Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.8 KB, 28 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>VỢ CHỒNG A PHỦ</b>
Có những sở thích nhất thời nhưng cũng có những sở thích khơng bao giờ thay đổi, có những nỗi buồn thống qua nhưng cũng có nhưng ngược lại cũng có những vết thương hằn sâu theo năm tháng. Nếu giở những trang Kiều ta phải buồn khóc, khi Chí Phèo chết ta lại buồn thương thì khi đọc “VCAP” cảm xúc của ta cũng rung động theo tiếng thổn thức của Mị….
<b>I. GIỚI THIỆU CHUNG</b>
Nhà văn Phan Anh Dũng nói về Tơ Hồi rằng: “Hơn cả một nhà văn, Tơ Hồi đã, đang và sẽ ln là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất mới, đến với con người đời dài rộng khi đã trưởng thành”. Quả thật, Tơ Hồi là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều thể loại và thể loại nào cũng gặt hái được những thành công rực rỡ. Đặc biệt là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc, bởi ông rất am hiểu về phong tục tập quán cũng như văn hóa nhiều vùng miền khác nhau. Tơ Hồi ln có những cố gắng tìm tịi, khám phá trong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp phần làm nên sự hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh thần của người đọc nhiều thế hệ. Tơ Hồi có lối kể chuyện tự nhiên, sinh động, cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngơn ngữ chữ phong phú đậm tính khẩu ngữ. ơng cũng là nhà văn có tài năng và biệt tài về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được rút trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1952, là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập sách này. Đến với “Vợ chồng A Phủ” chúng ta khơng thể tìm được những cá tính đặc sắc trong nhân vật như Xuân tóc đỏ trong “Số đỏ”, anh cu Tràng cục mịch trong “Vợ nhặt” hay Chí Phèo trong truyện cùng tên của nhà văn Nam Cao. Bởi đó khơng phải là chủ đích của Tơ Hoài khi viết thiên truyện này. Nhà văn muốn dành sự quan tâm cho một vấn đề khác, cấp bách hơn: đó là “vấn đề số phận” - số phận của con người, số phận của cả một cộng đồng người nông dân lao động dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến trên những triền núi Tây Bắc heo hút. Thiên truyện đặc sắc này gồm 2 phần: nửa đầu là ở Hồng Ngài, nửa sau là ở Phiềng Sa. Đứng về phương diện biểu hiện chủ đề, phần ở Phiềng Sa hết sức cần thiết để mang đến cho tác
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">phẩm màu sắc và hơi thở của thời đại, là “quá trình phát triển cách mạng” khi Mị và A Phủ gặp cán bộ A Châu rồi trở thành du kích. Thế nhưng, xét trên phương diện vẻ đẹp văn chương thì nửa Phiềng Sa nhất định phải chịu nhường nửa ở Hồng Ngài. Chính Hồng Ngài là nơi tập trung những tinh hoa của ngịi bút Tơ Hồi. Nó khơng chỉ mang hương sắc lạ về cảnh trí, con người mà là sự kết đọng tình cảm nhân đạo sâu sắc, khả năng phân tích diễn biến tâm lý tinh tế
<i>của nhà văn. Điều mà sau này ông gọi là "một chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật và con người của núi rừng thơ mộng Tây Bắc thân yêu”. Đoạn trích “Vợ </i>
chồng A Phủ” thuộc phần 1 của tác phẩm.
<b>II.PHÂN TÍCH</b>
<b>1. Nhân vật Mịa) Sự xuất hiện của nhân vật Mị</b>
<b>- Không phải ngẫu nhiên mà ngay ở trang viết đầu tiên, Tơ Hồi đã giới thiệu </b>
<i>nhân vật Mị với những nét ngang trái của cuộc đời: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra, đều trơng thấy có một cơ con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh cái tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ, dệt vải, chẻ củi hay đi công nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, cái mặt buồn rười rượi...". Mị xuất hiện trực tiếp, gõ mạnh vào giác quan người đọc </i>
tạo sự hấp dẫn, tị mị về <i>“cơ gái cúi mặt”</i> và <i>“mặt buồn rười rượi”</i>
<b>- Hai chữ “rười rượi" vang lên, ngân dài như kéo theo cả một đời ai oán. Cái </b>
dáng điệu cúi mặt cũng gợi lên một con người chất chứa đầy bi kịch. Liệu có phải chăng, đó là cánh cửa mở ra những trang vẫn tiếp theo là bao nhiêu bão giông? Trong giọng kể trầm buồn, Mị hiện lên mang tín hiệu một cuộc đời
<i>đầy giông bão: “Mị ngồi bên tảng đá cạnh tàu ngựa, mặt lúc nào cũng cúi xuống, buồn rười rượi", Mị đã bị ném vào vị trí khơng phải cho con người. </i>
Nhưng cũng ngay từ hình ảnh đầu tiên này, người đọc thấy Mị khó nhưng khơng cam chịu, mặt buồn rười rượi là dấu hiệu một con người đang cảm nhận và phẫn uất trước cuộc đời.
Chỉ bằng vài nét nhỏ về vóc dáng, cử chỉ, Tơ Hồi đã khiến độc giả tị mị về thân phận cuộc đời của cô gái ấy.
