Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận chính sách ngoại giao thời mạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.79 KB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>HỌC VIỆN NGOẠI GIAO</b>

<b>KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN</b>

Hà Nội- 2022

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI NHÀ MẠC (1527-1592) A. Ngoại giao Việt Nam từ TK XVI đến đầu TK XIX (1527-1802)

0. Bối cảnh lịch sử và quan hệ Ngoại giao với Nhà Mạc

1592-1802: Mâu thuẫn chồng chéo Đó là mâu thuẫn giữa: Vua Lê, chúa Trịnh với các chúa Nguyễn Chính quyền nhà Tây Sơn với các chúa Nguyễn

Giai đoạn lịch sử đặc biệt này chi phối mối quan hệ Ngoại Giao của Việt Nam giai đoạn này.

Trung Quốc trong bối cảnh này: Nhà Minh và nhà Thanh ở Trung Quốc lợi dụng để khoét sâu mâu thuẫn nhằm làm suy giảm sức mạnh của Đại Việt

Khẳng định sức mạnh, đe dọa quân sự nếu có cơ hội.

Coi thế lực ở Đại Việt ( Mạc, Lê - Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn) cố gắng duy trì mối quan hệ hồ hiếu với phương Bắc bới có n ổn phía bắc thì mới tập trung đối phó

với đối phương trong nước.

Mâu thuẫn với Trung Quốc trên nhiều phương diện nhưng giai đoạn 1527-1788 quan hệ ngoại giao Việt Trung vẫn diễn ra bình thường:

Vẫn được gọi là “giai đoạn hồ bình", “ bang giao giữa hai nước". Cũng như các triều đại trước đó: Cầu phong và triều cống ln là hoạt động ngoại

giao phổ biến, quan trọng bậc nhất được cả hai bên chú trọng. 1789, sau thắng lợi của Tây Sơn trước nhà Thanh, vị thế của Đại Việt đã được mở

rộng → Gặt hái được nhiều thắng lợi trong quan hệ ngoại giao với thế giới. Bối cảnh khu vực:

Cai vị cũng đang đặt trước sự cai trị của vương triều quân chủ → đất nước nội chiến

Nhu cầu bảo vệ của các nước nhỏ, và phô trương thanh thế của nước lớn Làm nảy sinh mâu thuẫn, xung đột mối quan hệ giữa Đại Việt và Đông Nam Á. Giai đoạn này, sau cuộc phát kiến địa lý phương Tây ngày càng biết nhiều hơn đến

phương Đơng.

Nền ngoại giao, ngoại thương khơng chỉ có sự hiện hữu của các nước châu Á mà còn cả các nước phương Tây.

II. Quan hệ Ngoại giao của nhà Mạc với Trung Quốc giai đoạn 1527-1541 Lịch sử bang giao giữa hai nước Việt-Trung trải dài trong suốt thời kỳ quân chủ độc lập quân chủ khá phức tạp và nhiều thăng trầm, nhưng có lẽ thời kỳ thế kỉ XVI là

thời kỳ khá phức tạp với nhiều sự kiện đặc biệt diễn ra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Cụ thể từ năm 1527, các cuộc ngoại giao giữa hai nước Việt-Trung vẫn được diễn ra bình thường, các đồn sứ Đại Việt vẫn theo thông lệ 3 năm một lần sang cống

triều đình nhà Minh.

Tuy nhiên vấn đề bắt đầu xảy ra vào năm 1527 khi Mạc Đăng Dung ép vua Lê nhường ngôi, dựng lên một triều đại mới: triều Mạc. Và chỉ 5 năm sau, Nguyễn

Kim dựng Lê Ninh lên làm vua, phất lên ngọn cờ “Phù Lê, diệt Mạc”. Vì vậy ta có thể thấy, quan hệ Việt-Trung vào thế kỉ XVI được đặt trong 2 thế ngoại giao: Mạc-Minh, Lê-Minh nhưng quan hệ giữa Mạc-Minh là quan hệ nổi bật hơn cả vì nó kéo dài gần hết thế kỉ XVI và về thực chất họ Mặc

đã nắm quyền điều khiển hầu hết trong nước. Vấn đề Ngoại giao năm 1528

Tháng 6/1527, Mạc Đăng Dung lên ngôi vua lấy niên hiệu là Minh Đức. Ngay sau khi lên ngôi, Mạc Thái Tổ đã chú ý đến việc duy trì quan hệ hịa

hiếu với nước láng giềng Trung Hoa.

