Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học: Định kiến của người dân về những người đã mắc Covid-19 khi trở về cuộc sống bình thường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.86 MB, 95 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BAO CAO TONG KET

DE TAI THAM GIA XET GIAI THUONG

“SINH VIEN NGHIEN CUU KHOA HOC NAM 2022” CUA TRUONG DAI HOC LUAT HA NOI

DINH KIEN CUA NGUOI DAN VE NHUNG NGUOI DA MAC COVID - 19 KHI TRO VE CUOC

SONG BINH THUONG

<small>Thuộc nhóm ngành khoa hoc: XH</small>

NAM 2022

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

DANH MỤC BẢNG BIÊU

i92... ... | 1. Tính cấp thiết của đề tài...--¿-¿- - SE SE 23212151211111111111111 1111111111111 eLk. |

<small>2. Tinh hinh nghién 09:40 V NNaẠỤaddŸỶŸ3ÝÝỒẢỒỀŸỀẼỀẼ... 33. Co sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu... << «<< ss+++> es +</small>

4. Đối tượng và phạm vi nghiên CỨu...---- - + + StSESE+E2E#EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEErrrrrrkee 5 4.1. Đối tượng nghiên cỨu...--¿-¿- + SE EEEEEEE11115151131111111111111 111111111116 5

<small>6V A0 ¿0i40 2032 0... 55. Mục đích và nhiệm vụ nghiÊn CỨU...-- 1111111138133 33555511 1111 1xx es 6</small>

<small>xố: TOUT WY, HSS, Cac mas nan mus nhìn thất HH phú OH RR EU ROG AAT GIAN SS Re TG oe eee TH 6</small>

6. Y nghia khoa hoc va thuc 0... 6 7. Bố cục dé tài nghiên cứu ...--- - SE SSx13112151E1111111111111111111111111 111k. 6

<small>II DU, EUR DỊ LCT eae tuoi bang ween sce ee sees etn sss ss uns oe swe es 2141.1586 a ae Le tr 8</small>

CHUONG I1. MỘT SO VAN DE LÝ LUẬN VE ĐỊNH KIÊN CUA NGƯỜI DAN VE NHUNG NGƯỜI DA MAC COVID - 19 KHI TRO VE CUOC SONG BÌNH THUONG

1.1. Khái niệm định kiến o..ceececcceccccscseceescsesecscscsscscscsessesesesscecsvssssesessssssesseeseeeeseeeess 8 1.2. Khái niệm người mắc COVID — 19 va đặc điểm tâm lý của họ... ee 11 1.2.1 Khái niệm người mắc COVID — 19... ¿2S SE+x*E2EEEEEEEEEEEEEEEEEEEErtreb 11 1.2.2. Đặc điểm tâm ly của người mắc COVID — 19...-- ¿c2 s+s+s+szxzrerse 12 1.3. Định kiến của người dân về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sơng bình thƯỜng...---- ¿5+ 2 22+52E2E+E9E£EEEEEEEE212121515111511211121111111115 11101111101 1n ts 13

1.3.1 Khái niệm định kiến về những đã người mac COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường... - -- ¿+ + + 191215121515151 1151 1111111 11111111111111111 1110111111111 ee 13 1.3.2. Các biểu hiện của định kiến của người dân về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường,... eee + 2 2+2+E+E+E+E+E£EEE+E+E+E+EeErrersrees .14 1.3.3. Những yếu tô ảnh hưởng đến định kiến của người dân về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường ...--- 2 2-2s+s+s+szs+2 17

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

1.3.3.2. Ảnh hưởng từ truyền thông... ¿+ ¿+2 E+E+E#ESEEEEEEEEEEEEEEEEEErrkrkred 19 1.3.3.3. Anh hưởng của sự tiếp xúc xã hội...-- - + 2 2 S2+2+E2E+E+EeEeEerrsrkred 20 1.4. Tác động của định kiến của người dân về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường ...--¿-¿- + + E+E#EEEEEEEE2E215EEEE1111121211111 111 te, 20 1.4.1. Về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường ...21 1.4.2. Về những người đang mắc COVID — 19 ...- -c+c+c+EeEErEzkzErreree 21

TIEU KET CHUONG 52 Xa iiãi +21 22 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐỊNH KIÊN CỦA NGƯỜI DÂN HÀ NỘI VỀ NHỮNG NGƯỜI DA MAC COVID - 19 KHI TRO VE CUỘC SONG BINH THƯỜNG

2.1. Tổ chức va phương pháp nghiên cứu ...--¿-¿- + +s+E+E£E£EEEE+E+E+EeEerererees 23 2.1.1. Tổ chức nghiên cứu...---- - + Sẻ SSESE2E2E9EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEErkrkrkei 23

<small>2.1.2. Phương pháp nghiÊn CU ... .--- + 2211111111111 1 111 rrre 25</small>