<b>b) Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra</b>
<b>- Mị là một cô gái nhà nghèo xinh đẹp, là sự hiện thân của bông hoa ban thuần</b>
khiết giữa núi rừng Tây Bắc. Vào đêm tình mùa xuân, trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách buồng nhà Mị để được Mị yêu, Mị đi chơi cùng.
<b>- Có tài năng tài hoa (thổi sáo): Mị uốn chiếc lá trên môi thổi lá cũng hay như </b>
thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Như vậy,
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">bông hoa ban ấy không chỉ đương vào giai đoạn nở rộ nhất, “trẻ trung, xinh đẹp” mà cịn tỏa hương thơm phóng khống, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
- Là con nhà nghèo khó, mối nợ truyền kiếp với nhà thống lí. Cha mẹ Mị lấy nhau khơng có tiền cưới nên đã vay bạt nhà thống lý. khi mẹ bị mất, cha già và Mị lớn, món nợ ấy vẫn chưa trả xong. Đó là điều bình thường trong xã hội cũ. Tuy nhiên Mị thà làm lụng cơ cực cịn hơn cưới người khơng u,
<i>khơng thích: “Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô, con phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.”</i>
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái xinh đẹp, trẻ trung và tràn đầy sức sống. Mị như bông hoa rừng vừa thuần khiết vừa rực rỡ của núi rừng Tây Bắc. Người con gái ấy đã có một thanh xuân rực rỡ, đáng nhớ, khao khát tự do, tình yêu và được yêu. Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
<b>c) Khi về làm dâu nhà thống lí Pá TraNgun nhân- Vì hủ tục bắt vợ, cướp vợ</b>
<b>- Để trả món nợ truyền kiếp. Mị thương bố, bố Mị cả đời đã quần quật gánh </b>
nợ trên vai, bổ Mị còn sống được bao ngày trên cõi đời ngang trái này nữa đâu. Nến Mị chấp nhận, Mị thà chịu khổ, thà sống trong nước mắt, trong tủi nhục còn hơn mang tội bất hiếu. Bông hoa ban xinh đẹp ấy chấp nhận làm vợ A Sử, sống kiếp “làm dâu gạt nợ", bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần. Hai chữ “gạt nợ" nghe thật xót xa.
Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lý. Con dâu là phải bị đem đi trình ma và gắn bó đời đời kiếp kiếp ở đó. Nhà thống lý đã ràng buộc Mị bằng thần quyền. Là con nợ, Mị phải làm như kẻ ăn người ở trong nhà thống lý để trả nợ, bị cường quyền ràng buộc. Bị cùng lúc cả thần quyền và cường quyền trói buộc nên cả cuộc đời này, Mị sẽ phải làm trâu làm ngựa nhà thống lí Pá Tra.
<b>Tâm trạng của Mị</b>
<b>- Thời gian đầu: Nếu “nhỡ lời" mà gắn cho Mị sự hả hê vì được làm dâu nhà </b>
giàu, thì thật tội nghiệp cho cơ gái thảo hiền. Bởi làm dâu nhà thống lí Pá Tra chỉ đem đến cho Mị những đau đớn, buồn tủi. Đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc, khóc vì khơng chấp nhận được sự thật phũ phàng. Đó là nước mắt của sự cơ độc, tuyệt vọng. Mị còn trốn về nhà với nắm lá ngón trong tay địi tự tử. Đó là phản ứng tiêu cực, sự phản kháng quyết liệt dữ dội, là biểu hiện một nỗi đau thật sâu cay, một nỗi tủi hờn đến cùng cực.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Trong ngã rẽ đầu đời, Mị đã từng nông cạn như thế! Mị làm ta nhớ đến nàng Kiểu năm xưa, phải nếm bao cay đắng suốt mười lăm năm đoạn trường, thanh lầu hai liễu, thanh y hai lần. Nhưng nếu Kiểu chết sẽ không cịn sự vướng bận nào về món tiền ba trăm lạng. Cịn ở đây, Mị xót xa hơn nhiều, bởi nếu Mị chết - món nợ kia vẫn cịn và đương nhiên, cha cơ là người sẽ phải gánh chịu đến chết mới yên. Mị không đành lịng, nên Mị khơng dám chết. Và rồi Mị quay lại nhà thống lí Pá Tra.
<b>- Một thời gian sau: Mấy năm qua đi, Mị sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ </b>
rồi. Mị khơng cịn tưởng Mị có thể ăn lá ngón để tự tử nữa.
Mị bị đày đọa về thể xác: Mị phải làm việc cả ngày, lẫn đêm, suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, cứ lặp đi lặp lại đến mức nhàm chán. Mị
<i>sống khổ và nhục hơn cả con trâu, con ngựa bởi “Con trâu, con ngựa cịn có lúc, đêm nó cịn được đứng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc”. “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương, bẻ bắp. Và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.” </i>
Với biện pháp tu từ so sánh, Tơ Hồi đã tố cáo mạnh mẽ giai cấp thống trị đã bóc lột người dân đến tận xương tủy.
