Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Chủ đề đánh giá tình hình khai thác và nuôi trồng thủy sản tại bình thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.62 KB, 24 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

<b>KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b><small>STTHỌ VÀ TÊNMSV LỚP SĐTTỉ lệ tham gia </small></b>

<b><small>16 </small></b> <small>Thanaphone Phommasone 688778K68KTNNA0838007283100%</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Việt Nam là nước có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản. Với đường bờ biển dài 3260 km, đi qua hơn 13 vĩ độ, có nhiều vùng sinh thái khác nhau, với nhiều nguồn vi sinh vật đa dạng và phong phú, Việt Nam có nguồn khai thác thủy sản phong phú và đa dạng về nước mặn, nước ngọt, nước lợ đem lại hiệu quả kinh tế khá cao. Thủy sản hiện nay là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đứng thứ 5 về giá trị xuất khẩu, giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam với quy mô ngày càng mở rộng. Thương hiệu thủy sản Việt Nam không chỉ được khẳng định trong nước

<i>mà cịn được đón nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới. (Theo Công ty luật ACC) Bên cạnh đó, ngành Thuỷ sản cịn giữ vai trị quan trọng trong bảo vệ an </i>

ninh, chủ quyền trên biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần thực hiện chiến lược quốc phịng tồn dân và an ninh

<i>nhân dân. (Nguyễn Việt Thắng, 2011)</i>

Nuôi trồng thủy sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng hóa chủ lực, phát triển rộng khắp, có vị trí quan trọng và đang tiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

đến xây dựng các vùng sản xuất tập trung. Năm 2021, diện tích mặt nước ni trồng thuỷ sản đạt 1.135 nghìn ha, sản lượng đạt 4.855,4 nghìn tấn, diện tích ni trồng chỉ tăng 10,8% so với năm 2010 nhưng sản lượng tăng tới 77,7%. Nhờ vậy mà giá trị sản phẩm thu được trên một ha nuôi trồng thủy sản tăng từ

<i>103,8 triệu đồng/ha năm 2010 lên 241,2 triệu đồng/ha năm 2021. (Theo Tổng cục thống kê, 2022)</i>

<i>(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2022)</i>

Trong 9 tháng năm 2022, nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển do tăng sản lượng các sản phẩm trọng điểm như cá tra, tôm thẻ chân trắng. Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng năm 2022 ước đạt 3611,2 nghìn tấn, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2021. Sản lượng cá tra 9 tháng năm 2022 ước đạt 1.139,5 nghìn tấn, tăng 10,9% so cùng kỳ năm trước. Nhu cầu tiêu thụ cá tra ngày càng phổ biến trên thế giới nhờ giá trị dinh dưỡng cao. Tính trong 8 tháng năm 2022, xuất khẩu cá tra đạt gần 1,8 tỷ USD, tăng 81% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, cá tra xuất khẩu sang 149 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nuôi tôm

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

cũng mang lại hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt mơ hình ni tơm thẻ chân trắng ứng dụng công nghệ cao. Trong 9 tháng năm 2022, sản lượng tôm thẻ chân trắng ước đạt 533,0 nghìn tấn, tăng 14,3% so cùng kỳ năm trước; sản lượng tơm