2.2. Thực trạng định kiến của người dân Hà Nội đối với người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường...¿- - + St SE SE2E2EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEErkrrrrkeo 26 2.2.1. Đánh giá chung về thực trạng định kiến của người dân Hà Nội đối với người đã mac COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường... .-- ¿+ 2s+s+s+<zS+2 26 2.2.2. Các mặt biểu hiện cụ thé của định kiến về những người mắc COVID - khi trở về cuộc sống bình thường ...- - ¿+ + k+E+E+E*EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEETkrkrkrrei 28 2.2.2.1. Biểu hiện chung của định kiến về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường ...--- + + 2S +E+E+E+E+E£E£EEEEEEEEEEEEEErrerrkrerkred 28 2.2.2.2. Định kiến của người dân Hà Nội về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường thể hiện ở mặt nhận thức ...---- 30 2.2.2.3. Định kiến của người dân Hà Nội về những người đã người mắc COVID -19 khi trở về cuộc sơng bình thường thé hiện ở mặt cảm xúc ...-- 36 2.2.2.4. Định kiến của người dân Hà Nội về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường thể hiện ở mặt hành vi...----2-5-5-5- 39 2.2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến định kiến của người dân Hà Nội về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường... 43

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.2.3.2. Yếu tố nhận thức ...---- ¿2 + SE+E£E£EE2E2EEE12121E112121211212111 212111 xe 46 2.2.3.3. Các yếu tố khác ...--¿- ¿s1 1111151 1212121112121111111111111111 111k. 47 2.2.4. Ảnh hưởng của định kiến xã hội hội về những người mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường...-- - + + + SE SESE2E2E9EEEEEEEEEEEE2121515111111111111 1111 xe. 49 TIỂU KET CHƯNG 2 ... - - 2 + SE2E9EEEE2E9EEE2E2151121211121212111212111111211 1111 Xe 51 CHƯƠNG 3. KIEN NGHỊ MOT SO GIẢI PHÁP NHẰM HAN CHE ĐỊNH KIÊN CUA NGƯỜI DAN VE NHỮNG NGƯỜI ĐÃ MAC COVID - 19 KHI TRO VE CUOC

SĨNG BÌNH THƯỜNG

<small>3.1. Tính cân thiệt cân có kiên nghị nhăm hạn chê định kiên của người dân vê những</small>

người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sơng bình thường ...- - s5: 52 3.2. Một số kiến nghị nhằm hạn chế định kiến của người dân về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường...- ¿2 22s x+x+xzxz£zree: 53

3.2.1. Đây mạnh vai trị của truyền thơng trong cơng cuộc chống lai định kiến xã

<small>ee HX3 tớ HE Hi Kuải i3 k4 Hó 618. 615%./245,2031, 2408 24%. 0898 6% 24G xiên 215%: Sixg:106:Đ 33</small>

3.2.1.1. Điều chỉnh ngôn ngữ phù hop khi đăng tai các thông tin về dịch bệnh

<small>0940095... €5... 53</small>

3.2.1.2. Cung cấp thơng tin đầy đủ chính xác dé người dân có thé nắm rõ... 56 3.2.1.3. Truyền tải các thông điệp ý nghĩa...- ¿52c SE+E£EeEeEeErrkrkrkd 57

<small>3.2.2.Nâng cao nhận thức của người dân... << c c1 1333333333 555xerrses 59</small>

3.3.3. Kết hợp phổ biến rộng rãi chế tài, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm va nâng cao vai trị quan lý của chính quyền địa phương...-- cesses 60 I)I208.90921019) c6... ... 63 KET LUẬN... G11 SE 11111 1E 111111111 11111 HT T ng rếc 64 DANH MỤC TAI LIEU THAM KHẢO...- 2-5252 +E£EE+E+E£EEEE£ESEEEEEE+EeErxrkrrees 66

<small>PHU LLỤC...-- -- G1 119201119111 9g ng Họ ki 69</small>

PHU LUC 1. PHIEU KHAO SAT 01. ... 69 PHU LUC 2. BAO CAO DANH GIA KHAO SAT (PHUC VU NGHIEN CUU DE TAI)

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>Bang 2.1Đặc điêm cua mau nghiên cứu25</small>

<small>Bang 2.2</small>

Ty lệ người cho biết đã từng định kiên về người mắc COVID- 19 khi trở về cuộc sống bình thường (đơn vị: %)

<small>Bang 2.3</small>

<small>Quan điêm vé khai niệm định kiên của người dân vêngười mac COVID - 19 khi trở vê cuộc sơng bìnhthường</small>

