Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận cá nhân luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.97 KB, 15 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

2.1 Trong vụ án trên những ai phạm tội? Phạm tội gì? Vì sao?...9

2.2 Vụ án có đồng phạm khơng? Tại sao?...11

2.3 Tội phạm được thực hiện ở giai đoạn nào? Tại sao?...12

KẾT LUẬN...13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...15

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Tội phạm được quy định trong BLHS là do có tính chất nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm có thể do một người thực hiện, có thể do nhiều người thực hiện. Khi tội phạm được thực hiện bởi nhiều người và trong hành động của họ có sự liên kết, tác động lẫn nhau thì được coi là đồng phạm. Đồng phạm hình thức phạm tội đặc biệt địi hỏi những điều kiện riêng khác với phạm tội thông thường về số lượng người tham gia phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng.Để hiểu rõ hơn về đồng phạm, những loại người đồng phạm, và thực tế đồng phạm sẽ được thể hiện trong thực tiễn như thế nào thì trong bài tiểu luận này em xin chọn Đề 3 để qua đó có thể thấy được các quy định của pháp luật về vấn đề này cũng như áp dụng pháp luật đồng phạm vào thực tế.

<b>NỘI DUNG1. Đồng phạm và những loại người đồng phạm1.1 Khái niệm đồng phạm</b>

Tại khoản 1 điều 17 Bộ luật hình sự quy định:" Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm ".

Theo quy định tại khoản 1 có thể thấy để xác định là đồng phạm thì cần phải thỏa mãn hai điều kiện sau:

a) Về dấu hiệu khách quan phải thỏa mãn:

Thứ nhất, đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Tức là cả hai người đều phải có điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự (có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự). Nếu trong trường hợp tội phạm được thực hiện là tội phạm có chủ thể đặc biệt thì dấu hiệu chủ thể đặc biệt chỉ đòi hỏi ở người đồng phạm là người thực hành.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Thứ hai, về dấu hiệu cố ý cùng thực hiện tội phạm có nghĩa là mỗi người phải cố ý tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi như sau:

- Hành vi thực hiện tội phạm( thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP) Người có hành vi này được gọi là người thực hành;

- Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm( tổ chức thực hiện được mô tả trong CTTP như chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy).Người có hành vi này được gọi là người tổ chức; - Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm( Xúi giục người khác thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP như kích động,dụ dỗ, thúc đẩy). Người có hành vi này được gọi là người xúi giục;

- Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm( giúp sức người khác đẻ thực hiện tội phạm được mô tả trong CTTP như giúp đỡ về tinh thần, vật chất: tiền, tài sản). Người có hành vi này được gọi là người giúp sức.

Trong tội đồng phạm thì mỗi người đều có hành vi tham gia vào việc thực hiện tội phạm, hành vi của mỗi người được thực hiện có sự liên kết với nhau, hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của người khác và ngược lại, hành vi phạm tội của mỗi người đều nằm trong hoạt động phạm tội của cả nhóm, với mục đích chung là đạt được kết quả thực hiện tội phạm. Vì vậy, sẽ khơng được coi là đồng phạm khi một số người đã cùng thực hiện một tội phạm và cùng một thời gian nhưng giữa những người này khơng có sự bàn bạc, liên hệ, ràng buộc, hỗ trợ lẫn nhau mà hành vi của từng người đều thực hiện độc lập. Có nghĩa là trường hợp này sẽ mỗi chủ thể sẽ phải chịu trách nhiệm độc lập về hành vi phạm tội của mình gây ra, sẽ khơng có mối liên hệ nào được thể hiện ở đây.

b) Về dấu hiệu chủ quan thì tội đồng phạm phải thỏa mãn:

Thứ nhất về yếu tố lỗi: lỗi của tội đồng phạm luôn là lỗi cố ý và được thể hiện thơng qua:

- Lý trí: mỗi người đều biết hành vi của mình có tính gây nguy hiểm cho xã hội và đều biết những người khác cũng đều có những hành vi cùng mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Mỗi người đồng phạm đều thấy trước hậu quả thiệt hại của tội phạm mà họ gây ra.

- Ý chí: Những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra. Những trường hợp không mong muốn có sự liên kết hành vi để cùng gây ra hậu quả thiệt hại thì đó là phạm tội riêng lẻ.

Thứ hai là dấu hiệu mục đích: những người cùng nhau, giúp đỡ nhau để phạm tội hoàn thành hay nói cách khác là đồng phạm thì cịn địi hỏi dấu hiệu cùng mục đích phạm tội trong trường hợp đồng phạm những tội có mục đích phạm tội là dấu hiệu được mơ tả trong CTTP. Ví dụ Đồng phạm trong Tội giết người được coi là cùng mục đích khi thống nhất ý chí và tiếp nhận thơng tin.

