Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Chủ đề vị trí, vai trò của tín ngưỡng thờ thành hoàng làng trong văn hoá việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>HỌC VIỆN NGOẠI GIAO</b>

<b>KHOA TRUYỀN THÔNG VÀ VĂN HỐ ĐỐI NGOẠI~~~~~~*~~~~~~</b>

<b>BÀI TẬP NHĨM</b>

<b>Mơn: Văn hố Việt Nam và Hội nhập quốc tế</b>

<b>CHỦ ĐỀ: VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA TÍN NGƯỠNGTHỜ THÀNH HỒNG LÀNG TRONG VĂN HỐ VIỆT NAM </b>

<b>Giảng viên: Nguyễn Thị Thu Trang</b>

<b>Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 4</b>

Chu Tất Thái Tuấn

Đỗ Mai Trang

Nguyễn Vân Giang

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>4.1. Ý thức về lòng biết ơn những người có cơng với làng xã...4</b>

<b>4.2. Ý thức giữ gìn luật lệ, lề lối gia phong của làng xã...5</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1. KHÁI NIỆM</b>

Thành hoàng là vị thần bảo trợ một thành quách cụ thể, được phụng thờ ở cộng đồng làng xã, được voi như một vị thánh. Mỗi làng quê có một vị thánh của mình, trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ, vì thế Thành hồng mang tính chất ‘hộ quốc tỳ dân’ (hộ nước giúp dân).

Thành hoàng là nhân vật trung tâm của 1 sinh hoạt văn hố gọi là lễ hội, điều đó cũng có nghĩa lễ hội là ngày tưởng niệm vị thánh của làng.

Ví dụ: Tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng, thờ Tứ bất tử: Tản viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh.

Thành hồng được phân thành ba loại, trong đó bao gồm:

- Thượng đẳng thần: Bao gồm các vị thần có cơng lớn với dân, với nước, được nhà vua sắc phong và lập đền thờ. Ví dụ:

+ Đền thờ hai vị Anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị - đã cùng các tướng lĩnh lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của nhà Đông Hán giành lại nền độc lập dân tộc.

<small>+</small> Đền Phù Đổng còn được gọi là đền Thượng, tương truyền được dựng trên nền nhà cũ của Thánh Gióng, bên trong đê sơng Đuống, cịn đền Hạ (đền mẫu) thờ mẹ của Thánh Gióng nằm ngồi đê, gần nơi được cho là có dấu chân khổng lồ mà bà đã ướm thử rồi sinh ra Thánh Gióng.

- Trung đẳng thần: Là các vị thần hoặc các quan địa phương có cơng khai điền lập ấp, có ơn với dân, có khi là các vị thần mà dân làng thờ đã lâu, có tên họ mà khơng rõ cơng trạng, hoặc có quan tước mà không rõ tên họ, hoặc những vị thần có chút linh dị, cho tới khi vua cầu đảo, có ứng nghiệm thì triều đình phong làm Trung đẳng thần. Ví dụ như anh em Cao Lịch, Cao Khiển là tướng nhà Đinh, thuộc tướng của Đinh Điền. Ở các đền thờ vùng Ninh Bình thì Cao Lịch được sắc phong Lịch Lộ Đại vương trung đẳng thần, Cao Khiển được phong Hành Khiển Đại vương trung đẳng thần.

- Hạ đẳng thần: Là những vị thần được dân làng thờ cúng tuy khơng rõ thần tích, nhưng cũng thuộc bậc chính thần. Triều đình theo dân làng mà sắc phong làm hạ đẳng thần.

1

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Ngoài ba vị phúc thần trên, nhiều làng còn thờ cúng cả những vị thần kỳ dị như: thần ăn mày ở làng Thư Lan – Nam Hà; thần ăn trộm ở làng Lơng Khê – Thái Bình; thần gắp phân ở làng Cổ Nhuế – Hà Nội; thần trẻ con,...

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>2. NGUỒN GỐC</b>

Tục thờ Thành hồng có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ, sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa dạng.

Thành hoàng xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại và đã được thờ như là vị thần bảo hộ cho một thành trì, một phủ, một châu hay một huyện. Việc thờ Thành hoàng phổ biến khắp Trung Quốc thời cổ đại, ở đâu xây thành, đào hào là ở đó có Thành hồng. Thành hồng thường được vua ban biển miếu hoặc phong tước. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã lấy việc thờ phụng Thành hồng làm việc giáo hóa dân chúng.