<small>xã hội về người mac đã COVID — 19 khi trở về (đơn vị:</small>

<small>Bảng 2.5</small> Định kiên về những người đã người mac COVID - 19 khi

<small>trở vê cuộc sơng bình thường thê hiện ở mặt nhận thức(đơn vị: %)</small>

<small>Bảng 2.6</small> Định kiến về những người đã người mắc COVID- 19 khi

<small>trở về cuộc sơng bình thường thê hiện ở mặt cảm xúc(đơn vị: %)</small>

<small>Bảng 2.7</small> Định kiến về những người đã người mắc COVID- 19 khi

<small>trở vê cuộc sơng bình thường thê hiện ở mặt hành vi (đơnVỊ: %)</small>

<small>Bang 2.8</small> Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yêu tô sau đây dén

<small>các hành vi định kiện vê những người đã mac COVID —19 khi trở vê cuộc sơng bình thường (đơn vị: %)</small>

<small>Bảng 2.9</small> Đánh giá mức độ cân thiết bảo vệ sức khỏe tâm than về

<small>những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sốngbình thường (đơn vị: %)</small>

<small>Bang 2.10</small> <sup>Quan diém danh gia cua nguoi dan về những anh hưởng</sup><sub>từ định kiến về những người đã mắc COVID — 19 trở về</sub> <small>cuộc song bình thường (đơn vị: %)</small>

<small>50</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài

Tác giả tiêu thuyết trinh thám nỗi tiếng của Nhật Bản là Higashino Keigo từng nói: "Trên thé giới này có duy nhất hai thứ khơng thể nhìn trực tiếp: Một là mặt trời, và hai là nhân tâm". Không muốn nhìn người khác sống tốt hơn mình, khác biệt với mình chính là một trong những tội ác lớn nhất của bản chất con người. Nhiều người quên đi giá trị cốt lõi bên trong của một con người mà có những thói xấu định kiến. Nếu chỉ là lời nói của một người, một vài người thì dù lời nói có sâu sắc đến mấy câu rồi cũng sẽ qua. Song nếu vẫn là là lời nói đó nhưng của nhiều người của đông đảo người trong xã hội thì nó sẽ trở thành định kiến. Đã là định kiến thì ắt có sự tác động đến đối tượng. Cụ thé về con người, những định kiến xã hội ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lý, tác động theo hướng tiêu cực, gây đến những tôn thương về tinh thần. Sự tác động của những định kiến xã hội đó trở nên lớn hơn về những người mắc bệnh COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường

Đầu năm 2020, khi dịch bệnh COVID - 19 bắt đầu phổ biến ở Việt Nam, những thông tin ở thời điểm đó ln cập nhật về đại dịch này, đặc biệt ở Hà Nội — thành phó, trung tâm của cả nước với tình hình dịch bệnh diễn biến hết sức phức tạp. Ở Việt Nam có cho đến hiện nay đã có tổng số hơn 6,55 triệu ca mắc COVID - 19, riêng Hà Nội đứng đầu cả nước về số ca mắc với hơn 800 nghìn tổng số ca mắc. Những nguy cơ những tác hại của đại dịch này gây nên nỗi sợ nỗi lo lắng cho tất cả mọi người. Về những người không may mắc phải bệnh dịch này, sau khi trải qua quá trình điều trị, họ khỏe mạnh được trở về nhà, về lại cuộc sống ban dau. Nối tiếp những lo lắng, người dân cho rằng ho vẫn là những đối tượng có khả năng lây bệnh, họ định kiến về những người này, có thái độ xa lánh, khác thường so với bình thường trước khi có dịch. Những người mac bệnh COVID - 19 đã phải trải qua quá trình khó khăn dé điều trị, sức khỏe thé chất của họ đã bị ton hại khơng ít, khi được trở lại cuộc sống bình thường là lúc họ được có điều kiện để hồi phục sức khỏe được sống cuộc sống bình thường. Thế nhưng do những định kiến xã hội về họ mà họ cịn có áp lực hơn khi trở về cuộc sơng bình thường, những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến tâm lý của những người nói trên. Mỗi ngày số ca mắc tăng lên, số người khỏi bệnh và trở về cuộc sống bình thường cũng tăng theo, tương ứng với đó những định kiến xã hội về những người mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường cũng

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

tăng nhiều lên đáng kể. Và sự ảnh hưởng của những định kiến trên cịn gây khó khăn cho q trình cơng tác chống dịch bệnh.

<small>Do những tác động của dịch bệnh COVID - 19 mà chúng ta ngày càng quan tâm</small>

hơn đến van dé sức khỏe, nhưng một van đề mọi người ít quan tâm đến chính là tâm lý, sức khỏe tinh thần của con người, đó là nội dung cần được đặc biệt quan tâm, chú trọng. Trong thời kỳ đại dịch, những con số thống kê về số ca nhiễm, số người tử vong, những ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội, nhiệm vụ trọng tâm hiện tại là ứng phó chống dịch, khôi phục nền kinh tế, thực hiện các biện pháp an sinh xã hội. Vì sức khỏe thé chất đặt ra cấp bach hơn bao giờ hết, nên van dé ảnh hưởng của những định kiến xã hội lên tâm lý con người bị bỏ lại phía sau. Vấn đề được nêu ra chỉ mới mang tính phê phán trên báo đài, mạng xã hội còn chưa được đặt cấp thiết cần giải quyết của vấn đề.