<b>1.2 Những loại người đồng phạm</b>

Khoản 3 điều 17 Bộ Luật hình sự quy định có 4 loại người đồng phạm như sau: người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức.

<i><b>1.2.1 Người thực hành tội phạm</b></i>

Theo khoản 3 Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm”.

Hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm có thể được biểu hiện như sau:

- Trường hợp thứ nhất: Trực tiếp thực hiện tội phạm thể hiện ở việc trực tiếp thực hiện hành vi thỏa mãn dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội phạm được quy định tại điều luật cụ thể Phần các tội phạm của BLHS. Ví dụ như Tội giết người, người trực tiếp thực hiện tội phạm có hành vi trực tiếp đâm, chém, bắn, trực tiếp bỏ thuốc độc,.. Trường hợp này người phạm tội có thể có hoặc khơng sử dụng cơng cụ, phương tiện phạm tội nào khác để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Trong vụ đồng phạm khơng nhất thiết chỉ có một người thực hành hành vi phạm tội mà có thể có nhiều người cùng tự mình thực hiện hành vi được mơ tả trong cấu thành tội phạm và họ được gọi là người đồng thực hành. Những người đồng thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

hành đều có cùng mục đích và mỗi người đều nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội. Có thể trong một tội danh cụ thể nào đó hành vi của mỗi người sẽ khơng đủ để CTTP tuy nhiên nếu xâu chuỗi các hành vi của mỗi người lại thì đủ căn cứ để CTTP.

Có thể lấy một ví dụ như sau: Tội cướp tài sản được Khoản 1 Điều 168 Bộ

<i>luật Hình sự (BLHS) quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngaytức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khôngthể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm".</i>

Trong đồng phạm tội Cướp tài sản do anh C có kháng cự và chống lại hành vi cướp tài sản của A và B, A đã đè C lên tường và có khóa lại tay của C để B đánh, đấm vào bụng của C, vì B khơng đủ sức khỏe để dùng vũ lực với C nên thông qua sự trợ giúp của A thì B mới có thể thực hiện hành vi đánh C của mình . Sau đó A đã lấy được ví và điện thoại của C. Như vậy nếu xem xét riêng lẻ các hành vi của A và B thì chưa đủ để CTTP này, tuy nhiên tổng hợp lại các hành vi của A và B thì đã đủ dấu hiệu CTTP Tội cướp tài sản. Tuy A không trực tiếp đánh vào C nhưng nhờ có A mà B( khơng đủ sức khỏe để đánh C) có thể đánh C và cả hai cướp được tài sản của C. Đây chính là ví dụ cho đồng thực hành.

Trường hợp thứ hai là trường hợp khơng tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm như không tự mình thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác (đâm, bắn, chém...) hoặc khơng tự mình thực hiện hành vi hủy hoại tài sản (đốt cháy, đập, phá...) mà chỉ có hành động (cố ý) tác động người khác để người này thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng họ lại khơng phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người đã tác động. Việc người đã thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự có thể vì một trong các lý do sau:

+ Họ là người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự (chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

hoặc trong tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017);

+Họ khơng có lỗi hoặc chỉ có lỗi vơ ý do sai lầm;

+ Họ được loại trừ trách nhiệm hình sự do bị cưỡng bức tinh thần.

Có thể lấy một ví dụ sau: A và B xúi C ( 13 tuổi )đốt nhà hàng xóm. Trong trường hợp này A và B là người thực hành (ở dạng thứ hai) tội huỷ hoại tài sản. C là người chưa đủ tuổi chịu TNHS, lợi dụng C , A và B đều là những người năng lực trách nhiệm hình sự (có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) đã xúi C thực hiện hành vi đốt nhà. C tuy không phải chịu TNHS cùng với A, B nhưng sẽ có thể chịu các trách nhiệm do pháp luật khác điều chỉnh.

Người thực hành là người giữ vai trò là trung tâm vụ đồng phạm. Bởi hành vi của người thực hành trực tiếp tác động đến đối tượng, gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể trực tiếp của tội phạm. Xác định người thực hành trong vụ đồng phạm có ý nghĩa trong việc định tội, quyết định hình phạt, giải quyết các vấn đề khác có liên quan đến trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm và vụ án đồng phạm.