<i>sú ước đạt 202,1 nghìn tấn, tăng 2,8%. (Theo Tổng cục thống kê, 2022)</i>

Tuy ngành nuôi trồng thủy sản đã đạt được nhiều thành quả đáng tự hào nhưng những khó khăn, thách thức cũng rất lớn. Những vướng mắc, thách thức đó chính là lực cản vơ hình khắc chế ngành ni trồng thủy sản Việt Nam trong hành trình tăng tốc, vươn tầm ra thế giới. Nghề đánh bắt còn nhiều yếu kém trong khi nghề ni trồng thủy sản thì phát triển chưa bền vững. Hiện nay, tôm và cá tra đóng vai trị chủ lực trong xuất khẩu nhưng việc ni hai con này cịn nhiều vướng mắc, nan giải. Đó là sự hạn chế trong liên kết giữa nuôi với thu mua, bảo quản, chế biến, tiêu thụ. Đó là Việt Nam chưa có nhiều trang trại nuôi tôm quy mô tầm cỡ do vướng mắc trong chính sách hạn điền, gây khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ nuôi và truy xuất sản phẩm. Hiện nay, 90% sản lượng tôm nuôi của Việt Nam là từ các cơ sở nhỏ lẻ. Sự manh mún này dẫn đến việc khó kiểm soát chất lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm khơng đồng đều; khó áp dụng các quy trình ni quốc tế cũng như khó áp dụng cơng nghệ hiện đại để giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh cho con tơm Việt. Ngồi ra, nguồn nước ngày càng ô nhiễm làm cho rủi ro trong nghề nuôi thủy sản tăng cao khiến doanh nghiệp và người nuôi nhỏ lẻ thấp thỏm lo lắng. Người nuôi tơm cịn đối mặt với nhiều khó khăn khác như vay vốn ngân hàng, nguồn điện không ổn

<i>định, bị thương lái ép giá… (Theo Tuổi trẻ Online, 2023) </i>

Do đó, việc đánh giá tình hình khai thác và nuôi trồng thủy sản tại một địa phương cụ thể là rất cần thiết để có thể hiểu hơn về đóng góp và khó khăn của ngành Thủy sản. Sau khi tìm hiểu và thảo luận, nhóm đã đi đến quyết định lựa chọn tỉnh Bình Thuận làm đối tượng nghiên cứu cho bản đánh giá này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU</b>

<i><b>1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu chung:</b></i>

- Đánh giá tình hình khai thác và ni trồng thủy sản tại tỉnh Bình Thuận năm 2018-2023.

<i><b>1.2.2. Mục tiêu nghiên cứu riêng:</b></i>

- Tìm hiểu về kết quả khai thác và nuôi trồng thủy sản tại tỉnh Bình Thuận năm 2018-2023.

- Tìm hiểu về thuận lợi và khó khăn trong khai thác, ni trồng thủy sản tại tỉnh Bình Thuận.

- Tìm hiểu một số giải pháp nâng cao, tăng cường việc nuôi trồng và khai thác thủy sản hợp lý của tỉnh Bình Thuận.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>PHẦN II: NỘI DUNG</b>

<b>2.1. KẾT QUẢ KHAI THÁC VÀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TỈNH BÌNH THUẬN (2018-2023)</b>

<i><b>2.1.1. Mơ tả về tỉnh Bình Thuận</b></i>

Bình Thuận là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, có tổng diện tích tự nhiên là 7.810,43 km với khí hậu quanh năm nắng ấm, chất lượng nguồn nước tốt, nền <small>2</small> nhiệt cao, ổn định. Theo sự sắp đặt về kinh tế, Bình Thuận là tỉnh thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Phần đất liền của Bình Thuận nằm trong giới hạn 10°35'-11°38' Bắc và 107°24'-108°53' Đơng. Bình Thuận có vùng lãnh hải rộng 52 nghìn km² nên Bình Thuận là một trong ba ngư trường lớn của Việt Nam trữ lượng khai thác đánh bắt hải sản đạt 240.000 tấn hải sản các loại, là điều kiện chế biến thủy sản xuất khẩu. Sò điệp là đặc sản của biển Bình Thuận, tập trung ở 4 bãi chính là: La Khế, Hịn Rơm, Hịn Cau và Phan Rí, cho phép đánh bắt