Tuy tín ngưỡng thờ Thành hồng có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng vì quy mơ và cơ cấu làng cổ Trung Quốc có nhiều điểm khác so với làng cổ của Việt Nam, nên tín ngưỡng thờ Thành hồng của các làng Việt cổ cũng không giống với ở làng cổ Trung Quốc. Thành hồng của các làng Việt cổ khơng phải lúc nào cũng thờ vị thần bảo vệ thành hào của làng, mà chủ yếu thờ những người có cơng với dân với nước, có cơng lập ra làng/ có cơng truyền dạy một nghề nào đó cho dân làng, hoặc là một ơng quan tốt.

“Làng Việt có cơ cấu, thiết chế rất chặt chẽ, tuy có quan hệ với nhà nước trung ương, nhưng lại mang tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối này thể hiện sự khác nhau trong việc thờ Thành hoàng làng.” Một số làng thờ những nhân vật lịch sử, có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại nền độc lập dân tộc làm Thành hoàng như: Bà Trưng, Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Hồn,... “Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng là Tổ nghề biểu hiện khá rõ và còn lưu truyền đến nay như làng gốm Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội tôn vị tổ nghề gốm Hứa Vĩnh Kiều làm Thành hoàng làng để ghi nhớ công ơn tuyền dạy nghề gốm cho nhân dân và phát triển thành làng gốm nổi tiếng như hiện nay.”

<b>3. NGHI LỄ</b>

Đối với mỗi người dân ở làng Việt cổ ở miền bắc đất nước ta, Thành hoàng là một biểu tượng thiêng liêng có vai trị to lớn trong việc che chở và bảo hộ dân làng. Chính vì vậy mà sự biết ơn và tơn kính Thành hồng được thể hiện với một nghi thức chặt chẽ trong lễ hội làng với tâm điểm là đình làng.

Đình là nơi để thờ Thành làng và việc thờ cúng Thành hồng được diễn ra thường xun thơng qua việc thắp đèn, hương hằng ngày. Ngoài ra, dân làng vẫn ra 3

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

đình cúng lễ để báo cáo, tạ ơn hay kêu cầu sự che chở của Thành hồng vào những ngày sóc (mùng 1), ngày vọng ( ngày rằm ) hàng tháng, lễ giao thừa, Tết Nguyên đán, hay những ngày trong làng có ma chay, cưới hỏi, người đỗ đạt,...

Đặc biệt là ngày thần húy và thần đản ( ngày mất, ngày sinh ) của Thành hoàng làng, hay ngày nhập tịch của làng, người dân trong làng sẽ tổ chức lễ tế rất lớn. Tế thần là sự giao cảm giữa người và thần là hoạt động thiêng liêng nhất mở đầu lễ hội, là nghi thức rước kiệu, dâng lễ vật, đọc chúc văn tỏ kính ý biết ơn thần, cầu xin thần ban những điều tốt lành cho dân làng

Lễ hội làng được coi là ngày giỗ của cả làng, hay còn gọi là ngày Thần kỵ. Và nghi lễ tế Thành hoàng làng được quy định chặt chẽ ở tất cả các khâu từ việc chọn người chủ tế, bồi tế, các người xướng, cũng như y phục, các động tác cũng được quy định rõ ràng trong điển lễ của làng và người thực hiện lễ tế phải thực hiện các động tác đúng như quy định. Chẳng hạn như ở Nam Định:

“Lễ hội Thành hoàng làng ở tỉnh Nam Định gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ thường diễn ra ở trong thần điện của đình, đền, miếu, chùa, theo một trật tự gồm: cáo, hiến tế, cầu xin, tạ ơn. Tất cả được thể chế hoá cao, long trọng, nghiêm trang từ nhân sự, trang phục, màu sắc, vật dụng, cỗ thờ, vật hiến tế... đến âm nhạc. Trong một số hương ước cổ của làng xã Nam Định còn đưa vào những điều quy định, những thể chế hoá phần lễ của lễ hội làng.”

Đồng thời với tế và lễ, người dân còn tổ chức rước Thành hoàng, với ý muốn đưa thần đi thăm thú làng quê, khoe với thần những công việc tốt đã làm

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>4. GIÁ TRỊ</b>

<b>4.1. Ý thức về lịng biết ơn những người có cơng với làng xã</b>

Từ bao đời nay chúng ta đều biết, “Văn hoá Việt Nam xét về bản chất là một nền văn hố xóm làng”, làng là nơi sản sinh và bảo tồn văn hoá làng-văn hoá dân tộc.” “Người Việt phổ biến nhất, nổi bật nhất là thờ thần ở làng, khơng làng nào là khơng có đình, đền, miếu thờ thần. Bởi thế, thần Thành hoàng là biểu tượng thiêng liêng nhất của cả làng, ở mỗi làng, khắp các làng xưa kia”. Ý thức về truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” đã ăn sâu vào tiềm thức nhân dân Việt Nam và thể hiện qua các hình thức nghi lễ cúng bài, một trong số đó là nghi thức thờ Thành hoàng lành. Nghi thức này là sự kết hợp đỉnh cao của tín ngưỡng sùng bái con người và tín ngưỡng sùng bái thần linh.

