xã hội của các binh sĩ (EJARN and KAS, 2012). Sự xa rời giá trị này dường như có khả năng xảy ra khi chính quyền Abe thúc đẩy “chủ nghĩa hịa bình tích cực”, đây rõ ràng là một sự chỉ trích cho chính sách tiền nhiệm là “chủ nghĩa hịa bình thụ động”, bao gồm các chính sách xây dựng hịa bình từ Campuchia đến Mozambique, Rwanda, Sudan và Haiti. Cách tiếp cận của EU và Nhật Bản cho đến nay khác với cách tiếp cận của đồng minh Mỹ vốn có xu hướng nhấn mạnh việc xác định và tiêu diệt “kẻ xấu” trong các cuộc xung đột nội bộ. Một nhà ngoại giao hàng đầu của Nhật Bản đã chỉ trích Mỹ có “có nhiều cái gọi là tâm lý cao bồi, cơng lý chỉ có thể được thực thi khi kẻ xấu bị trừng phạt.”
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Chính sách của chính quyền Shinzo Abe cho thấy sự thiếu quan tâm đến việc chủ động tham gia vào các hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc và xây dựng hịa bình nói chung. Điều này thể hiện một trở ngại tiềm ẩn đối với lĩnh vực hợp tác an ninh đang phát triển giữa EU và Nhật Bản. Trên thực tế, dưới thời chính quyền Shinzo Abe, Nhật Bản đã áp dụng “chủ nghĩa hòa bình thụ động” khi nói đến việc gìn giữ và xây dựng hịa bình, theo định nghĩa đầu tiên của Kamiya về “chủ nghĩa hịa bình thụ động”: một sự thất bại trong việc chủ động, tích cực đóng góp cho hịa bình. Để so sánh, các chính phủ trước đây của Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) áp dụng chủ nghĩa hịa bình tích cực hơn so với chính quyền LDP của ông Abe, mặc dù nhiệm kỳ của họ ngắn hơn đáng kể. Trong 3 năm 4 tháng cầm quyền, chính phủ DPJ đã bắt đầu 2 nhiệm vụ giữ gìn hịa bình mới của Liên Hợp Quốc, ở Haiti và Nam Sudan, và duy trì nhiệm vụ thứ 3 là Cao nguyên Golan (do một thủ tướng xã hội chủ nghĩa khởi xướng vào năm 1995). DPJ cũng duy trì sứ mệnh chống cướp biển ở Vịnh Aden và vùng biển ngoài khơi bờ biển Somali. Để so sánh, chính quyền Abe, trong 5 năm đầu cầm quyền đã khơng triển khai các hoạt động giữ gìn hịa bình mới của Liên Hợp Quốc (PKOs) và chấm dứt sự tham gia của Nhật Bản vào tất cả các sứ mệnh gìn giữ hịa bình của Liên Hợp Quốc: những nhiệm vụ ở Haiti và Cao nguyên Golan ngay sau khi Abe nhậm chức, và Nam Sudan vào giữa năm 2017. Chính quyền Abe cũng khơng tham gia bất kỳ nhiệm vụ nào khác, mặc dù 15 nhiệm vụ giữ gìn hịa bình của Liên Hợp Quốc u cầu 110,000 cá nhân tham gia (United Nations Peacekeeping, 2017), khơng thiếu các hoạt giữ gìn hịa bình của Liên Hợp Quốc cần sự đóng góp của binh lính Nhật Bản, những nhiệm vụ mà Lực lượng Phòng vệ đáng lẽ ra đã có thể hợp tác chặt chẽ với quân đội EU. Hoạt động triển khai mới duy nhất của Lực lượng Phịng vệ ở nước ngồi mà chính quyền Abe đã cho phép là các hoạt động triển khai ngắn hạn để cứu trợ thiên tai, bao gồm một hoạt động triển khai quy mô lớn tới Philippines sau cơn siêu bão Haiyan.
Các trí thức chính sách đối ngoại, những người hình thành niềm tin đầu não trên thực tế cho chính quyền Abe, chẳng hạn như Ito và Kamiya, đã liên tục nhấn mạnh “yêu cầu của cộng đồng quốc tế” đối với Nhật Bản để đóng góp nhiều hơn cho an ninh quốc tế, sự thụ động của chính quyền Abe trong việc phản hồi “những yêu cầu” là nổi bật hơn cả. Đáng chú ý, chính quyền Abe đã bỏ qua một vài cơ hội quan trọng để triển khai Lực lượng Phòng vệ ở nước ngồi cho các nhiệm vụ phi chiến đấu có ý nghĩa góp phần đảm bảo an ninh tồn cầu. Đầu tiên, vào năm 2014, Văn phòng thủ tướng
</div>