<i>25-30 nghìn tấn/năm. (Theo Cổng thơng tin điện tử tỉnh Bình Thuận, 2019)</i>

Tỉnh Bình Thuận có 7 huyện, thị xã, thành phố ven biển và hải đảo, với 36 xã, phường, thị trấn tiếp giáp biển. Nhiều địa phương có nghề cá phát triển từ lâu đời hình thành nên truyền thống và nét văn hóa nghề cá khá đặc sắc. Bình Thuận cũng được đánh giá là một tỉnh có số lượng tàu khai thác lớn của cả nước. Hầu hết tàu khai thác xa bờ, dài ngày đã được trang bị đồng bộ thiết bị cơ

<i>giới khai thác, thông tin liên lạc, dị tìm cá. (Khánh Linh. 2013)</i>

Theo số liệu Niên Giám thống kê năm 2020, tồn tỉnh có khoảng 3.041,8 ha nuôi trồng thủy hải sản (nuôi trồng theo hướng thâm canh, cơng nghiệp), trong đó chủ yếu là nuôi tôm, nhất là tôm thẻ chân trắng; ni thủy sản nước ngọt như: cá tầm, chình, bống tượng, thác lác… đặc biệt là sản xuất tôm giống. Nuôi trồng thuỷ sản tập trung tại khu vực Hàm Tân, Tuy Phong, Bắc Bình, Phan

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Thiết, Hàm Thuận Nam. Vùng nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, tâ …p trung ở Hàm Tân (330,4 ha) Tuy Phong (425,1 ha). Ngồi ra cịn có 5 vùng vịnh lớn nhỏ trên địa bàn tỉnh có thể ni một số lồi thủy hải sản có giá trị kinh tế cao như: tơm hùm, cá mú, sị, điệp, trai ngọc... Diện tích ni nước lợ vùng ven biển đạt khoảng 1000 ha, chủ yếu nuôi tôm thẻ chân trắng. Toàn tỉnh đã phát triển 3.579 cơ sở nuôi trồng, 230 hộ nuôi lồng bè trên biển, sông, rạch và 10 cơ sở nuôi đăng chắn trên biển và 1.921 lồng bè. Các cơ sở nuôi tôm sú trong năm ổn

<i>định và phát triển khá tốt. (Hồng Nhất Thống và các tác giả, 2023)</i>

Theo ơng Mai Kiều, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, từ sau khi tái lập tỉnh Bình Thuận (năm 1992) đến nay, thực hiện các Nghị quyết, chương trình phát triển thủy sản của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là thực hiện kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ngành thủy sản Bình Thuận đã từng bước cơ cấu lại

<i>toàn diện các lĩnh vực thuộc ngành và đạt được những kết quả tích cực. (Theo Báo ảnh Dân tộc và Miền núi) Cuối tháng 11/2022, tỉnh Bình Thuận đã ban </i>

hành “Kế hoạch thực hiện Đề án bảo vệ môi trường trong hoạt động thủy sản giai đoạn 2021-2030”; theo đó từng bước xây dựng mơ hình kinh tế tuần hoàn,

<i>kinh tế xanh trong hoạt động thủy sản. (Theo Tổng cục thủy sản, 2022)</i>

<i><b>2.1.2. Kết quả khai thác, ni trồng thủy sản tại Bình Thuận giai đoạn 2018-2023</b></i>

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong tháng 7/2018, sản lượng nuôi trồng thủy sản tồn tỉnh Bình Thuận ước đạt 1.119 tấn, lũy kế 7.884 tấn/KH 12.450 tấn (63,3%), tăng 2,6% so cùng kỳ. Riêng sản lượng tôm giống sản xuất và tiêu thụ trong 7 tháng đầu năm ước đạt 14,73 tỷ/ KH 23 tỷ post

<i>(64%), bằng 98% so cùng kỳ. (K.H, 2020)</i>

Tổng sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2019 ước đạt 100.088 tấn, tăng 2,02% so cùng kỳ. Trong đó: Diện tích ni trồng ước đạt 1.382,8 ha, tăng