Mị bị đày đoạn về tinh thần
o Mị bị bắt về nhà thống lí Pá Tra và cúng trình ma, Con ma vơ hình nhưng đã trói buộc cả đời Mị ở nhà thống lí - trói buộc bởi thần quyền. Con ma nhà thống lí đã nhận mặt người con dâu gạt nợ. Với hủ tục cúng trình ma của người dân miền núi, con ma
<i>ấy đã trói chặt tâm hồn Mị làm chị “sống không được, chết cũng không xong", ngật ngưỡng giữa ranh giới của sự sống và </i>
cái chết, Sống thì lùi lũi, khơng nói khơng rằng, chết thì cũng khơng sao thốt nổi. Dần dần, bơng hoa ban vốn tràn đầy hương sắc trở nên vô cảm, chấp nhận, buông xuôi, mất hết ý thức về một con người. Tơ Hồi đã hạ bút viết những dịng nhẹ như
<i>không mà chất đầy nỗi đau: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.</i>
o Cuộc đời Mị bị giam hãm, Mị sống như một tù nhân trong căn
<i>buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ ơ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thơi. Nó giống như một ngục thất giam hãm tuổi xuân, tuổi trẻ của Mị
o Mị đã sống cơ độc, âm thầm như cái bóng, cái xác khơng hồn.
<i>“Suốt ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa”. Đó là sự chai lì cảm xúc, sự khơ héo trong tâm hồn </i>
o Mị bị tước đoạt hạnh phúc: Mị phải lấy A Sử - người Mị không yêu. Vào mỗi độ xuân về, Mị cũng không được đi chơi. Mị bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần, là nạn nhân của cường quyền, thần
quyền và lễ giáo phong kiến. Nói cách khác, Mị đã bị ba nhà tù giam hãm. Tâm hồn Mị trở nên chai sạn, băng giá, Mị khơng có khái niệm về thời gian. Bằng những chi tiết chân thực, ấn tượng, ngơn từ đắc địa, Tơ Hồi đã nêu bật cuộc đời của Mị: <i>“lay lắt, đói khổ, nhục nhã”.</i> Trước mắt Mị chỉ là toàn sắc màu hồng hơn tăm tối, ngập dần đầy. Mị thực sự khơng cịn sống nữa, mà chỉ cịn là một sinh thể tồn tại chậm chạp, bước vào cõi chết. Cách áp chế của cha con thống lí Pá Tra, đã tạo ra những hệ quả ghê gớm, nó đập vỡ tâm hồn vốn trong như pha lê của cơ gái trẻ trung, u đời. Và hình ảnh Mị cũng trở thành hình ảnh khái quát cho những thân phận nghèo hèn nô lệ nơi miền đất núi rừng âm u, tù hãm. Con đường mà họ đi chỉ là một kiếp người trong cái nhà tù khổng lồ là xã hội phong kiến miền núi. Đó là giá trị hiện thực của tác phẩm. Có thể nói cuộc đời và số phận Mị là bản nhạc buồn điển hình cho những người phụ nữ ở miền núi dưới ách thống trị của bọn Chúa đất độc tôn. Họ bị chiếm đoạt, áp bức, bóc lột sức lao động đến héo khơ.
Bên cạnh đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm cũng được thể hiện qua niềm đau xót của Tơ Hồi cho người con gái tài hoa u đời mà giờ thì trở thành người đàn bà với tâm hồn chai sạn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>Sự hồi sinh của tâm hồn Mị trong đêm mùa xuân</b>
<i>Nhà văn Nguyễn Khải quan niệm: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc và tình cảm chứ khơng phải là tư tường nằm thẳng đơ trên trang giấy.Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên mà là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm”. Đặt hệ quy chiếu ấy vào nhân vật Mị, trước tiên phải khẳng định: “hạt ngọc của văn học Việt Nam” đã làm tròn trong ta </i>
một chữ tình. Bởi tất cả những gì Tơ Hồi chưng cất lên, là thứ tình cảm đặc biệt ơng dành riêng cho người dân miền núi lúc bấy giờ. Dù viết về tội ác của bọn thống trị và nỗi khổ trăm bề nhưng Tơ Hồi khơng để cho các nhân vật của mình chìm trong nỗi khổ đau, tuyệt vọng. Ông đã thổi vào hồn truyện những bản tình ca Tây Bắc thật nồng nàn. Và bản tình ca ấy đã được ca lên vào đêm tình mùa xuân trên đất Hồng Ngài. Nguyên nhân nào đã đánh thức ở Mị lòng ham sống và khát khao hạnh phúc mãnh liệt đến vậy?
<b>Hoàn cảnh</b>
<i><b>- Mùa xuân năm ấy: “Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái </b></i>
<i>vừa xong, không kể ngày tháng nào.” “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”</i>
<b>- Thiên nhiên Tây Bắc rất khắc nghiệt nhưng vẫn không ngăn được con người </b>
<i>Tây Bắc rộn ràng đón xuân: “Trong các làng Mèo Đỏ những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Tiếng sáo bắt đầu vang vọng ở đầu </i>
Những hình ảnh và âm thanh cuộc sống tạo nên bức tranh sinh động ở miền núi. Cả trẻ con và người lớn đều hào hứng rộn ràng đón xn. Khơng khí xn trên rẻo cao như mạch nước ngầm len lỏi, ngấm vào tâm hồn Mị làm mềm những thớ tâm hồn khô cằn nứt nẻ trong Mị. Mị đã hồi sinh, Mị không thể thờ ơ trước khơng khí mùa xn thiên nhiên Tây Bắc. Thiên nhiên chuyển mùa và những vang động cuộc sống đã tác động vào tận cùng ngõ sâu, góc khuất của tâm hồn đã bị băng giá, động cứng lại và hơi ấm của nó đã làm cho sự đóng băng ấy rã tan dần.