Chính vì thế một số thế lực lúc bấy giờ cho rằng ơng khơng lo trấn an lịng dân, xây dựng nhà nước mà chỉ nghĩ đến ứng xử như thế nào

với triều đình Trung Hoa.

Tuy nhiên nhìn theo một khía cạnh khác, Mạc Thái Tổ cũng có những tính tốn riêng của mình, chính sách hịa hiếu với phương Bắc

để lấn dần với phương Nam là chính sách lớn, xuyên suốt trong tiến trình lịch sử của nước Đại Việt.

Trong khi chúng ta luôn giữ một thái độ thật hịa nhã thì các Hồng đế Trung Hoa ln chờ những cơ hội thuận lợi để đưa quân xâm

chiếm nước ta.

Do vậy đây chính là kế sách lớn và nhà Mạc lúc bấy giờ cũng khơng cịn lựa chọn nào khác.

Tháng 2/1528, nhà Mạc đã cử một đoàn sứ bộ qua Yên Kinh để thông báo với nhà Minh rằng “con cháu nhà Lê khơng cịn ai thừa tự nữa, thuộc sứ là đại thần học Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân dúng”. Đây là lần đầu tiên nhà Mạc cử sứ thần sang thăm triều, đặt cở sở cho mối quan hệ giữa

hai vương triều.

Thế nhưng ngay lần ra mắt đầu tiên này, nhà Mạc luôn phải gặp khó khăn khi các lực lượng phù Lê ở trong nước nhiều lần cử sứ sang Trung Quốc xin nhà Minh hỏi

tội “cướp ngơi” của nhà Mạc.

Trước tình hình đó, nhà Mạc đành phải tìm lối thốt ở con đường bang giao để tiếp tục tồn tại và ngăn chặn một cuộc điều tra và ngầm tái lập nhà Lê của nhà Minh.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Năm 1528, cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua

Minh thu nhận”.

Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ qua lại. Ở đây có một vấn đề nhầm lẫn đáng tiếc cần được sáng tỏ, liệu có thật sự do nhà Mạc muốn lấy lòng nhà Minh nên đã dâng lên

hai châu Quy, Thuận (Quy Hóa và Thuận An)?

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Trong thực tế, qua nhiều sử sách cũng như ghi chép thì hai châu Quy, Thuận đã thuộc về nhà Tống, nhà Nguyên và sau là nhà Minh và hành động

của nhà Mạc chỉ là đang trả lại vùng đất vốn không thuộc về Đại Việt. Vấn đề phản biện: Nhà Mạc đã cắt một phần đất cho nhà Minh. Tại sao lại cắt đất

mà không nghĩ ra cách làm khác?

Năm 1528, sau khi nhà Mạc lên nắm quyền 4 năm đã có một lần dâng đất cho nhà Minh; tới 1540 lại một diện tích ở tây bắc nước ta được dâng tiếp. Điều đó cho thấy hai lần dâng đất

cho thấy sự bất lực trong chính sách đối ngoại của nhà Mạc? Tuy nhiên, vấn đề này, PGS-TS Trần Thị Vinh, Viện Sử học, cho biết đã có lời giải. Theo đó, việc dâng đất theo sử thần của nhà Lê Trịnh ghi diễn ra hai lần.

Lần thứ nhất, Mạc Đăng Dung dâng lại đất của nhà Lý đã dâng cho nhà Tống từ thế kỷ XIII. Có nghĩa là việc dâng đất đó hồn tồn khơng có thật.

Lần dâng đất thứ hai cũng không thật . Đất bị dâng vốn do nhà Minh giao cho Đại Việt từ năm 1527 và Mạc Đăng Dung trả lại đất đó vào 1540. Vì thế, bà Vinh cho rằng đây là trả đất khống. “GS Trần Quốc Vượng hồi năm 1994, trong hội thảo lần đầu về nhà Mạc, đã nói về vấn đề này. Ông cho đây là thuần phục giả vờ, độc lập thực sự. Cả hai đợt dâng đất đều là giả”, bà Vinh nói.

