Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức liên hệ tính sáng tạo của ý thức trong công tác phòng, chống dịch covid 19 ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.68 KB, 22 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA </b>

<b>ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH </b>



<b>BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN ĐỀ TÀI: </b>

<b>NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC. LIÊN HỆ TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC TRONG CƠNG TÁC PHỊNG, CHỐNG DỊCH </b>

<b>COVID-19 Ở VIỆT NAM </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA </small>

<i><b>Đề tài: NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC. LIÊN HỆ TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC </b></i>

<b>TRONG CƠNG TÁC PHỊNG, CHỐNG DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM </b>

<b>STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công </b>

<b>Tỷ lệ % thành viên nhóm </b>

<b>tham gia BTL </b>

<b>Ký tên Điểm </b>

1 2052823 Bạch Quốc An Chương 2 ( 2.2. – hạn chế, giải pháp) 100% 2 2052834 Dương Trâm Anh Chương 1 + Nguồn và lời cảm ơn + Chỉnh sửa tổng thể 100% 3 2052024 Hoàng Tuấn Anh Kết luận + duyệt nội dung + Chỉnh sửa cuối 100% 4 2052865 Phan Văn Bách Chương 2 ( 2.1. + 2.2. - kết quả ) 100%

<i><small>Họ và tên nhóm trưởng: Hồng Tuấn Anh Số ĐT: 0908552358 Email: </small></i>

<b><small>Nhận xét của GV:... </small></b>

<i> (Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên) </i>

<i> An Thị Ngọc Trinh Hoàng Tuấn Anh </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1.2.1.Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan ... 7</b>

<b>1.2.2.Ý thức phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của bộ óc </b>

<b>CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU TÍNH SÁNG TẠO CỦA Ý THỨC TRONG CƠNG TÁC PHỊNG, CHỐNG DỊCH COVID-19 Ở VIỆT NAM ... 13</b>

<b>2.1. Khái quát về cơng tác phịng chống dịch Covid-19 ở Việt Nam hiện nay 132.1.1.Khái quát về Coronavirus (Covid-19) và những biến thể mới…… 13</b>

<b>2.1.2.Khái quát về tình hình dịch bệnh Coronavirus (Covid-19) ở Việt Nam thời điểm hiện tại. ... 14</b>

<b>2.1.3.Khái quát về cơng tác phịng chống dịch Covid-19 ở Việt Nam hiện nay……. ... 14</b>

<b>2.2. Đánh giá sự sáng tạo của ý thức trong cơng tác phịng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam ... 15</b>

<b>2.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác phòng chống dịch Covid-19 ở Việt Nam hiện nay: ... 15 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>4 </b>

<b>1. PHẦN MỞ ĐẦU </b>

Theo Lenin, ý thức là: “khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc của con người”. Trong triết học, ý thức được coi là một hình thức cao của sự phản ánh thực tại khách quan mà chỉ con người mới có được, là sự phản ánh khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức có một ảnh hưởng lớn đến xã hội và con người. Là đầu tàu dẫn dắt các hoạt động thực tiễn và là động lực thơi thúc thực tiễn. Ý thức làm bộc lộ tính sáng tạo hiện thực khách quan trong các bạn trẻ để góp phần xây dựng và bảo vệ nước nhà trong thời điểm khó khăn, đơn cử là thời điểm hiện nay.

Chính trong giai đoạn dịch Covid hồnh hành, tình hình kinh tế và xã hội đang trở nên vô cùng nguy hiểm và khó khăn. Dù vậy, nhân dân Việt Nam ta vẫn bình tĩnh tuân thủ theo các chỉ thị để từng bước đẩy lùi dịch bệnh. Ngoài ra, những sự phát minh, sáng chế mang tính đột phá lẫn nhân đạo đã thể hiện rõ sự sáng tạo của nhân dân Việt Nam khi đối mặt với những vấn đề nguy cấp.

Nhận thấy rằng đây vừa là một tình huống đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nói riêng, cũng như tồn thế giới nói chung đáng để nghiên cứu, vừa tạo nên một đề tài hợp tình, hợp lý với thời buổi hiện nay. Nhóm chọn đề tài "Tìm hiểu tính sáng tạo của ý thức trong cơng tác phịng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam" với mong muốn rút ra những bài học giúp các bạn học sinh, sinh viên và toàn thể các tầng lớp nhân dân khác không chỉ hiểu rõ thêm về nguồn gốc bản chất, cấu tạo của ý thức, mà còn tiếp thu được sự vận dụng tính sáng tạo của ý thức trong việc đẩy lùi dịch bệnh nguy hiểm này. Vai trò của tính sáng tạo ý thức trong cơng tác phịng chống dịch Covid ở Việt Nam đã bộc lộ ý thức của con người là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan. Cho nên chính sự thành cơng hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cực, tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trị chỉ đạo. Vì thế, ý thức trong cơng tác phịng chống dịch Covid là vấn đề khoa học-văn hóa-tư tưởng có vai trị vơ cùng quan trọng. Nghiên cứu về ý thức và tri thức đã góp phần phản ánh hiện thực và nêu ra vai trị quan trọng trong cơng tác phịng chống dịch Covid hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học-thần kinh hiện đại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lenin khẳng định rằng, xét về nguồn gốc tự nhiên, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Ĩc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường và ý thức khơng thể tách rời bộ óc. Bộ óc người có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và phức tạp, bao gồm 14-15 tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây thần kinh liên hệ với các giác quan để thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan vào não bộ, hình thành những phản xạ có điều kiện và khơng có điều kiện, điều khiển các hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài.