Không chỉ tác động đến sức khỏe tinh thần, định kiến xã hội về những người mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường cịn gây cản trở mạnh mẽ đến công tác chống dịch trong bối cảnh cả nước tập trung phòng chống dịch bệnh mạnh mẽ quyết liệt. Vì định kiến trên ít người chủ động tìm kiếm chăm sóc y tế hoặc xét nghiệm hơn, ít người tuân thủ các biện pháp can thiệp hơn. Điều này có thể dẫn đến việc bỏ sót người mắc bệnh, gia tăng số người tiếp xúc với người mắc bệnh, khiến cho việc xử lý dịch bùng phát

<small>càng trở nên khó khăn</small>

Với những lí do trên, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn đề tài “Định kiến của người dân về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường” làm đề tài nghiên cứu khoa học năm 2022 của mình. Bài viết sẽ nghiên cứu về các vấn đề lý luận của định kiến xã hội, những biểu hiện nhận thức, thái độ, hành vi của người dân và tác động của định kiến về con người trong các mối quan hệ xã hội, phân tích thực tiễn tác động của những định kiến xã hội về những người mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường, tìm ra những nguyên nhân từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết

<small>vân đê.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

2.1. Nghiên cứu về định kiến liên quan đến dai dịch COVID - 19-19

Định kiến liên quan đến đại dịch COVID - 19 đã được nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập dưới các góc độ khác nhau với các đối tượng nghiên cứu khác nhau. Dưới đây là một số nghiên cứu mà nhóm nghiên cứu đã tiếp cận được:

Tác phẩm Stigmatization and prejudice during the COVID - 19 pandemic của nhóm tác giả Katherine J. Roberto, Andrew F. Johnson, Beth M. Rauhaus đã nghiên cứu tổng quan về định kiến trong đại dịch COVID - 19. Nghiên cứu chi ra bệnh tật là một đặc điểm kỳ thị và do CO VID - 19 là bệnh có thé khơng có triệu chứng, không dé dàng nhận thấy ai là người bị bệnh nên các cá nhân trong xã hội nhận định những đặc điểm khác không liên quan đến sức khỏe dé xác định người mang mầm bệnh tiềm ẩn. Do vậy, ngoài bệnh nhân COVID - 19 phải đối mặt với sự kỳ thị, thì xã hội cũng xuất hiện định kiến về người gốc A về nguồn gốc lây lan dịch bệnh [17].

Trong tác phẩm The ‘othering’ in pandemics: Prejudice and orientalism in COVID

<small>-19, cac tac gia Debanjan Banerjee, Roy Abraham Kallivayalil, TS Sathyanarayana Rao</small>

chỉ ra những định kiến xã hội phố biến trong đợt bùng phat dịch bệnh giữa năm 2020. Do là các định kiến chống châu Á, bài ngoại và định kiến, kỳ thị dịch bệnh tại các nước có

<small>chính trị - xã hội phức tạp [14].</small>

Tác phẩm COVID — 19 - related prejudice toward Asian medical students: A

<small>consequence of SARS-CoV-2 fears in Poland cua hai tac gia Piotr Rzymski va Michat</small>

Nowicki khang định sinh viên y khoa chau A ở Ba Lan có thé đã trải qua một mức độ định kiến trong các không gian cơng cộng dù khu vực đó chưa bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Từ đó, các tác giả đưa ra khuyến nghị các trường đại học cần chủ động xây dựng

chính sách hé trợ sinh viên, giảng viên và nhân viên bị ảnh hưởng bởi hành vi phân biệt

<small>trong thời gian bùng phát dịch bệnh [20].</small>

Tác giả Stefano Passini với tác phẩm Concerns over COVID - 19 and prejudice: Pre- and during-pandemic in Italy đã đưa ra nhận định rằng càng nhiều lo ngại về COVID - 19 thì thái độ định kiến với người nhập cư cảng cao. Họ đồ lỗi cho tình trạng dịch bệnh mà họ đang phải trải qua cho người nhập cư bởi cảm giác thù địch với thiêu số trong bối cảnh đất nước đoàn kết nội bộ [21].

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

2.2. Nghiên cứu về định kiến về người mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình

Theo hiểu biết của nhóm nghiên cứu, hiện nay van đề định kiến về người mac COVID - 19 đã khỏi bệnh chủ yếu được nêu các phương tiện thong tin đại chúng, chưa có nghiên cứu chính thức về vấn đề này. Nhiều thực trạng của vấn đề được chỉ ra cùng với biểu hiện xa lánh, phân biệt đối xử của các cá nhân trong xã hội khi tiếp xúc, gặp gỡ, làm việc với những người đã khỏi bệnh ở nhiều không gian khác nhau.