III. <b>Vấn đề ngoại giao từ năm 1528 đến trước năm 1540</b>

Vấn đề ngoại giao từ năm 1528 đến trước năm 1540

Sau những sự kiện năm 1528, đến năm 1529 vua Mạc lại tiếp tục gặp khó khăn khi các bề tơi cũ của triều Lê là hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang sang nhà Minh tố cáo Mạc Đăng Dung cướp ngôi và xin viện binh

để đánh dẹp.

Nhưng lúc ấy nhà Mạc đã hối lộ bầy tôi nhà Minh ở biên thùy nên hầu như khơng có gì xảy ra, sau đó hai anh em đều chết ở đất Trung Hoa. Sau sự kiện này, nhìn chung tình hình quan hệ giữa Mạc-Minh tạm thời yên ổn và quan hệ bang giao giữa hai nước được tiến hành theo thường lệ cứ 3

năm một lần tiến cống.

Nhưng vào năm 1537, quan hệ Mạc-Minh lại trở nên căng thẳng hơn khi Lê Trung Tơn sai Trịnh Duy Liêu sang nước Minh trình bày về việc cướp ngôi vua của Mạc

Đăng Dung.

Từ đấy mối quan hệ giữa nhà Minh và nhà Mạc lại càng trở nên căng thẳng. Nhưng bấy giờ bản thân nội bộ nhà Minh đang có những bất nhất nên việc cử binh lại được tạm đình. Nhưng 1 năm sau (1538), nhà Minh tiếp tục cử Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Mao Bá Ôn làm Tham tán

chỉ huy đạo quân lên đường “chinh phạt” họ Mạc.

Lúc này nhà Mạc phải đối diện với hai thế lực: phía Bắc có nhà Minh chuẩn bị ra qn tiên đánh và phía nam có qn đội nhà Lê từ Thanh Hóa sẵn sàng tiến đánh

ra Thăng Long.

Đứng trước tình thế ấy, vua Mạc chỉ cịn cách phải hòa với nhà Minh để chuẩn bị lực lượng đối phó với bề tơi nhà Lê ở phía nam. Vì thế Mạc Thái Tơng đã sai nhóm Nguyễn Văn Thái mang thư sang Vân Nam nhờ quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

trấn thủ của nhà Minh nhưng nhà Minh cho rằng đó là dối trá và khơng đúng sự thật.

Sau đấy nhà Minh vẫn tiếp tục điều động quân xuống phía nam, áp sát biên giới Đại Việt.

Động thái này của nhà Minh đã đặt nhà Mạc trước hai sự lựa chọn: một là đối đầu và chiến tranh, hai là nhún nhường quy thuận tránh xung đột xảy ra. Cho đến thời điểm đó, vua nhà Mạc đã phải chèo chống một khoảng thời gian với nhà Minh, một thế lực không cân sức. Nhà Mạc khi ấy bị rơi vào một tình thế vơ cùng cam go khi phía bắc thì nhà Minh liên tục bày tỏ thái độ đe dọa sẽ khởi binh, phía nam thì lực lượng nhà Lê dần dần lớn mạnh, có thể nói là lưỡng đầu thọ địch. Bấy giờ nhà Mạc mới lập, nhân tâm chưa thực sự ổn, nếu phải chống lại cả quân Minh lẫn quân nhà Lê, thì thất bại và diệt vong là chuyện

tất yếu.

Vậy cho nên ông đã buộc phải chịu nhục mà tự trói mình quỳ gối xin hàng, lại buộc phải cắt đất lấy lòng nhà Minh.“Qua ghi chép của Nghiêm Tơng Giản, thì Mạc Đăng Dung cùng đồn tùy tùng khơng được Mạc phẩm phục, cổ đeo dây lụa tượng trưng cho sự đầu hàng đến lậy và cúi đầu (ngũ bái, tam khấu đầu) trước long đình che lọng

vàng, tượng trưng cho hồng đế nhà Minh, chứ không phải quỳ lạy viên tướng nhà Minh. Cũng khơng phải cởi trần tự trói.” Cho dù việc này có nhục quốc thể, ảnh hưởng đến vị thế đất nước, thì trên thực tế, nó đã giúp nhà Mạc và Đại Việt tránh khỏi cái họa xâm lăng

trước mắt, dù nguy cơ ấy có nhỏ đến đâu.