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

2,5%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 6 ước đạt 1.179,1 tấn, tăng 3,9% so cùng kỳ; lũy kế 6 tháng ước đạt 6.894 tấn, tăng 2,5% (tăng 169,6 tấn) so cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác ước đạt 93.193,9 tấn tăng 1,99% so cùng kỳ trong đó chủ yếu là khai thác biển đạt 92.890,2 tấn, tăng 2% so cùng kỳ; khai

<i>thác nội địa đạt 303,7 tấn tăng, 1,9% so cùng kỳ. (Theo Hội Nơng dân tỉnh BìnhThuận 2019)</i>,

Trong 10 tháng năm 2019, sản lượng thủy sản trên địa bàn tỉnh đạt khoảng 202.073,8 tấn, tăng 1,37% so cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 11.652,7 tấn, tăng 1,98% so cùng kỳ năm trước; sản lượng thủy sản khai thác đạt 190.421,1 tấn, tăng 1,34% so cùng kỳ (trong đó khai thác biển là 189.883,4 tấn, tăng 1,33% so cùng kỳ, khai thác nội địa là 537,7 tấn, tăng

<i>1,98% so cùng kỳ). (Theo Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận, 2019)</i>

Theo số liệu thống kê của Chi cục Thủy sản tỉnh Bình Thuận, sản lượng khai thác hải sản tháng 11 năm 2019 ước đạt 18.193,6 tấn, tăng 0,21% so với cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng ước đạt 220.295,9 tấn, tăng 1,29% so cùng kỳ và đạt 98,6% so kế hoạch năm. Diện tích ni trồng lũy kế 11 tháng ước đạt 2.750 ha, tăng 2,14% so cùng kỳ. Trong khi sản xuất tôm giống trong tháng 11 ước đạt 1,85 tỷ con, tăng 2,78% so cùng kỳ; lũy kế 11 tháng ước đạt 22,96 tỷ con, tăng 3,83% so cùng kỳ và đạt 95,69% kế hoạch. <i>(Theo Báo Bình Thuận, 2019) </i>Sản lượng thủy sản ni trồng thu hoạch trong tháng 11 ước đạt 1.249 tấn, lũy kế 11 tháng ước đạt 12.901 tấn, đạt 96,1% kế hoạch năm, tăng 2% so với cùng kỳ năm

<i>trước. (Theo Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận, 2019)</i>

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 6 tháng đầu năm 2020, sản lượng thủy sản ước đạt khoảng 101 ngàn tấn, tăng 1,14% so cùng kỳ; trong đó sản lượng ni trồng 6,9 ngàn tấn và sản lượng khai thác 94,5 ngàn tấn. Tuy nhiên, do tác động của dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thủy sản, các doanh nghiệp thu mua, xuất khẩu thủy sản cũng hạn chế thu mua do hàng tồn kho nhiều nên giá bán thấp, tiêu thụ chậm, hiệu quả kinh tế thấp.

Bên cạnh đó, tình hình sản xuất tơm giống trong 6 tháng đầu năm 2020 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng về giá, sản lượng tôm thương phẩm tiêu thụ chậm. Theo số liệu thống kê, sản lượng tôm giống sản xuất 6 tháng, ước đạt 11,2 tỷ post, bằng 82,6% so với cùng kỳ. Ngoài ra, cá giống các loại cũng giảm

<i>5% so với cùng kỳ, ước đạt 7,6 triệu post. (Theo cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Thuận, 2020)</i>

Năm 2021, sản lượng khai thác thủy sản của Bình Thuận đạt 225.211 tấn, tăng 1,8% so năm 2020; trong đó: khai thác biển đạt 224.872,2 tấn, tăng 1,8%. Riêng sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 12.191,5 tấn, tăng 1,1% so năm 2020. Tổng diện tích ni trồng đạt 2.869,9 ha, tăng 2,5% so năm 2020. Sản lượng