<i><b>1.2.2 Người tổ chức.</b></i>

<i>Theo khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 "Người tổ chức là ngườichủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 17 Bộ luật hìnhsự năm 2015". Có thể hiểu một cách đơn giản cụ thể như sau: người tổ chức là</i>

người thành lập ra nhóm đồng phạm hoặc điều khiển các hoạt động của nhóm đồng phạm. Theo đó các khái niệm cụ thể được nêu trong định nghĩa trên được hiểu như sau:

-Người chủ mưu là người đề xướng chủ trương, phương hướng hoạt động của nhóm đồng phạm. Chủ mưu có thể trực tiếp điều khiển hoạt động của tổ chức nhưng cũng có thể khơng;

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Người cầm đầu là người thành lập nhóm đồng phạm hoặc tham gia vào việc soạn thảo kế hoạch, phân công, giao trách nhiệm cho đồng bọn cũng như đơn đốc, điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm;

- Người chỉ huy là người điều khiển trực tiếp của nhóm đồng phạm có vũ trang hoặc bán vũ trang.

Người tổ chức ln ln được coi là người có hành vi nguy hiểm nhất trong vụ đồng phạm. Do vậy, trong nguyên tắc xử lí được quy định ở Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy đã bị coi là loại đối tượng cần phải nghiêm trị.

Ví dụ : Trong một vụ buôn bán phụ nữ qua biên giới Tuấn có biệt danh " Tuấn mặt sẹo" đã nhận lệnh từ ông Đặng là ông trùm của việc buôn bán phụ nữ. "Tuấn mặt sẹo" đã : chia súng, dao cho đàn em của mình gồm Việt, Hưng, Nam, Lý; đưa bản đồ và phân công cho từng người một sẽ đưa những người phụ nữ này theo đường nào để có thể thốt khỏi sự truy sát của lực lượng biên phòng. Trường hợp này "Tuấn mặt sẹo" đóng vai trị là người tổ chức với vai trị người cầm đầu.

<i><b>1.2.3 Người xúi giục.</b></i>

<i>Khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 Người xúi giục là người kíchđộng, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi của người xúi giục là</i>

kích động, dụ dỗ, thúc đẩy hoặc có thể là lơi kéo, cưỡng ép, dụ dỗ, lừa phỉnh để người khác có thể thực hiện hành vi phạm tội. Các hành vi này đều có mục đích Đặc điểm chung của người xúi giục là tác động đến tư tưởng và ý chí của người khác, khiến người này phạm tội. Người xúi giục có thể là người đã nghĩ ra việc phạm tội và thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thơng qua người khác. Do vậy, có thể gọi người xúi giục là "tác giả tinh thần" của tội phạm nhưng người xúi giục cũng có thể chỉ có tác động thúc đẩy người khác thực hiện ý định phạm tội đã có. Người xúi giục cũng có thể cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng cũng có thể khơng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Chỉ có thể xác định là Người xúi giục khi đã xác định được người đó có ý định rõ ràng thúc đẩy người khác phạm tội. Như vậy là nếu trong trường hợp những người có lời nói hoặc việc làm có thể gây ảnh hưởng đến việc phạm tội của người khác nhưng khơng có ý định thúc đẩy người này phạm tội thì cũng khơng phải là người xúi giục.

Ví dụ như sau: Do có anh Nam và chị Lê có mâu thuẫn với nhau từ trước và khơng thể hịa giải với nhau được, Lê đã lên kế hoạch để đánh Nam để thỏa mãn cơn tức. Trong một lần tình cờ kể chuyện này với Hịa là bạn của chị Lê, Hịa cho biết Nam cũng vay tiền mình đã lâu và khơng chịu trả vì vậy Hịa cũng có ý định sẽ giết Nam để " gán nợ" nhưng Hịa lại khơng nói ý định này cho Lê cùng biết. Hịa đã nói với Lê rằng: " Mày cứ giết nó đi, đằng nào thì mày cũng khơng cịn gì để mất, vào tù lần một rồi thì vào tù lần hai cũng có sao đâu, đánh nhau thì có là gì, cứ giết thẳng cho nó vng và sẽ khơng ai được biết chuyện này ngồi mày và tao". Lê đã giết Nam sau đó một ngày. Như vậy có thể thấy rõ Hịa có hành vi xúi giục, kích động chị Lê để giết Nam.

<i><b>1.2.4 Người giúp sức.</b></i>

Khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện cho người thực hành để họ thực hiện tội phạm. Điều kiện giúp người thực hành thực hiện tội phạm có thể là điều kiện vật chất hoặc điều kiện tinh thần.

Trong thực tế, giúp sức về vật chất có thể là cung cấp công cụ, phương tiện hoặc khắc phục những trở ngại đối với việc thực hiện tội phạm... để tạo điều kiện cho người thực hành thực hiện tội phạm được dễ dàng, thuận lợi hơn.