Việc thờ cúng bắt nguồn từ sự biết ơn và kính trọng của dân làng đối với những người có cơng với làng với hy vọng được che chở, cứu giúp phù hộ như vị thần bản mệnh đem lại mưa thuận gió hồ, bình n, hạnh phúc.

<b>4.2. Ý thức giữ gìn luật lệ, lề lối gia phong của làng xã</b>

Một trong những đặc điểm của cộng đồng làng xã Việt Nam là tính tự trị. “Làng là cộng đồng dân sự tự trị” (GS. Phan Đại Dỗn). Chính bởi tính tự trị ấy mà mỗi làng xã Việt Nam thường đặt ra “hương ước” - hệ thống luật lệ, tập quán, quy tắc ứng xử yêu cầu người làng phải tuân theo. Trong khi đó, trong tiềm thức của người dân, Thành hồng làng có một vị trí rất quan trọng. Họ coi Thành hoàng là vị thần tối linh, là người có quyền uy, chứng kiến mọi sinh hoạt trong đời sống vật chất và tinh thần của họ. Có thể khẳng định, Thành hoàng là động lực lớn nhất để họ giữ gìn và tuân thủ lệ làng. “Sự thờ phụng Thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng”. Làm trái luật lệ cũng đồng nghĩa trái với Thành hồng, trái với tín ngưỡng mà bản thân tơn thờ.

Trong q trình thờ Thành hồng làng diễn ra rất nhiều nghi lễ, phép tắc (đã trình bày ở mục 3 - Nghi lễ). Đây chính là dịp để con cháu đời sau quan sát, học hỏi, tiếp nhận những nghi lễ ấy, từ đó xây dựng ý thức giữ gìn và truyền đạt lại cho thế hệ con cháu mai sau. Lệ làng cứ thế mà tiếp nối, trách nhiệm bảo vệ cứ thế mà lớn mạnh.

Mặc dù dân gian vẫn truyền tụng câu “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ” nhưng lễ hội thờ Thành hồng làng khơng chỉ có sự tham gia của người trong làng mà cịn có sự góp mặt của người làng khác, nhân đó mà mở rộng mối quan hệ cho làng - vốn đóng kín. Làng nào cũng cố gắng thể hiện rõ nhất, tốt 5

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nhất những nghi lễ, tập quán của làng mình. Chứng kiến các tục lệ của “làng bạn”, sự “cọ xát” văn hóa diễn ra kéo theo đó là ý thức gìn giữ luật lệ, lề lối gia phong làng xã được thơi thúc phát triển. Có thể nói, thờ Thành hồng làng thực chất là nét văn hố đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá làng, sự giao lưu văn hố giữa các làng xóm với nhau; là nơi để lưu giữ những phong tục, luật lệ của mỗi làng.

<b>4.3. Ý thức đoàn kết cộng đồng làng xã</b>

Trên phương diện cộng đồng, xã hội, tín ngưỡng thờ Thành hồng đóng vai trị quan trọng trong việc liên kết cộng đồng làng xã, cố kết tình đồn kết giữa xóm làng, giữa tộc họ và giữa mọi người với nhau.

Đồng thời tín ngưỡng thờ Thành hồng cũng là nơi quy tụ tâm linh cho cư dân trong làng. “Thành hoàng chứng kiến đời sống của dân làng, ban phúc độ trì cho những người trung hiếu, hiền lành, giáng họa trừng phạt những kẻ độc ác vô luân”. Bởi vậy, mọi người trong cộng đồng luôn tuân thủ theo luật lệ, đạo đức vì họ ln tâm niệm rằng thần luôn giám sát những hoạt động của từng thành viên trong cộng đồng. Có việc oan ức, người ta thường lễ bái cầu xin thần chứng giám chuyển giữ hóa lành, giải oan cho người đó. Khi có xâm lược, khi đối đầu với thiên tai, dịch bệnh, người ta thường tìm đến thần để khẩn cầu may mắn, bình an.

Nhà nước phong kiến Việt Nam chọn lọc và phong sắc cho Thành hồng làng khơng chỉ nhằm mục đích đồn kết và động viên tồn bộ sức mạnh của cộng đồng làng, xã và dân tộc thành một khối, mà còn đồng thời thực hiện việc quản lý xã hội đến cơ sở xã hội. Ngôi đình xuất hiện lúc ban đầu với chức năng làm trụ sở hành chính – cơng sở của nhà nước phong kiến ở làng, xã dần dần trở thành nơi thờ cúng Thành hoàng và hội họp của chức dịch, dân làng, là chốn vui chơi của cả làng vào các dịp lễ hội.