Trái đất hình thành trải qua quá trình tiến hóa lâu dài dẫn đến sự xuất hiện con người. Đó cũng là lịch sử phát triển năng lực phản ánh của thế giới vật chất từ thấp đến cao và

<i>cao nhất là trình độ phản ánh-ý thức. </i>

Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Sự phản ánh phụ thuộc vào vật tác động và vật nhận tác động; đồng thời luôn mang nội dung thông tin của vật tác động

Lịch sử tiến hóa của thế giới vật chất đồng thời là lịch sử phát triển thuộc tính phản ánh của vật chất. Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự nhiên vơ sinh

<i>là những phản ánh vật lý, hóa học. Hình thức phản ứng sinh học đặc trưng cho giới tự </i>

nhiên sống là bước phát triển mới về chất trong sự tiến hóa các hình thức phản ánh. Hình thức phản ánh của các cơ thể sống đơn giản nhất là biểu hiện ở tính kích thích tức là

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>6 </b>

phản ứng trả lời tác động của mơi trường ở bên ngồi ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng. Hình thức phản ánh tiếp theo của các động vật chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng, tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của mơi trường. Hình thức phản ánh của các động vật có hệ thống thần kinh là các phản xạ. Hình thức phản ánh ở động vật bậc cao khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức, nó mới là sự phản ánh có tính bản năng do nhu cầu trục tiếp của sinh lý cơ thể và do quy luật sinh học chi phối.

Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực. Ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của của thế giới vật chất cùng với sự xuất hiện con người. Ý thức là ý thức con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người. Ý thức bắt nguồn từ thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngồi vào bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thơi thì chưa có ý thức. Khơng có sự tác động bên ngồi lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.

Như vậy, sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

<b>1.1.2. Nguồn gốc xã hội </b>

Sự ra đời của ý thức khơng phải chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn do nguồn gốc xã hội. Như trong cơng trình nghiên cứu khoa học của C. Mác và Ph. Angwghen đã nhiều lần chỉ rõ rằng, ý thức khơng chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà cịn có nguồn gốc xã hội và là một hiện tượng mang bản chất xã hội và khẳng định ấy được trích dẫn ở trang tám mươi mốt giáo trình triết học Mác Lênin, C. Mác và Ph. Ăngghen có khẳng định “con người cũng có cả “ý thức” nữa. Song, đó khơng phải là một ý thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức “thuần túy” ... Do đó, ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”<small>1</small>

Để tồn tại, con người phải tạo ra những vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Hoạt động lao động sáng tạo của lồi người có nhiều ý nghĩa thật đặc biệt. Ph. Angwghen

<small>1 Bộ Giáo dục đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, NXB: Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.81 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>7 </b>

đã chỉ rõ những động lực xã hội trực tiếp thúc đẩy sự ra đời ý thức ở trang tám mươi mốt giáo trình Triết học Mác Lê Nin là “Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngơn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc con người. Thơng qua hoạt động lao động cải tạo thế giới khách quan mà con người đã từng bước nhận thức được thế giới, có ý thức ngày càng sâu sắc về thế giới. Lao động còn là phương thức tồn tại cơ bản của con người, lao động mang tính xã hội đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên trong xã hội. Ở trang tám mươi mốt của giáo trình Triết học Mác Lê Nin, Ph. Angwghen có viết “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc ngôn ngữ.”<small>2</small>

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nó xuất hiện trở thành “vỏ vật chất” của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội-lịch sử. Ngôn ngữ có vai trị to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của ý thức, không những thể ngơn ngữ cịn là cơng cụ của tư duy. Nhờ có ngơn ngữ con người có thể khái quát trừu tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính, từ đó con người nhờ có ngơn ngữ có thể giao tiếp, trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội đã được tích lũy qua các thế hệ thời kì lịch sử.

Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thơng qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.