Nhưng nếu chỉ có bức tranh mùa xn vẫy gọi, chắc gì người con gái đã nếm trải bao đau khổ kia có thể hồi sinh tâm hồn. Bởi mùa xuân đất trời năm nào cũng đến và<i> “đã mấy năm qua, mấy năm sau”</i>, tình xn lịng xn của Mị vẫn nguội lạnh. Vậy điều gì đã đem đến sức mạnh cho sự hồi sinh tâm hồn, hồi sinh sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân năm
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">ấy? Men rượu hay tiếng sáo, hay có lẽ là cả hai? Nhưng tiếng sáo mới thực sự là men say đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, làm sống dậy trái tim và tình cảm đã chai sạn. Men rượu chỉ là chất xúc tác, là cú hích cho sự hồi sinh đó. Và bằng men rượu cũng như tiếng sáo, nhà văn đã gõ cửa tâm hồn Mị, trong thế giới thẩm cung lạnh lẽo năm ấy, khơng nhìn thấy sắc màu, làm cho cơ bừng dậy khát khao sống mãnh liệt.
<b>Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị</b>
Ý 1: Khi nghe thấy tiếng sáo ở đầu núi - âm thanh đặc trưng của núi rừng Tây Bắc.
<b>- Trong đêm tình mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn yêu đã đánh thức cảm xúc đầu </b>
tiên trong lòng Mị: <i>“Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi</i>” Đó là những rung động, những nhịp đập xao xuyến, bồi hồi trong trái tim Mị. Tiếng sáo là âm thanh quen thuộc nhất của tuổi trẻ Mị, gắn liền với quỹ thời gian thanh xuân rực rỡ, say mê, sôi nổi của Mị.
<b>- Khi nghe thấy tiếng sáo, Mị đã mở rộng lịng mình để cảm nhận sự thiết tha, </b>
bồi hồi trong tiếng sáo và nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi:
<i>Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương </i>
<i>Ta khơng có con trai con gái Ta đi tìm người yêu</i>
Con rùa lùi lũi ấy đã cất tiếng người. Không phải ngẫu nhiên Tơ Hồi đưa cả lời bài hát ở tác phẩm. Lời bài hát không chỉ làm sống dậy thiên nhiên Tây Bắc vời vợi chất thơ mỗi độ xuân về mà cịn thấm đậm chất tình. Nó cũng nói lên phần nào phong tục tập quán của người dân Tây Bắc. Hành động ngồi nhẩm lời bài hát của Mị là minh chứng cho những cảm xúc dạt dào trong lịng Mị. Chỉ có âm thanh tiếng sáo mới thực sự xuyên được qua bức tường dày, những cánh cửa thép, để rồi bước lên, thúc gọi trái tim cô quạnh, héo úa làm cho nó hồi sinh. Mị nghe tiếng sáo, hiểu tiếng lịng người đang thổi. Điều đó chứng tỏ tiếng sáo đã ăn sâu vào máu thịt và tâm hồn Mị. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi, tiếng sáo đi tìm người yêu đã đánh thức Mị và Mị
<b>nhận ra những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị đã có ý niệm về thời gian.</b>
Ý 2: Mị uống rượu và say.
<b>- Nghe tiếng sáo văng vẳng đầu làng trong đêm tình mùa xuân tha thiết ấy, </b>
người con dâu gạt nợ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa kia đã tìm đến
<i>men rượu để giải tỏa nỗi sầu: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát.” Đó khơng phải cách nhâm nhi, thưởng thức</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">rượu mỗi độ xuân về. Đó là cách uống báo hiệu cho sự nổi loạn trong tâm hồn Mị, uống như nốt đi nỗi hờn dỗi, tủi nhục trong lòng với những muộn phiền. Mị mượn đắng cay của rượu để quên đi những đắng cay trong lòng Mị.
<b>- Người ta uống rượu để quên, Mị uống rượu say lại nhớ. Mị nhớ quá khứ: </b>
<i>“Lòng Mị đang sống về ngày trước, tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên mơi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.” Đó là quá khứ rực rỡ tươi </i>
đẹp, một thời thanh xn sơi nổi ùa về trong tâm trí. Mị như tìm lại được chính mình, con rùa ni trong xó cửa ấy đã khơng cịn lùi lũi nữa, nó đã phá vỡ bức tường vơ cảm kia để khao khát tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ hạnh phúc. Mị ý thức được mình tài hoa <i>“Mị thổi sáo giỏi”</i>, Mị yêu đời <i>“Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo”</i> và được đời yêu. Có thể nói đây là dấu hiệu cho thấy sự hồi sinh trong tâm hồn Mị.