<i>tôm giống năm 2021 đạt 26 tỷ con, tăng 3,1% so năm 2020. (HT, 2021)</i>

Hoạt động đánh bắt hải sản năm 2022 ít thuận lợi, bên cạnh do ảnh hưởng của thời tiết (gió bấc thổi mạnh các tháng đầu năm) thì tác động của giá dầu tăng, các mặt hàng phục vụ khai thác thủy sản không ổn định và ở mức cao vào nhiều thời điểm trong năm (trong khi giá bán hải sản tăng không đáng kể) đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của tàu thuyền khai thác thủy sản. Sản lượng khai thác thủy sản năm 2022 ước đạt 231.380 tấn/ KH 210.000 tấn (110,2%

<i>KH), bằng 100,6% so năm 2021. (M.Vân, 2022)</i>

Theo Cục Thống kê tỉnh, trong tháng 5/2023, sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 19.331 tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khai thác biển ước 19.300 tấn). Lũy kế 5 tháng năm 2023, sản lượng khai thác ước đạt 86.057 tấn, tăng 2,5% so cùng kỳ năm trước (trong đó khai thác biển ước đạt 85.837,6 tấn, tăng 2,5%). Bên cạnh đó, sản lượng ni trồng trong tháng ước đạt 814 tấn, lũy kế 5 tháng năm 2023 ước đạt 4.235 tấn, tăng 2,1% so cùng kỳ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

năm trước. Sản lượng tôm giống tháng 5 ước đạt gần 2 tỷ con, giảm 3,91% so cùng kỳ. Lũy kế 5 tháng năm 2023 ước đạt hơn 9 tỷ con, giảm 3,24% so cùng

<i>kỳ năm trước. (Minh Vân, 2023)</i>

Diện tích ni trồng thủy sản trong tháng 8/2023 đạt 222,4 ha, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 8 tháng năm 2023 ước đạt 2.056,5 ha, giảm 6,4% so với cùng kỳ năm trước (trong đó diện tích ni cá 1.572,4 ha, giảm 10,1%; diện tích ni tơm 409,5 ha, giảm 4,8%). Bên cạnh đó, sản lượng ni trồng trong tháng ước đạt 1.212 tấn, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 8 tháng năm 2023 đạt 6.433,3 tấn, giảm 16,2% so với cùng kỳ năm trước (trong đó cá các loại ước 3.345,4 tấn, giảm 21,5%; tôm nuôi nước lợ ước đạt

<i>2.909,9 tấn, giảm 11,9%). (S.Nguyên, 2023)</i>

Sản lượng tôm giống sản xuất trong tháng 9/2023 của Bình Thuận ước đạt 2,3 tỷ post, giảm 1,3% so cùng kỳ năm trước; lũy kế sản lượng tôm giống 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 15,6 tỷ con, giảm 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích ni trồng thủy sản trong tháng 9/2023 của Bình Thuận ước đạt 248,6 ha, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2022. Luỹ kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 2.305,1 ha, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích ni cá

<i>1.758,4 ha, giảm 8,9%; diện tích ni tơm 466,1 ha, giảm 3,98%. (Vũ Mưa. 2023)</i>

Do tình hình ni thủy sản không ổn định, giá tôm thương phẩm giảm trong 6 tháng đầu năm, các hộ nuôi hạn chế thả giống làm giảm sản lượng thu hoạch. Theo đó, sản lượng ni trồng trong tháng 9 của Bình Thuận ước đạt 1.327,5 tấn. Lũy kế sản lượng nuôi trồng 9 tháng năm 2023 ước đạt 7.760,8 tấn, giảm 13,41% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cá các loại ước đạt 4.215,4 tấn, giảm 17,4%; tôm nuôi nước lợ ước đạt 3.445,9 tấn, giảm 9,3%; thủy sản khác 99,5 tấn, tăng 58,7%. Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng 9 ước đạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

21.339 tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khai thác biển ước đạt 21.280 tấn, tăng 2,4%. Lũy kế sản lượng thủy sản khai thác 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 175.887,1 tấn, tăng 2,64% so với cùng kỳ năm trước, trong đó