Nếu như sự thờ cúng gia tiên là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong gia đình; thì sự thờ cúng thần Thành hồng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong cộng đồng làng, xã trên cơ sở những nguyện vọng, mong ước của các thành viên trong làng hội tụ ở thần.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>4.4. Ý thức về cội nguồn và lịng u nước</b>

“Dù ai đi ngược về xi Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba”

Tín ngưỡng thờ cúng Thành hồng làng từ lâu đã có một vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần nhân dân, đồng thời mang nặng những giá trị sâu sắc về giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lòng yêu nước của người Việt. Một trong những ví dụ tiêu biểu cho tín ngưỡng Thành hồng chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Một giá trị đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương chính là ý thức về tổ tiên, cội nguồn. Tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng gắn với truyền thuyết về Lạc Long Quân – Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, năm mươi người con theo cha xuống biển, năm mươi người con theo mẹ lên rừng, từ đó sinh ra từ “đồng bào” để nói về truyền thuyết cùng sinh ra từ một bọc trứng, đều là con rồng cháu tiên. Ngày Giỗ tổ Hùng Vương là hình thức thể hiện niềm tin của nhân dân vào sự hiện diện của các Vua Hùng, là lúc người dân trên khắp mọi miền Tổ quốc cùng nhau hướng về dân tộc, tìm về gốc rễ, nhớ đến tổ tiên Hùng Vương của mình. Thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa lâu đời của người Việt. Trong mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang trọng nhất, mỗi làng xã thờ một vị Thành hoàng làng khác nhau, và cả quốc gia dân tộc thờ Vua tổ của một nước - Hùng Vương.

Từ ý thức về tổ tiên, mỗi cá nhân cũng sẽ phát triển lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trong bản thân mình. Tín ngưỡng Thành hồng trở thành cơ sở hình thành lòng nhân ái, sự đạo đức và tinh thần tự cường dân tộc, độc lập tự chủ. Để từ đó thế hệ sau này tiếp tục gìn giữ và tiếp nối những giá trị lớn lao các vua Hùng để lại.“Ở phương diện xã hội, giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự thể hiện tính cố kết cộng đồng, truyền thống đoàn kết dân tộc. Có thể coi tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương như một sợi chỉ đỏ kết nối quá khứ với hiện tại, là bệ đỡ tâm linh cho các thế hệ con người Việt Nam” (theo GS Nguyễn Chí Bền). Điều đó cũng chứng minh sợi dây lịch sử nối liền từ quá khứ đến hiện tại của tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng có sức sống vơ cùng bền bỉ, đến nay vẫn được người Việt Nam lưu giữ và tiếp tục nối truyền tới các thế hệ sau.

Nguồn:

- Nguyễn Đắc Thủy - Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ.

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

- Thạc sĩ Phạm Minh Phương - Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>5. KẾT LUẬN5.1. Đánh giá</b>

Tóm lại, thần Thành hồng làng dù khơng có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ thể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay làng, xã, địa phương đó. Chính bởi thần Thành hồng đã trở thành một biểu tượng tâm linh, đi sâu vào trong tiềm thức của con người và đóng vai trị trong đời sống địa phương nên việc thờ thần Thành hoàng làng đã trở thành một tín ngưỡng, một nét đẹp trong bản sắc văn hóa làng xã nói riêng và bản sắc văn hóa Việt Nam nói chung. Tín ngưỡng thờ thần và Thành hồng làng của người Việt khơng những hướng đến một cộng đồng đoàn kết giữa người dân với người dân, giữa làng xã với đất nước; mà còn hướng con người về những giá trị truyền thống tốt đẹp ngàn đời như: yêu nước, nhân nghĩa, biết ơn.

<b>5.2. Liên hệ</b>

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, với tinh thần của Đại hội lần thứ XII của Đảng: “phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc” [Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.303], mỗi một cá nhân phải có ý thức trách nhiệm kế thừa, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống này của dân tộc; nhưng đồng thời cũng cần tỉnh táo, sáng suốt để tránh những biểu hiện tiêu cực, cực đoan trong khi thực hành đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng.

9

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>6. DANH MỤC TƯ LIỆU THAM KHẢO</b>

- PGS.TS Trần Đăng Sinh – Trường ĐHSP Hà Nội & Th.S Nguyễn Phương Hà – Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Giá trị trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người việt ở đồng bằng Bắc Bộ

- Nguyễn Thị Thọ (Chủ biên) (2017), Bản thể luận xã hội về đạo Hiếu ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.95.

</div>

×