Ý 3: Mị vào buồng tiếng sáo gọi người yêu vẫn lơ lửng ở ngoài đường.
<b>- Tiệc rượu đã tàn, nhưng Mị vẫn ngồi trơ giữa nhà. Mãi sau Mị đứng dậy </b>
bước vào buồng. Đó là bước chân vơ thức, bước chân theo thói quen của người say, bởi bị biết hàng bao nhiêu năm nay, chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết.
<b>- Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đây </b>
là nơi ở của Mị nhưng cũng chẳng khác gì nấm mồ lộ thiên chôn vùi tuổi
<i>thanh xuân của Mị. Nếu như trước, Mị nghĩ “mình chỉ ngồi trong cái lỗ vng ấy mà trơng ra đến bao giờ chết thì thôi”. Nhưng tết năm ấy, Mị thấy </i>
phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị đã tìm lại được chính mình.
<b>- Tơ Hồi đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của Mị bằng sự cảm thơng, </b>
tình u thương sâu sắc với con người. Đoạn văn đã khiến người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi tâm lý của Mị. Đó là những trạng thái tâm lý tích cực. Trong khoảnh khắc ấy, Mị ý thức được về bản thân: Mị trẻ lắm, Mị cịn trẻ, Mị ý thức được khát vọng của mình, Mị muốn đi chơi. Đó là khát vọng bình thường, giản dị và từ lâu Mị khơng có được. Mị nhận ra bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết mà Mị thì khơng được đi. Đó là những bất công vô lý mà Mị phải chịu đựng <i>“mấy năm qua mấy năm sau”.Sau một loạt những câu văn ngắn: “Mị trẻ lắm. Mị còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết” dồn dập những điệu </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>chất vấn khiến người đọc nhận ra bao đắng cay ở trong lòng Mị. Ý thức về bản thân của Mị đã trỗi dậy.</b>
Khi ý thức về bản thân đã trở lại, lòng ham sống, tự do và hạnh phúc trở
<i>về thì ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu Mị là Mị muốn chết: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Mị cũng nhận ra</i>
thực tại, A Sử với Mị <i>“khơng có lịng mà vẫn phải ở với nhau</i>”. Đời của Mị thật vơ nghĩa vì khơng tình u, khơng hạnh phúc. Bao nhiêu năm sống kiếp trâu ngựa dưới thân phận con dâu gạt nợ, Mị đã chai sạn đến mức không buồn chết, dù lý do níu kéo Mị với cuộc đời là người bố đã mất. Vậy mà giờ đây khi sự sống trỗi dậy, trái tim và cảm xúc của Mị trở về, Mị lại muốn chết. Đó là một suy nghĩ tiêu cực nhưng lại là biểu hiện của lòng ham sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc một cách mãnh liệt nhất. Khi ý nghĩa tiêu cực của Mị xuất hiện cũng chính là lúc Mị nghe thấy tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng ngoài đường. Phải chăng tiếng sáo đã cứu thoát Mị ra khỏi ý nghĩ tuyệt vọng ấy trong khoảnh khắc Mị quên đi tất cả quãng đời tăm tối của mình, để tâm hồn phiêu theo tiếng sáo của một anh chàng nào đó.
Ý 4: Mị sửa soạn đi chơi trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo.
<b>- Tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo rắt, khi mà cả thiên đường hạnh </b>
phúc của mùa xn phía sau ơ cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Tiếng sáo khơi gợi sức sống như những đợt sóng ào ạt, khiến Mị làm một loạt những hành động mang đầy tính chất nổi loạn. Vì từ khi về nhà thống lí Pá Tra Mị chưa bao giờ sửa soạn đi chơi tết, mà A Sử cũng không cho. Vậy mà mùa xuân này, Mị cũng như bao cô gái khác, cũng sửa soạn khiến mình đẹp hơn trong những ngày tết
<b>- Trước hết, Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị</b>
thắp sáng căn buồng u ám của mình cũng là thắp sáng cuộc đời và tương lai u ám của Mị. Đó là lời tuyên chiến với bóng tối để sống một cuộc đời hạnh phúc tự do. Trong giây phút ấy Mị nghe thấy tiếng sáo. Nếu như trước tiếng sáo chỉ văng vẳng ở đầu núi, đầu làng, ngồi đường thì trong giây phút này tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị. Từ láy <i>“rập rờn”</i> khắc họa sự hòa quyện quấn quýt của Mị và tiếng sáo, để rồi từ đó những hành động của Mị đều được dẫn đường bởi tiếng sáo
<b>- Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. Những </b>
hành động liên tiếp khiến người đọc tưởng như Mị đã quay về những năm tháng của thanh xuân phơi phới với những đêm tình mùa xuân ngày trước. Mị giống bao người con gái ln muốn mình xinh đẹp khi đi chơi. Đó là
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">biểu hiện của lòng ham sống, yêu đời, Mị muốn đến thế giới ngoài kia đang tràn ngập tiếng sáo - Mị muốn đi chơi. Không chỉ dừng lại ở mong muốn, khát khao được đi chơi mà Mị đã hành động, sửa soạn đi chơi. Đó là một bước tiến lớn trong diễn biến tâm trạng và hành động của Mị - đó có thể coi là một cuộc vượt ngục tinh thần và sự trỗi dậy của lòng ham sống mạnh mẽ nhất. Trong những giây phút ấy, Mị không hề hay biết sự tồn tại của A Sử Nếu có biết, Mị cũng chẳng quan tâm. Mị đã dành trọn tâm trí cảm xúc cho việc sửa soạn để đi chơi xuân - một bước tiến dài, đỉnh cao của sức sống trỗi dậy trong lòng Mị.