Giúp sức về tinh thần là cung cấp những gì tuy khơng có tính vật chất nhưng cũng tạo cho người thực hành điều kiện thuận lợi hơn trong việc thực hiện tội phạm

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

như chỉ dẫn, góp ý cho việc chuẩn bị, việc thực hiện hoặc việc che giấu tội phạm; cung cấp tình hình nơi tội phạm được thực hiện hoặc tình hình về nạn nhân

Hành vi giúp sức có thể được thực hiện bằng hành động hoặc khơng hành động. Ví dụ về khơng hành động: thỏa thuận với người thực hành buôn lậu đi qua khu vực tuần tra, canh gác của mình sẽ khơng bị bắt giữ.

Hành vi giúp sức về tinh thần khác hành vi xúi giục trong đồng phạm ở chỗ: Hành vi xúi giục là hành vi tác động đến ý chí người khác chưa có ý định phạm tội hoặc có ý định phạm tội nhưng chưa quyết định thực hiện tội phạm, với ý thức làm cho người bị xúi giục quyết định thực hiện hành vi phạm tội. Cịn hành vi giúp sức về tinh thần khơng có ý nghĩa thúc đẩy người khác quyết định thực hiện tội phạm (người khác đã tự quyết định thực hiện tội phạm rồi) mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi, củng cố thêm quyết tâm phạm tội của người được giúp sức khi thực hiện phạm tội.

Ví dụ về người giúp sức: Hoa mượn xe của Hiền để chở lô hàng nhập lậu thuốc lá từ biên giới Trung Quốc và Hiền biết Hoa sẽ nhập lậu lô hàng thuốc lá này, nhưng vẫn cho Hoa mượn chiếc xe ô tơ tải của mình để Hoa chở lơ hàng đó về bán. Như vậy ở đây đã có sự đồng nhất về ý chí cả cả Hoa và Hiền, Hiền có đồng phạm với vai trị là người giúp sức Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm.

<b>2. Vận dụng</b>

<b>2.1 Trong vụ án trên những ai phạm tội? Phạm tội gì? Vì sao? </b>

Trong vụ án được nêu ở phần đề bài, có thể dễ dàng nhận thấy hành vi phạm tội của 3 người là Quốc, Tuấn, Hoàng. Cả ba người đều cùng phạm tội Hiếp dâm được quy định tại điều 141 BLHS 2015. Để nói cả Quốc, Tuấn, Hồng đều phạm tội Hiếp dâm có thể được phân tích như sau:

Thứ nhất Quốc, Tuấn là những người 18 tuổi và trên 18 tuổi, đề bài không cho biết thêm thông tin cá nhân nào khác của hai người này nên chúng ta có thể hiểu họ là những người có năng lực TNHS( năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự). Họ nhận thức được hành vi của

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

mình là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và thấy được hậu quả của nó, tuy nhiên họ vẫn cố ý thực hiện nó và thực hiện bằng cách bất chấp thủ đoạn " đánh ngất nạn nhân". Quốc, Tuấn thỏa mãn các điều kiện về chủ thể cho tội danh này. Về phía Hồng cũng bị coi là phạm Tội Hiếp dâm vì theo Khoản 2 Điều 12 BLHS Tuổi

<i>chịu trách nhiệm hình sự: "2 .Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu tráchnhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quyđịnh tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và304 của Bộ luật này". Tuy Hoàng chưa đủ 16 tuổi để có thể chịu TNHS cho các</i>

loại tội phạm nhưng tội Hiếp dâm là một trong những tội được coi là tội phạm rất nghiêm trọng, gì vậy Hoàng cũng bị coi là người phạm tội này và cũng phải TNHS về tội này.

Thứ hai tại khoản 1 điều 141 BLHS có nếu CTTP cơ bản của tội Hiếp dâm như sau: "Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân…". Chiếu theo khoản này vào tình huống được nêu trong bài có thể thấy: - Quốc đã đánh ngất chị Thảo sau đó cả ba người cùng đưa chị Thảo vào một chỗ vắng người, hành động " đánh " của Quốc chính là dấu hiệu cho thấy ở đây có dấu hiệu sử dụng bạo lực khơng kể Quốc có sử dụng các phương tiện gây án khác hay khơng, ngay sau đó chị Thảo đã " ngất" tức là rơi vào trạng thái hôn mê tạm thời và Chị Thảo khơng cịn nhận thức được bản thân trong quá trình bị Quốc và Tuấn thực hiện hành vi giao cấu. Như vậy ở đây đã thỏa mãn điều kiện thứ nhất là "Người nào sử dụng vũ lực…"; - Đánh ngất chị Thảo là là hành vi có tính chất cố ý làm cho Thảo ngất đi và để dễ dàng thực hiện giao cấu. Sau khi đánh ngấy chị Thảo cả ba người đã cởi đồ và giao cấu với chị Thảo trong khi chị Thảo khơng biết gì. Như vậy ở đây có thể thấy đây chính là "thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân". Từ phân tích trên có

</div>

×