<small>3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu3.1. Phương pháp luận nghiên cứu</small>

Nghiên cứu được tiến hành dựa trên một số phương pháp luận cơ bản sau:

Nguyên tắc thong nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động: Định kién được hình thành từ thực tiễn cuộc sống là có những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường họ tham gia vào các quan hệ xã hội. Từ đó, tâm lý của họ cũng như định kiến xã hội về họ biéu hiện trong sự thống nhất với các quan hệ xã hội. Dé hiểu đúng định kiến xã hội và giải thích nó, cần thiết phải coi nó như sản phẩm của sự phát triển và kết quả hoạt động của người đã từng mắc COVID- 19 khi tham gia vào các quan hệ xã hội trong cuộc song bình thường. Điều này có nghĩa là, phải tìm hiểu nguyên nhân cũng như tìm giải pháp làm giảm thiểu, xóa bỏ định kiến xã hội trong cuộc sống bình thường của những người đã từng mắc COVID - 19.

Nguyên tắc thong nhất giữa cá nhân và xã hội: Nguyên tắc này đã nói lên rằng, định kiến xã hội của cá nhân ln hình thành gắn với quan điểm, tư tưởng đang thịnh hành trong xã hội. Như vậy, việc xem xét khuôn mẫu, lối suy nghĩ và hành động của xã hội có thé giúp hiểu được định kiến xã hội ở mỗi cá nhân.

Nguyên tắc về sự phát triển tâm ly: Giỗng như quy luật chung của mọi sự vật, hiện

<small>tượng trong hiện thực khách quan, các hiện tượng tâm lý cũng có một quá trình nảy sinh,</small>

hình thành và phát triển. Định kiến về những người mắc COVID - 19 khi quay trở về cuộc sơng bình thường thực chất đều nảy sinh từ q trình tiếp xúc giữa các nhóm, từ việc con người nhận thức trong quá trình hoạt động. Vì thế, không thé xem định kiến về những đã người mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường có tính cơ định, bất biến mà

<small>cân nhìn nhận chúng trong sự vận động và phát triên của xã hội theo thời gian.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>3.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu</small>

3.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu được sử dụng trong quá trình khảo sát nghiên cứu đề tài.

3.2.3. Phương pháp tông hợp, quy nạp được sử dụng chủ yếu trong việc đưa ra những tiểu kết của từng chương và kết luận chung của đề tài nghiên cứu.

3.2.4. Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu bang thống kê toán học dé đưa ra kết

<small>quả chính xác phục vụ mục đích nghiên cứu.</small>

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối twong nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận về định kiến xã hội, định kiến về những người mắc đã COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường, đánh giá các biểu hiện và mức độ định kiến của người dân Hà Nội về những người đã mặc COVID -19 khi trở về cuộc sống bình thường. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra một số khuyến nghị nhằm hạn chế mức độ định kiến cũng như giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của định kiến về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường.

<small>4.2. Pham vi nghiên cứu</small>

Pham vi về nội dung nghiên cứu: Mặc dù định kién về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng trong đề tài này, chỉ tập trung nghiên cứu dưới ba khía cạnh chủ yếu là: Khn mẫu, niềm tin tiêu cực và phản ứng cảm xúc. Đồng thời, đề tài cũng tìm hiểu và phân tích mức độ ảnh hưởng từ sự hiểu biết của mỗi người, ảnh hưởng từ truyền thông và ảnh hưởng của sự tiếp xúc xã hội về định kiến với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường.

Phạm vi về khách thể và địa bàn nghiên cứu: Đề tài lựa chọn khảo sát về những người dân mọi lứa tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội (bao gồm nội thành và ngoại thành). Bởi Thành phố Hà Nội là nơi tập trung rất nhiều người thuộc nhiều dân tộc, vùng

miễn, nghề nghiệp, độ tuổi, trình độ khác nhau và là nơi chịu ảnh hưởng rất lớn trong các

dot dịch bệnh COVID - 19. Khi tiến hành khảo sát có thé dé dang so sánh mức độ định

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

kiến về những người mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường ở nhiều lứa tuổi

<small>khác nhau, trình độ khác nhau; giữa người dân nội thành và ngoại thành.5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</small>

<small>5.1. Mục dich nghiên cứu</small>

Nghiên cứu lý luận, thực trạng, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến định kiến của người dân về người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của những định kiến này.

<small>5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu</small>

Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến định kiến của người dân về người đã mắc COVID - 19.

Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng và các yếu t6 ảnh hưởng đến định kiến của người dân Hà Nội về người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường.

Đưa ra một số kiến nghị nhằm giảm tác động tiêu cực của định kiến này. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Với tính chất là đề tài đầu tiên thực hiện nghiên cứu trực tiếp và chuyên sâu về vấn dé tâm lý học trong van đề định kiến xã hội về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sơng bình thường, việc thực hiện đề tài trước có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu sâu, làm rõ các vấn đề về tâm lý học về định kiến xã hội.

Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đóng góp cơ sở lý luận và thực tiễn

<small>quan trọng trong việc phòng ngừa, ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực từ những định</small>

kiến xã hội về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường. Đặc biệt trong bối cảnh chúng ta vẫn đang trong quá trình tăng cường chống dịch, nghiên cứu van dé này có ý nghĩa vai trị hết sức quan trọng; qua đó nâng cao ý thức của cộng đồng và trách nhiệm của xã hội trong việc giảm thiểu những định kiến tiêu cực ảnh hưởng đến <small>người khác.</small>

7. Cau trúc của dé tài

Đề tài được kết câu bao gồm các Chương:

Chương l1. Một số van đề lý luận về định kiến của người dân về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sơng bình thường

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Chương 2. Thực tiễn định kiến của người dân hà nội về những người đã mắc COVID - khi trở về cuộc sống bình thường

Chương 3. Kiến nghị một số giải pháp nhằm hạn chế định kiến của người dân về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<small>NOI DUNG</small>

CHUONG 1. MOT SO VAN DE LY LUAN VE DINH KIEN CUA NGUOI DAN

VE NHỮNG NGƯỜI DA MAC COVID - 19 KHI TRO VE CUOC SONG BINH THUONG

1.1. Khai niém dinh kién

Định kiến là một khái niệm cơ bản của Tâm lý học xã hội, nó được thể hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống mà chúng ta dé dàng bắt gặp như: Định kiến giới, định kiến dân tộc, định kiến đối với người đồng tính, định kiến đối với những người nhiễm HIV/AIDS... Nhiều cơng trình nghiên cứu của tác giả trong nước và nước ngoài đã đề cập đến các góc nhìn, các quan điểm và định hướng khác nhau đối với định kiến.

Theo từ điển Xã hội học Oxford, định kiến là ý kiến hay là thiên vị tiền quan niệm, chống lại hay ủng hộ một người hay một sự vật, sự việc [5]. Theo định nghĩa này, định kiến xuất hiện và tồn tại đưới dạng ý kiến hoặc nhận định thiên vị trước khi có quan niệm về một người, một sự vật, một sự việc. Định kiến có thé biểu hiện ra bên ngồi hoặc khơng, nhưng tác động đến nhận thức, ứng xử đối với một người, một sự vật, một sự việc, có thé là phản đối, chống đối hoặc tán thành, giúp đỡ.

Theo Godefroid, định kiến là sự phán xét “tốt” hay “xấu” của chúng ta đối với người khác, ngay trước cả khi ta biết rõ hoặc biết được lý do hành động của họ. Quan điểm này cũng nhận định định kiến là ý kiến hướng tới đánh giá người khác, trước khi nắm bắt và hiểu được động cơ hành động họ.

Theo J.P.Chaplin, định kiến là thái độ có thể tích cực hoặc tiêu cực được hình thành trên cơ sở của yếu tố cảm xúc. Là niềm tin hoặc cách nhìn thường là khơng thân thiện cảm dẫn đến cho chủ thể một cách nghĩ hoặc cách ứng xử tương tự với người khác. Cách tiếp cận này cho rằng định kiến là thái độ xuất phát từ niềm tin, ý nghĩ của một người và chi phối suy nghĩ, hành động của chính họ. Sự chi phối này khiến họ suy nghĩ, hành động giống người người khác.

Trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thì định kiến được định nghĩa là: "Định kiến là ý nghĩ riêng đã có sẵn, khó có thê thay đổi được". Định kiến có lúc còn được gọi với cái tên khác là thành kiến hay thiên kiến.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Từ điển Tâm lý học đưa ra khái niệm định kiến là thái độ có tính tiêu cực đối với một cá nhân, một nhóm xã hội hay một vấn đề nào đó [12]. Định nghĩa này nhận định định kiến mang tính tiêu cực được thê hiện thông qua thái độ của người mang định kiến.

<small>Thái độ tiêu cực này không chỉ giới hạn là thái độ của một người với một người, một hiện</small>

tượng khác mà còn là thái độ của một người với một nhóm người, một vẫn đề trong xã

Theo Rosenberg, định kiến xã hội là một định hướng được tiếp thụ có mục đích thiết lập một sự phân biệt xã hội [8]. Quan điểm này nhận định người mang định kiến tiếp nhận định kiến với mục đích phân biệt xã hội. Thơng qua định kiến, các nhóm được phân loại theo hướng tách biệt với nhau, mà định kiến như là một căn cứ dé nhận biết.