<b>1.2. Bản chất của ý thức </b>

<b>1.2.1. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan </b>

Khi xem xét ý thức về mặt bản chất thì ý thức chỉ là “hình ảnh” về hiện thực khách quan trong óc người. Đây là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Vật chất là hiện thực

<small>2 Bộ Giáo dục đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, NXB: Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.81 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>8 </b>

khách quan; còn ý thức là hiện thực chủ quan. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là “hình ảnh” của sự vật ở trong óc người. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Về nội dung mà ý thức phản ánh là khách quan, cịn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức là cái vật chất ở bên ngồi “di chuyển” vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong đó. Kết quả phản ánh của ý thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng phản ánh, điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực kinh nghiệm sống của chủ thể phản ánh. Cùng một đối tượng phản ánh nhưng với các chủ thể phản ánh khác nhau, có đặc điểm tâm lý, tri thức, kinh nghiệm, thể chất khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau…. thì kết quả phản ánh đối tượng trong ý thức cũng rất khác nhau

<b>1.2.2. Ý thức phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của bộ óc con người </b>

Ý thức phản ánh ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất, quy luật, điều kiện đem lại hiệu quả hoạt động thực tiễn. Cho nên, sáng tạo là đặc tính bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thức khách quan vào bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo nhu cầu con người.

Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc thơng tin cần. Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc thơng tin cần. Ba là, chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức q trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.

Loài người xuất hiện là kết quả của lịch sử vận động, phát triển lâu dài của thế giới vật chất. Cấu trúc hoàn thiện của bộ óc người là nền tảng vật chất để ý thức hoạt động; cùng với hoạt động thực tiễn và đời sống xã hội phong phú tạo động lực mạnh mẽ thúc

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>9 </b>

đẩy ý thức hình thành và khơng ngừng phát triển. Sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sức sáng tạo của ý thức trong tinh thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn khác nhau về bản chất nhưng chỉ là biểu hiện khác nhau của năng lực sáng tạo, khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức để ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc

<b>1.2.3. Ý thức có bản chất xã hội </b>

Ý thức được hình thành trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. Trong q trình đó con người nhận ra rằng cần có nhu cầu cần liên kết với nhau để trao đổi kinh nghiệm và các nhu cầu khác. Do đó mà khái niệm hoạt động xã hội ra đời. Ý thức là sản phẩm của xã hội, ý thức trước hết là tri thức của con người về xã hội, về thế giới khách quan đang diễn ra xung quanh, về mối liên hệ giữa người với người trong xã hội. Như vậy, con người hoạt động không chỉ bằng bàn tay khối óc của mình mà cịn bị chi phối bởi bàn tay và khối óc của người khác, của xã hội nhân loại nói chung. Tự tách ra khỏi môi trường xã hội con người không thể tự có ý thức, tình cảm thực sự. Mỗi cá nhân phải tự ý thức được vai trị của mình đối với bản thân và xã hội.

Ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn lịch sử, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. Ý thức mang bản chất xã hội.

<b>1.3. Kết cấu của ý thức </b>

<b>1.3.1. Các lớp cấu trúc của ý thức </b>

Khi xem xét các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm, tin, lý trí, ý chí… Trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi nhất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>10 </b>

<i><b>Tri thức </b></i>

Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Do đó, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức đó là tri thức. Ý thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng, khơng giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.

Ở trang tám mươi sáu của giáo trình Triết học Mác Lê Nin có đề cập rằng: “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối với ý thức là tri thức, … cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó”<small>3</small> theo C. Mác. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận; tri thức về tiền khoa học và tri thức khoa học … Tích cực tìm hiểu, tích lũy tri thức về thể giới xung quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới.

Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức – là nền kinh tế trong đó sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học và cơng nghệ. Vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn.

<i><b>Tình cảm </b></i>

Cùng với quá trình nhận thức sự vật, trong ý thức cịn nảy sinh thái độ của con người đối với đối tượng phản ánh. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người.

Sự hòa quyện giữa tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn đã tạo nên tính bền vứng của niềm tin thơi thúc con người hoạt động vươn lên trong mọi hoàn cảnh.

<small>3 Bộ Giáo dục đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, NXB: Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.86 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>11 </b>

<i><b>Ý chí </b></i>

Muốn vượt qua những khó khăn gian khổ để đặt tới mục địch, chủ thể nhận thức phải có ý chí quyết tâm cao.

Ý chí là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra. Tri thức kết hợp với tình cảm, ý chí hình thành nên niềm tin, nâng cao ý chí tích cực biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.

<b>1.3.2. Các cấp độ của ý thức </b>

Khi xem xét ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, cần nhận thức được các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, vô thức… Tất cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác hợp thành ý thức, quy định tính phong phú, nhiều vẻ của đời sống tinh thần của con người.

<i><b>Tự ý thức </b></i>

Tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một thành tố rất quan trọng của ý thức, đánh dấu trình độ phát triển của ý thức. Nhờ vậy con người tự nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người về bản thân mình trên mọi phương diện giữ vai trị quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con người chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với những người khác, trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu

Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân, mà còn là tự ý thức của các nhóm xã hội khác nhau (như: một tập thể, một giai cấp, một dân tộc, thậm chí cả xã hội) về địa vị của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất, về lợi ích và lý tưởng của mình.

</div>

×