Ý 5: Mị bị trói đứng vào cột, tiếng sáo vẫn đưa Mị theo những cuộc chơi. Mị lúc mê lúc tỉnh
<b>- Nhưng oan trái thay, đống tro tàn vừa mới được nhen nhóm thì lại thì cơn </b>
mưa giơng vùi lấp. Sức sống của Mị vừa trỗi dậy mạnh mẽ thì đã bị A Sử vùi dập một cách tàn nhẫn. A Sử không những không cho Mị đi chơi mà cịn trời đứng Mị vào góc nhà trong những đêm tình ngày tết rộn ràng ngồi kia. Tóc
<i>Mị xõa xuống, A Sử “túm ln tóc Mị quấn lên cột, làm Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. A Sử dập tắt đèn - dập tắt ngọn lửa Mị vừa </i>
thắp, dập ngọn lửa vừa le lói trong lòng Mị rồi đi chơi, đi bắt thêm vợ nữa. Đó là sự độc ác dã man của một người chồng.
<b>- Tâm trạng của Mị: nửa mê, nửa tỉnh. Mị vẫn im lặng chưa biết mình bị trói, </b>
bởi hơi rượu vẫn còn nồng nàn, Mị vẫn đang say, đang sống theo khát vọng, tuổi trẻ, tình yêu. Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, Mị vẫn phiêu
<i>du cùng tiếng sáo, vẫn bổi hổi cùng tiếng người thổi sáo: “Em không yêu quả pao rơi rồi”. A Sử có thể trói thân xác Mị nhưng khơng trói được tâm </i>
hồn, những khoảnh khắc thanh xn trong Mị. Cơ gái ấy tưởng mình trong cuộc chơi, Mị vùng bước đi. Đó là bước đi của khát vọng, của tình xuân, sắc xuân trong trái tim người con gái đáng thương. Chính tiếng sáo, men rượu đã nâng đỡ tâm hồn Mị giúp bạn vượt qua những đau đớn về thể xác.
<b>- Nỗi đau của thể xác đã kéo Mị quay trở về thực tại. Mị khơng cịn nghe thấy </b>
tiếng sáo nữa, chỉ cịn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách tường. Mị tưởng tượng bên kia vách, <i>“ngựa đứng yên, gãi chân, nhai cỏ”</i> khiến Mị không khỏi So sánh số phận của mình với số phận con ngựa, rồi khóc thổn thức vì mình khơng cả bằng một con ngựa. Vì nó cịn được nghỉ ngơi, tự do trong những ngày tết, cịn mình thì khơng. Với biện pháp tu từ so sánh hơn, Tơ Hồi đã khắc họa sâu sắc thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa - thân phận không bằng một con trâu con ngựa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>- Suốt đêm, Mị lúc mê, lúc tỉnh bị như bị phân thân thành hai con người. Một </b>
con người của khát vọng được tiếp xúc với men rượu, men tình và tiếng sáo nên tâm hồn vẫn còn phiêu du theo những cuộc chơi, những đám chơi, vẫn chập chờn sống trong cảnh trai đến bên vách làm hiệu chờ người yêu dỡ vách ra rừng chơi khiến Mị lại bồi hồi. Và một con người khác - con người bị thực tại trói buộc. Đơi lúc, Mị sợ mình bị bỏ quên như một người vợ đời trước trong nhà thống Lí, cũng bị trói đến chết nên cựa quậy xem mình cịn sống hay đã chết.
Ý 6: Ý nghĩa của sự thức tỉnh
<b>- Sức sống của Mị trong đêm mùa xuân vừa hồi sinh đã bị A Sử dập tắt nhưng </b>
nó lại có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Nó là bước tập dượt, là bàn đạp để đi tới hành động giải cứu A Phủ giải cứu chính mình ở đêm mùa đơng. Nếu khơng có mùa xn năm ấy, Mị sẽ không biết được trong sâu thẳm tâm hồn mình vẫn cịn có khát khao được sống một cuộc sống tự do hạnh phúc. Vì vậy cuộc vượt ngục tinh thần trong đêm tình mùa xuân tuy thất bại nhưng có ý nghĩa quan trọng.