Tác giả Trần Thị Minh Đức trong "Định kiến và phân biệt đối xử theo giới- Lý thuyết và thực tiễn" đưa ra khái niệm như sau: "Định kiến được hiểu là những thái độ tiêu cực khơng có cơ sở chắc chan, tập hợp các quan niệm, ý kiến, niềm tin hoặc biểu tượng có tính rập khn và đơn giản hố q mức về những đặc điểm bề ngồi, thái độ và hành vi ứng xử xã hội, những ấn tượng xấu... về một nhóm người nào đó tuỳ theo sự quy thuộc xã hội riêng của họ" [9]. Căn cứ vào khái niệm này, có thê thấy tác giả cho rằng định kiến là thái độ xã hội mang tính tiêu cực, khơng có cơ sở chắc chắn. Định kiến hình thành do trong quá trình nhận thức con người thường có xu hướng khái quát, đơn giản hố về các đặc điểm bên ngồi, thái độ và hành vi ứng xử xã hội đối với một nhóm người nào đó. Định kiến xã hội bao gồm ba thành tổ cơ bản là: nhận thức, xúc cảm, hành vi.

Theo Đồng Thị Yến, định kiến là thái độ tiêu cực của cá nhân hoặc nhóm xã hội dựa trên niềm tin cho rằng tất cả các thành viên của một nhóm cu thé khác được phân loại với những đặc điểm tiêu cực giống nhau [4]. Quan niệm này ngồi nhận định tính tiêu cực của định kiến, quan niệm còn cho rằng định kiến xuất phát từ niềm tin có thể phân loại các nhóm người và dựa trên những đặc điểm có tương đồng của một số người.

Trong Từ điển Tâm lý học do tác giả Vũ Dũng (Chủ biên) năm 2000, định kiến được hiểu như sau: "Định kiến xã hội là quan niệm đơn giản, máy móc, thường khơng đúng sự thật thé hiện trong lĩnh vực nhận thức hàng ngày về một khách thé xã hội nào đó (một nhóm, một con người thuộc cộng đồng xã hội nào đó...)"[12]. Khái niệm này cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

thấy định kiến là quan niệm đơn giản, máy móc, thường khơng đúng sự thật của con người về một khách thể xã hội nào đó, định kiến xã hội thuộc lĩnh vực nhận thức xã hội.

Như vậy, mặc dù có khá nhiều khái niệm khác nhau về định kiến, song có thể thấy các nhà tâm lý học trong và ngoài nước tiếp cận vấn đề này theo hai xu hướng: Xu hướng thứ nhất cho rằng định kiến là một dạng thái độ xã hội, là thái độ tiêu cực, bất hợp lý đối với người khác dựa trên những nhận thức thiếu căn cứ, phiến diện và một chiều của chủ thé mang dinh kiến. Xu hướng thứ hai, xem xét định kiến là những nhận định đơn giản,

<small>máy móc, khơng có căn cứ xác đáng và thường khơng chính xác của con người được hình</small>

thành trong đời sống đối với khách thê nao đó.

Tiếp thu và lĩnh hội các quan điểm của các nhà khoa học, chúng tôi xin đưa ra khái niệm định kiến như sau: Định kiến là thái độ đánh giá sai lệch của một người đối với một người khác, một nhóm người khác, sự vật, sự việc dựa trên niềm tin tương đối vững chắc về sự đúng dan, hợp lý của chủ thé mang định kiến. Định kiến xã hội bao gém ba thành tổ

<small>cơ bản là: nhận thức, xúc cảm, hành vi.</small>

Định kiến có hai đặc điểm chính, đó là phần lớn định kiến mang tính tiêu cực và định kiến là công cụ để sắp xếp, phân loại đối tượng được đề cập trong định kiến thơng qua những đặc điểm của đối tượng đó mà người mang định kiến biết được.

Tính tiêu cực của định kiến được thê hiện thông qua thái độ đánh giá, phán xét trước khi có đủ thơng tin về đối tượng. Từ đó, dẫn đến số đơng người phản ứng chống lại, phản đối, chỉ trích thiếu căn cứ với người khác hay sự vật, hiện tượng nhất định.

Thông qua định kiến, người ta phân loại một người, một sự vật, sự việc vào một

nhóm nào đó với những nét tương đồng về đặc điểm. Theo Bernard E.Whitley Jr và Mary E.Kite, định kiến mang tính rập khn thể hiện ở việc con người luôn cô găng khiến mọi thứ phù hợp với một quy chuẩn đơn giản. [4]. Trước khi có định kiến đối với một người khác, sự vật, sự việc, một người có thể đã được tiếp cận trực tiếp hoặc gián tiếp VỚI Các đối tượng. Từ đó, nhận thức được những đặc tính, đặc điểm nhất định, cho phép chủ thê

<small>tin tưởng vào những nhận định của mình là chính xác.</small>

Định kiến xã hội được hình thành trong quá trình sống và hoạt động của cộng đồng xã hội. Định kiến xã hội được bắt nguồn từ những định khuôn tiêu cực của chủ thé đối với