Có thể nói mọi chính sách ngoại giao lúc bấy giờ của vua Mạc đối với nhà Minh đều là vì lợi ích quốc gia, bảo vệ ngơi vị cho vương

triều nhà Mạc.

Và quả thực là sau sự kiện này, nhà Minh khơng làm khó dễ nhà Mạc nữa, và cũng không để tâm tới chuyện tranh đấu giữa nhà Mạc

với nhà Lê.

Bình luận về vấn đề “Qua ghi chép của Nghiêm Tơng Giản, thì Mạc Đăng Dung cùng đồn tùy tùng không được Mạc phẩm phục, cổ đeo dây lụa tượng trưng cho sự đầu hàng đến lậy và cúi đầu (ngũ bái, tam khấu đầu) trước long đình che lọng

vàng, tượng trưng cho hồng đế nhà Minh, chứ khơng phải quỳ lạy viên tướng nhà Minh. Cũng không phải cởi trần tự trói.”: Trong hồn cảnh lịch sử q gay gắt và phức tạp của nhà Mạc lúc bấy giờ khi phải luôn chéo chống nhiều thế lực bên ngồi thì việc thuần phục của vua Mạc đã làm đã mất đi một số hư danh cũng

như uy nghiêm của một nhà vua cần có nhưng đã giữ lại được sự yên bình cũng như tránh đưa đất nước vào cảnh chiến tranh bao gồm lực lượng quân Minh ở bên ngoài và quân Lê - Trịnh ở bên trong thì cũng đáng được cảm thơng và đó cũng là một kế sách phù hợp với tình hình đối ngoại lúc bấy giờ. Ông đã đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cũng như tôn nghiêm của cá nhân mình để đẩy lùi được các thế lực giặc bên ngồi mà khơng tốn một mũi tên hay mất một giọt máu nào của nhân dân. trái lại khơng tự lượng sức mình, khơng xem xét cân nhắc quyền lợi

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

của đất nước mà đưa cả dân tộc vào chiến tranh thì đó mới là hành động đáng trách.

IV. Vấn đề ngoại giao năm 1540

Ngày 03/11/1540, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi lên cửa ải. Chính Mạc Đăng Dung tự trói mình đến dâng biểu, sổ sách xin hàng quân Minh. Phía Nam Thăng Long, các quan chức Lê Sơ cũ tập hợp lại từ năm 1533 và ngay

lúc này, đang chuẩn bị đánh Nghệ An.

Bị kẹt giữa hai làn đạn, điều mà vị hồng đế nhà Mạc sắp làm sẽ đi vào chính sử Đại Việt và Trung Quốc: “Mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và bề tôi... qua trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm

thước, buộc dây ở cổ, đi chân không đến trước mạc phủ nước Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và

quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An, trấn Yên Quảng, xin

cho nội thuộc vào Khâm Châu” (Toàn thư).

Trong biểu xin hàng, Mạc Đăng Dung đề cập đến việc thoái thác việc họ Mạc sang Yên Kinh (Bắc Kinh), ngoài ra cắt và giao nộp đất, gồm 2 đơ: Như Tích, Chiêm

Lãng và 4 động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát cho nhà Minh, đồng thời xin ấn tín để được thừa nhận sự cai trị ở An Nam.