Tiểu kết
<b>- Nội dung: Qua đoạn văn người đọc thấy sức sống của Mị - sức sống của con </b>
người tưởng chừng như hóa đá, như tê liệt của Mị trong đêm tình mùa xn. Tơ Hồi phát hiện bên trong cái vỏ rùa câm nín là một con người khao khát tình yêu, khao khát tự do, khao khát hạnh phúc; một sức sống tiềm tàng đến mãnh liệt. Nhà văn đã từng bước khắc họa sự hồi sinh trong tận hội Mị bằng ngòi bút khám phá nội tâm độc đáo. Khi đọc Chí Phèo, người đọc chứng kiến một anh Chí từ người biến thành quỷ dữ của làng Vũ Đại, thế nhưng chỉ với một bát cháo hành của Thị Nở, một hịn than nhân tính nhỏ trong cái đống tro tàn, Chi bỗng bốc cháy một khát vọng làm người lương thiện. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi cũng tìm được hịn than nhân tính ấy. Qua đó, ta thấy được tấm lịng nhân đạo đầy sức sống của Tơ Hồi để rồi đồng cảm, trân trọng, xót thương, từ đó tố cáo chế độ phong kiến ở miền núi khắc nghiệt tàn bạo.
<b>- Nghệ thuật: Mị là nhân vật trung tâm được tác giả khắc họa bằng những biện</b>
pháp độc đáo. Ơng khơng miêu tả rõ chân dung nhân vật mà chỉ bằng vài nét khắc họa, nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc về một cô gái Mèo xinh đẹp tràn đầy sức sống, có tài thổi sáo. Rất ít hành động, lời thoại, gần như khơng có mà chủ yếu đi sâu vào những gấp khúc sâu kín trong tâm hồn nhân vật. Ngịi bút của Tơ Hồi lia sâu vào tận nội tâm thầm kín khí náo nức khi bâng khuâng, khi tủi hờn, khi đau khổ của Mị, làm vang lên tiếng nói sâu thẳm
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">tâm hồn nhân vật. Tác giả không đứng ngồi cuộc mà như nhập tâm vào dịng suy nghĩ tâm trạng của nhân vật để diễn tả một cách tinh tế, khéo léo những chập chờn, say, tỉnh, những trạng thái lưỡng phân trong tâm hồn nhân vật bằng một giọng văn trầm lắng, cảm thương. Ngôn ngữ xúc động, chọn lọc lọc và sáng tạo, câu văn giàu chất tạo hình. Tơ Hồi đã vẽ nên một phơng nền ngoại cảnh Hồng Ngài đón tết: khơng khí xn, tiếng sáo, men rượu. Từ phông nền ngoại cảnh ấy, tác giả đã lý giải sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị. Chính sự tỉ mỉ và tinh tế trong lối văn của ông đã làm người đọc sáng tỏ về
<i>người cầm bút: “Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người” </i>
(Đặng Thai Mai).
<b>d) Sau đêm tình mùa xuân năm ấy</b>
<b>- Mị bàng hoàng tỉnh, trở về thực tại buổi sáng âm sâm trong nhà gỗ rộng. Mị </b>
thấy thương cho những người đàn bà sa vào nhà quan, Mị thấy sợ khi nghĩ tới người đàn bà bị trói đứng đến chết ở nhà thống lí nên Mị cựa quậy zem mình cịn sống hay đã chết. Mị nhận thấy chết lúc này thật oan uổng, chết lúc này cũng chẳng để làm gì. Bởi đêm tình mùa xuân đã cho Mị có thêm khao khát sống. Từ đó Mị lại tưởng tượng kiếp trâu ngựa ở nhà thống lý, Mị bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần. Khi A Sử bị thương vì đi bắt thêm vợ, Mị phải vào rừng hái thuốc bôi thuốc cho chồng cả đêm. Trong lúc mỏi quá gục đầu thiếp đi thì lại bị đạp vào mặt. Mị lại trở lại trạng thái tê liệt cảm xúc lầm lũi như con rùa ni xó cửa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>e) Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa đông</b>
<b>Khung cảnh nảy sinh tâm trạng</b>
<b>- Những đêm mùa đông trên núi cao lạnh thấu xương, dài và buồn. Hàng đêm </b>
Mị không ngủ được, Mị vẫn dậy để sưởi, hơ tay, hơ lưng không biết bao nhiêu lần. Nhiều lần bị A Sử đánh ngã ngay xuống bếp, Mị vẫn dậy sưởi như chưa có chuyện gì xảy ra. Ngọn lửa trở thành người bạn đưa Mị đi qua những đêm đông giá lạnh. Sống cùng ngọn lửa, Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn sưởi ấm cho nhau. Nếu khơng có bếp lửa kia Mị cũng chết héo - chết vì bị héo mịn, chết vì khơng cịn sức sống, niềm vui, hi vọng, chết trong tim. Tình cảnh của Mị như để sống qua cho những ngày chưa chết. Trong những đêm đông ấy, cạnh bếp lửa, A Phủ bị trói đứng góc nhà vì mải bắt nhím để hổ bắt mất một con bị. A Phủ đói, rét, chờ ngày chết.
<b>Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị</b>
<b>- Lúc đầu (thời gian đầu): khi nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi </b>
lửa hơ tay vì đây là cảnh tượng q quen thuộc trong nhà thống lí. Vì sau những giây phút sự sống bùng lên ở đêm tình mùa xuân, tâm hồn Mị lại khép kín, câm lặng trở về trạng thái vơ cảm. Mị thản nhiên đến lạnh lùng:
<i>“Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thơi”. Ba chữ “cũng thế </i>
thôi” tách riêng thành một nhịp, lời văn nửa trực tiếp đã tái hiện chính xác thái độ lạnh lùng của Mị. Câu văn diễn tả tận cùng sự băng giá trong trái tim Mị - trái tim đã chai sạn trước nỗi đau của người khác, thậm chí Mị cịn khơng biết sợ.