<i>khai thác biển ước đạt 175.462,8 tấn, tăng 2,41%. (Vũ Mưa. 2023)</i>

<i> (Nguồn: Vũ Mưa. Thủy sản Việt Nam, 2023)</i>

<b>2.2. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN</b>

<i><b>2.2.1. Thuận lợi trong khai thác và ni trồng thủy sản tại tỉnh Bình Thuận:</b></i>

Về điều kiện tự nhiên, Bình Thuận có tổng diện tích tự nhiên là 7.810,43 km<small>2</small>, với chiều dài bờ biển trên 192km, vùng biển rộng 20.288 km cùng 14 hải <small>2</small> đảo. Là một tỉnh ven biển khí hậu quanh năm nắng ấm với sườn bờ ngầm và đáy biển thoải rộng, bằng phẳng cùng với lợi thế là nơi hội tụ và vùng nước trồi của hai dịng hải lưu nên biển Bình Thuận có nguồn lợi thuỷ sản khơng những lớn về trữ lượng mà cịn phong phú về chủng loại. Đó là có trên 500 lồi cá, trong đó có 60 lồi có giá trị kinh tế cao như cá thu, cá hồng, cá mú, mực, cá

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

bạc má, cá ngừ...; nhiều đặc sản có giá trị cao như tơm, điệp, sị lơng, dịm, bàn

<i>mai… (Hồng Nhất Thống và các tác giả, 2023)</i>

Do tiếp giáp liên thông với các ngư trường lớn của cả nước như ngư trường Đông Nam Bộ, khu vực Trường Sa - DK1… nên tỉnh Bình Thuận có lợi thế phát triển khai thác hải sản trên các vùng biển khơi, xa bờ. Bên cạnh đó, với đặc thù khơng có sơng lớn đổ ra biển, độ mặn ít biến động, chất lượng nguồn nước tốt, nền nhiệt cao, ổn định… là điều kiện quan trọng tạo nên lợi thế phát

<i>triển nghề sản xuất tôm giống và hải sản trên biển. (Khánh Linh. 2013)</i>

Ngồi ra, diện tích các bãi bồi, bãi triều ven sông biển và nằm sát cận với bờ biển có khả năng phát triển ni tôm bán thâm canh khoảng 1.000 ha. Dọc bờ biển và đảo Phú Q có thể phát triển ni cá lồng bè các loại hải đặc sản như cá mú, tơm hùm… Bình Thuận có điều kiện khí hậu thuận lợi (ít mưa bão) tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh phát triển ngành nuôi trồng thủy, hải sản gắn với phát triển công nghiệp chế biến. Những điều kiện trên là tiền đề để cho Bình Thuận phát triển nuôi trồng thủy hải sản, nhất là ở các địa phương ven biển của tỉnh như thành phố Phan Thiết, thị xã La Gi, huyện Tuy Phong và huyện đảo

<i>Phú Quý. (Hoàng Nhất Thống và các tác giả, 2023)</i>

Bình Thuận cũng là địa phương đi đầu về xây dựng các Tổ ngư dân đoàn kết sản xuất trên biển, hiện có 401 Tổ/2.548 thuyền/17.206 lao động; có 39 Hợp tác xã và 20 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thủy sản, phần lớn tập trung tại địa bàn huyện đảo Phú Quý. Các cảng, bến cá kết hợp nơi tránh trú bão cho tàu cá được đầu tư Phan Thiết, Phan Rí, Lagi, Phú Hài, Liên Hương đã trở thành các đầu mối dịch vụ hậu cần, thu hút tàu thuyền trong và ngoài tỉnh tập kết tiêu thụ sản phẩm, tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến, cung ứng vật tư,

<i>nhiên liệu phục vụ khai thác, tăng khả năng đánh bắt xa bờ. (Khánh Linh. 2013)</i>

</div>

×