Tuy nhiên, khác với Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt Sử thông giám cương mục, các bộ sử Trung Quốc như Minh sử, Minh thực lục tuy khẳng định lại

việc Mạc Thái Tổ xin hàng nhưng lại không cho rằng Mạc Thái Tổ đã “cắt đất” của Đại Việt cho nhà Minh mà chỉ xin “trả lại đất cũ của châu Khâm” (vốn thuộc

nhà Minh) cho nhà Minh và trả lại không phải 5 hay 6 châu mà là 4 châu. Thực tế trước khi diễn ra sự kiện mà sử nhà Lê - Trịnh ghi là “đầu hàng” của Mạc Thái Tổ vào cuối năm 1540 thì 4 động này đã về lại Trung Quốc và được biên vào

sổ của Khâm Châu, nằm dưới sự quản lý của nhà Minh. Vì thế, khơng cịn đất 4 động ấy để cắt/dâng cho nhà Minh nữa.

Nhà Mạc chọn chiến lược vừa đánh vừa hòa:

Nguy cơ lớn nhất mà nhà Mạc phải đối mặt lúc này là âm mưu xâm lược thường trực của Minh triều.

Với chiêu bài “cứu Lê diệt Mạc”, trên thực tế, nhà Minh chỉ chờ thời cơ thuận lợi để đem quân sang Đại Việt nhằm “trừng trị” hành động

“tiếm ngôi”, “loạn nghịch”, “không cống nạp của nhà Mạc”. Nhà Mạc không chỉ phải đương đầu với nguy cơ lớn từ phương Bắc mà còn phải đối phó với rất nhiều hiểm họa khác, trong đó phải kể đến lực lượng quân sự của:

Lão Qua và Xạ Xị, Bát Bách - vốn là ba nước nằm ở phía tây, tây bắc của Đại Việt.

Theo sử sách nhà Minh thì ba lực lượng quân sự này sẵn sàng hợp lực với nhà Minh, tham gia ba hướng tấn công vào Đại Việt từ phương tây và tây

bắc (Mộc Châu).

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Khơng chỉ vậy, phía đường biển, Đại Việt còn đứng trước nguy cơ xâm lấn của Chiêm Thành. Lúc này, Chiêm Thành cũng trở thành con bài trong kế hoạch tiến

chiếm Đại Việt của Minh triều.

Trong tình cảnh nước sơi lửa bỏng ấy, nội bộ Đại Việt lại bị chia rẽ và mâu thuẫn trở nên sâu sắc.

Sự chống đối từ phía cựu thần nhà Lê và đặc biệt là sự trung hưng của triều Lê từ năm 1533 đã thực sự trở thành mối nguy cơ thường trực từ bên trong

đối với nhà Mạc.

Thậm chí, nhà Minh cịn được nhà Lê cung cấp tin tức cụ thể về binh lực thủy bộ và con đường tiến quân của nhà Mạc.

Giữa lúc đó, năm 1541, Mạc Thái Tổ qua đời, khiến nhà Mạc lâm vào tình trạng khó khăn bội phần.

Nhìn tồn cục, nhà Mạc lúc này rơi vào tình thế “ngũ đầu thọ địch”, bị các thế lực trong và ngoài nước sẵn sàng đánh dẹp. Đặc biệt, cả năm thế lực trong và ngồi nước nêu trên có thể phối hợp cùng nhau để chĩa mũi nhọn tấn công một lúc vào

nhà Mạc.

Trước tình cảnh bất lợi như vậy, nhà Mạc đã chọn chiến lược vừa đánh vừa hòa. Một mặt dùng để trá hàng: bỏ xưng đế hiệu (khơng xưng hồng đế), xin theo lịch Đại Thống (tức là theo lịch của nhà Minh), trả lại đất 4 động, xin nội thuộc xưng thần, xin hằng năm được ban lịch Đại Thống và bù đủ các lễ

vật tiến cống hằng năm.

Mặt khác, xúc tiến mọi công tác chuẩn bị để sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh bảo vệ quốc trong tình huống bất khả kháng “tu sửa trại sách, luyện tập thủy quân. Trưng cầu hết thảy các cựu thần, lão tướng để cùng bàn việc

Chính tinh thần sẵn sàng chiến đấu ấy là một trong những nguyên nhân khiến nhà Minh dù suốt từ tháng 7/1536 đến 10/1540 đã cử Thượng thư bộ Binh Mao Bá Ôn

và Hàm Ninh hầu Cừu Loan đưa quân áp sát biên giới Đại Việt, nhưng vẫn phải chần chừ do dự, chưa tấn công ngay.