<b>- Mị không chỉ vô cảm với người xung quanh mà cịn vơ cảm với chính bản </b>
thân mình. Trong những đêm sưởi lửa, Mị bị A Sử đánh ngã ngay xuống bếp lửa trước mặt A Phủ thì Mị vẫn dậy thổi lửa, hơ tay, hơ lưng như chưa có gì xảy ra. Mị khơng cảm nhận được nỗi đau về thể xác, sự nhục nhã về tinh thần. Mị vẫn dậy thổi lửa như khơng có chuyện gì xảy ra bởi ngọn lửa là người bạn, là lẽ sống của Mị <i>“Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa”.</i> Điệp từ “chỉ” diễn tả nét nghĩa tồn tại ít ỏi, qua đó, nhà văn Tơ Hồi muốn khẳng định: ngọn lửa chính là lẽ sống ít ỏi của Mị. Dù A Sử có đánh, A Phủ có chết thì Mị vẫn sưởi lửa. Hàng đêm Mị vẫn cố gắng giữ ấm cho trái tim giá lạnh, cố giữ chút ánh sáng cho cuộc đời đầy bóng tối của mình, ln kiên nhẫn khơi lên trong đống tro tàn những hòn than ấm nóng. Khơng có bếp lửa kia Mị cũng chết héo. Với từ chỉ thời gian <i>“mỗi đêm”</i> và từ chỉ số đếm <i>“không biết bao nhiêu lần” gợi thói quen lặp đi lặp lại như một bản năng ăn vào vơ </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">thức. Đó là bản năng tìm tới hơi ấm và ánh sáng. Như vậy, Tơ Hồi muốn khẳng định dù trong hồn cảnh bị vùi dập đến thế nào đi chăng nữa, dù tâm hồn Mị có băng giá và chai sạn thì trong sâu thẳm trái tim Mị vẫn khao khát được sống. Tơ Hồi vẫn phát hiện ra trong sự lạnh giá, sâu thẳm trong trái tim ấy vẫn có sự sống tiềm tàng chỉ đợi cơ hội bùng lên.
Thái độ thản nhiên đến đáng sợ của Mị có thể là do cảnh người bị trói ở nhà thống lí Pá Tra là thường xuyên, thậm chí bị trói đến chết. Mị cũng đã từng bị trói trong đêm tình mùa xn phơi phới. Cũng có thể do cuộc sống bao nhiêu năm nay, Mị bị chà đạp, Mị sống lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa đã tạo cho Mị sự cam chịu, nhẫn nhục quá lớn. Và cũng có thể là do Mị chịu đựng quá nhiều sự đày đọa về thể xác lẫn tinh thần nên người con gái ấy đã trở nên chai sạn, vô cảm, khả năng cảm thông và chia sẻ với người khác ở Mị gần như tê liệt. Mị chẳng khác gì một tảng băng.
<b>- Đêm sau đó, khi trời đã khuya, Mị lại trở dậy thổi lửa. Nhờ có ngọn lửa soi </b>
sáng, Mị nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Dòng nước mắt của một người đàn ơng mạnh mẽ gan góc nhất Hồng Ngài, giọt nước mắt của một người đàn ông khỏe mạnh cường tráng bây giờ hốc hác, thê thảm và chờ chết. Đó là giọt nước mắt của sự tuyệt vọng, của những uất ức, đắng cay. Chính dịng nước mắt ấm nóng của A Phủ đã làm tan lớp băng giá trong lòng Mị, chạm vào trái tim Mị, đưa Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ. Mị nhớ lại cảnh mình từng bị trói, cũng từng khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Đồng cảnh sinh đồng cảm. Từ nỗi đau, sự tủi cực của mình trong quá khứ, Mị nhận ra nỗi đau của A Phủ trong đêm nay. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng nỗi đau của chính mình. Từ một con người chai sạn đến băng giá: “Nếu A Phủ là xác chết đứng đấy cũng thế thôi”, trái tim Mị đã có những bước ngoặt quan trọng - đồng cảm với nỗi đau của A Phủ, từ thương thân thức dậy tình
<i>thương người. Mị thương A Phủ “người kia việc gì phải chết thế”</i>
Từ tình thương người, Mị nhận ra sự độc ác, tàn bạo của cha con thống lý: <i>“chúng nó thật độc ác”</i> và nhận ra sự bất công, số phận thảm thương của người lương thiện sống trong nhà thống lí Pá Tra như A Phủ, Mị và người đàn bà ngày trước bị trói đứng đến chết. Đó là sự nhận thức mang tính lý trí và đầy tỉnh táo của Mị chứ không phải là sự cảm tính nhất thời. Tơ Hồi đã lách sâu vào dòng suy tư của Mị để diễn tả sự trở về của ý thức, nhận thức trong Mị. Nhưng người đọc vẫn nhận ra Mị vẫn bị sợi
<i>dây vơ hình của thần quyền thít chặt cầm tù: “Ta là thân đàn bà, nó đã </i>
</div>