Đến khi nhà Mạc dùng cách nhún nhường ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan với mong muốn duy trì quan hệ hịa hiếu giữa chư hầu và thượng quốc

Nhà Minh mới có cớ để quyết định cho Mao Bá Ôn và Cừu Loan lui binh mà không bị mất thể diện.

Đồng thời “xuống chiếu bãi binh và giáng nước An Nam xuống làm Đô thống tý và phong Đăng Dung làm chức Đô thống sứ”. Qua sự kiện nước An Nam bị giáng xuống làm Đô thống ty, ta thấy được điều gì?

Sự chia rẽ và phân tán của nền chính trị khơng chỉ gây ra nội chiến mà còn làm giảm đáng kể sức mạnh đối ngoại của Việt Nam trước nhà Minh. Sự hạ cấp của Đại Việt và tước phong dành cho nhà Mạc (sau đó là nhà Lê trung

hưng) là chưa có tiền lệ trong gần một thiên niên kỷ bang giao Việt - Trung. Hậu quả là vua Lê, dù 3 lần yêu cầu phong vương, đều bị từ chối. Đại Việt giữ

ngun là đơn vị hành chính lệ thuộc (Đơ thống sứ ty) tới giữa thế kỷ XVII.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Sự bảo trợ cùng lúc với nhiều thế lực chính trị tại Việt Nam của Trung Quốc có thể thúc đẩy hỗn loạn ở phía Nam. Đây là điều mà người Việt ít khi chú ý tới cũng như nhận thức một cách kỹ lưỡng hậu quả chính trị của

thủ thuật này.

Đế triều phương Bắc, vì nắm thóp được hai triều đại Mạc, Lê, đã áp đặt một mô thức ngoại giao bất đối xứng có tính chèn ép.

Tiểu kết:

Như vậy, trong khi nhà Lê - Trịnh đến năm 1597 mới được nhà minh cơng nhận thì ngay từ năm 1540, nhà Mạc đã được nhà Minh thừa nhận sự tồn

Dù giáng An Nam xuống làm Đô thống ty và phong cho Mạc Đăng Dung làm chức Đô thống sức là một bước thụt lùi so với cấp bậc được ban phong trước đây, song nó đảm bảo tính hợp pháp của vương triều nhà Mạc trong

bối cảnh đầy khó khăn lúc này.

Đặc biệt, từ đây, tình hình biên giới phía bắc của Đại Việt trở nên khá yên ổn, nhà Mạc khơng cịn gặp phải sự uy hiếp của nhà Minh nữa.

V. Giai đoạn 1541 - 1592

Hoạt động ngoại giao của nhà Mạc trong giai đoạn này thể hiện chủ yếu qua một số hoạt động tiêu biểu với nhà Minh (Trung Quốc)

Hoạt động cầu phong

Trong một thời gian dài từ khi Mạc Thái Tổ lên ngôi đến trước 1540, nhà Minh chưa thừa nhận sự tồn tại chính thức của triều Mạc trên đất Việt. Bản thân Mạc Thái Tổ và triều đình nhà Mạc cũng vấp phải những hành

động chống đối (dụ dỗ, đe dọa quân sự) của vua tôi nhà Minh. Sau 23 năm kể từ khi nắm quyền, Mạc Thái Tổ sai cháu của mình cùng 28 người

mang hàng biếu sang Yên Kinh cầu phong.

Năm 1541, nhà Mạc chính thức được thừa nhận. Mạc Thái Tổ được phong làm Đô thống sứ, được ban ấn bạc, khắc chữ An Nam Đô thống sứ ty. Quan lại Quảng Tây thay mặt triều đình nhà Minh ban lịch Đại Thống hằng

năm cho nhà Mạc. Nhà Minh cho đúc ấn vào ngày 17/5/1541, tuy nhiên chưa kịp tới nơi thì Mạc Thái Tổ đã mất vào tháng 8 cùng năm. Nhà Minh tiếp tục ra sắc dụ ban chức Đô thống sứ An Nam cho các đời vua sau

như Mạc Hiến Tông (1542), Mạc Tuyên Tông (1551), Mạc Mục Tông (1573). Mục Tông cũng là vị vua cuối cùng của vương triều Mạc được nhận sắc

phong của Minh triều. Hoạt động triều cống, lễ sính

Hoạt động được bắt đầu từ năm 1542, khi quan hệ chính trị giữa 2 nước được bình thường hóa. Khi Mạc Thái Tổ dâng cho nhà Minh “hai tượng người bằng vàng và

bạc cùng châu báu, của lạ vật lạ. Vua Minh thu nhận.

Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại.” (trích Đại Việt sử ký tồn thư). Sau khi Mạc Thái Tổ cùng bầy tơi dâng biểu xin hàng thì quy định triều cống

mới được ban hành cụ thể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Theo lệ cứ 3 năm triều cống 1 lần. Có thể thấy, phương thức để nhà Mạc thiết lập quan hệ hịa hiếu giữa đơi bên là dâng lễ sính cho Trung Hoa. Triều Mạc dùng các cống phẩm gồm vàng, bạc và sản vật địa phương. Tuy không ghi rõ số lượng mỗi lần cống phẩm nhưng nhìn chung vẫn theo lệ cũ từ trước, tuy

nhiên số lượng vàng bạc tăng thêm nhiều.

Lý giải cho việc này chính là sự khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ với nhà Minh khi triều Mạc mới thành lập. Do vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của bộ phận cựu thần triều Lê và những toan tính của nhà Minh nên bản

thân triều Mạc không được coi là một vương triều chính thống. Vì thế, nhà Minh thường yêu sách để nhà Mạc tăng thêm cống vật để duy

trì mối quan hệ giữa hai nước Về lộ trình đi sứ:

Về cơ bản thì giống như dưới thời Lê sơ trước đó. Đồn sứ thần nhà Mạc xuất phát từ kinh đô Thăng Long, đến Lạng Sơn rồi theo đường Quảng Tây

tới Trung Quốc.

Trước khi thực hiện triều cống, nhà Mạc chủ động gửi thông tin đến quan nhà Minh để họ thơng báo về triều đình.

Tuy nhiên, do vua Mạc bị giảm tước hiệu so với trước nên trong nghi thức tiếp đãi bị hạn chế hơn, chỉ ngang bằng viên quan đại diện một phủ, một tỉnh của Trung Quốc, sứ thần giống những chức quan nhỏ của Trung Quốc. Trong thành phần phái đoàn đi sứ của triều Mạc cũng bao gồm chánh sứ, phó sứ và bộ phận những quan lại đi theo, những người giúp việc tham gia vào nhiệm vụ

triều cống, thăm hỏi.

Về số lượng cũng có sự khác biệt qua các ghi chép. Tùy thuộc vào từng khoảng thời gian mà số lượng người trong đoàn sứ thần đi cống cũng có sự

khác nhau.

Cách đối xử với triều Mạc của nhà Minh cũng khác với các triều đình Trung Hoa thời trước. Vị thế của triều Mạc trong quan hệ bang giao nói

chung và quan hệ triều cống nói riêng giảm đi rất nhiều. Từ đó cho đến cuối vương triều, nhà Mạc cử sứ thần đi triều cống nhà Minh thêm

8 lần nữa, vào các năm 1545, 1548, 1575, 1576, 1578, 1580, 1584, 1590. Nhiều lần trong số đó, nhà Mạc tiến hành cống gộp. Đến lần đi sang cống nhà Minh năm 1584, nhà Mạc đã đề nghị nhà Minh cho gộp 2 kì cống trong

6 năm làm một.

Nhà Minh đã đồng ý và từ đây, lệ “6 năm 1 lần cống 2 lễ” đã được thực hiện trong quan hệ giữa 2 nước.

Nhà Mạc trong cuộc đấu tranh đòi lại những vùng đất đã mất từ các triều đại trước:

Từ sau 1540 các chính sách ngoại giao của Trung Quốc khơng cịn q áp đặt,bên cạnh việc duy trì quan hệ ngoại giao bình thường với Trung Quốc, nhà Mạc đã đòi lại được

nhiều vùng đất bị mất từ các triều đại trước.

</div>

×