<small>khách thé nao đó, từ đó gây ra các cảm xúc âm tinh và chi phôi xu hướng hành vi, cách</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội (thể hiện ở sự kì thị cả cơng khai cũng như ngâm ngầm với người bị định kiến). Vì thế, nếu tăng cường sự hiểu biết của chủ thê đối với khách thể bằng việc tăng cường giao tiếp, tiếp xúc trực tiếp cộng với việc cung cấp các thông tin chính xác, khách quan về khách thé sẽ giúp giảm định kiến xã hội. Ban chất của định kiến chính là sự nhận thức mang tính tiêu cực dẫn đến những ấn tượng không tốt va được biểu hiện ra bên ngoài qua xu hướng hành vi phân biệt đối xử đối với người bị định kiến. Nhận thức ở đây bao gồm niềm tin và sự trông đợi đối với thành viên những nhóm đó cộng với phương thức xử lý, lưu giữ và gợi nhớ những thông tin về họ. Bên cạnh đó, định kiến cịn bao gồm yếu tố hành vi là xu hướng hành động tiêu cực hoặc dự định hành động tiêu cực đối với những nhóm là đối tượng của định kiến.

1.2. Khái niệm người mắc COVID-19 và một số đặc điểm tâm lý đặc trưng 1.2.1. Khái niệm người mắc COVID-19

Đại dịch COVID - 19 là một đại dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm với tác nhân gây bệnh là virus corona, đang diễn ra vơ cùng phức tạp trên phạm vi tồn cầu. Khởi nguồn từ cuối năm 2019 cho đến nay dịch bệnh COVID - 19 với nhiều biến thể mới ngày càng nguy hiểm, đã cho thấy sự ảnh hưởng nghiêm trọng đối với mỗi con người, mỗi quốc gia và toàn thé giới. Kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng, các nền kinh tế dù lớn mạnh như Mỹ, EU.... cũng dé dàng bị COVID - 19 “đánh gục”; cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của mỗi người dân dường như bị đảo lộn với những thiệt hại lớn về kinh tế - xã hội và gánh nặng bệnh tật. Mỗi ngày số người mắc bệnh COVID - 19 ngày một gia tăng, vượt qua những dự báo của Té chức Y tế Thế giới (WHO).

Dưới góc độ y học, những người mắc bệnh COVID - 19 là những người có một loạt các triệu chứng như: sốt, ho, đau đầu, mất vị giác,... mức độ từ nhẹ đến bệnh nghiêm trọng. Các triệu chứng có thé xuất hiện 2-14 ngày sau khi phơi nhiễm với virus. Bat cứ ai cũng có thé mắc phải, đặc biệt là những người có sức dé kháng yếu và có bệnh nền .

Bên cạnh đó, những người mắc COVID - 19 còn được gọi là F0 với những tiêu chí xác định được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Bộ Y tế Việt Nam đưa ra như: Là người có kết quả xét nghiệm dương tính với virus SARS-CoV-2 bằng phương pháp phát hiện vật liệu di truyền của virus (PCR) hay là người tiếp xúc gần (F1) và có kết quả xét nghiệm nhanh kháng nguyên dương tinh với virus SARS-CoV-2, là người có biểu hiện lâm sang

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

nghi mắc COVID-19 (ca bệnh nghi ngờ và có kết quả xét nghiệm nhanh kháng ngun dương tính với vi rút SARS-CoV-2 và có u tô dịch tễ (không bao gồm FI)... Từ đây, nhận thấy rằng khi có đầy đủ các điều kiện mới nêu trên mới được coi là người mắc dịch bệnh COVID - 19 và sẽ được tiến hành cách ly điều trị theo đúng quy định [6].

Hiện nay, Việt Nam và các quốc gia trên thế giới đều phải gánh chịu những ảnh hưởng nặng né từ đại dich COVID - 19. Song song với những thiệt hại về kinh tế - xã hội đại dich còn là tác nhân nghiêm trọng gây tôn thương tâm lý và sức khỏe tinh thần con người. Người dân ở hầu hết các châu lục đã và đang trải qua tâm trạng bất an, lo âu, căng thang trước sự lây lan nhanh cua các biến chủng mới, do bị mất việc làm, thu nhập giảm sút, bị cách ly, xét nghiệm, nhập viện. Nguy cơ rỗi loạn thần kinh như trầm cảm, lo lắng, hoang mang, rơi vào trạng thái khủng hoảng gia tăng khi tình hình dịch bệnh, phong tỏa và giãn cách xã hội kéo dai [2]. Có thé khang định răng, khơng chỉ những người dân bình thường mà cả những người mắc COVID - 19 đều có những đặc điểm tâm lý tiêu cực, ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống của mỗi người.

1.2.2. Đặc điểm tâm lý của người mắc COVID-19

Tâm lý người mắc COVID-19 bị ảnh hưởng kê từ thời điểm họ được xác nhận mình dương tính với SAR-CoV-2. Tất cả bệnh nhân đều gặp khó khăn trong việc thích nghỉ với sự thay đổi vai trò giữa người khỏe mạnh và bệnh nhân, và trạng thái đau khổ tâm lý do COVID-19 gây ra cho những người sống sót là phổ biến và dai dang [16].

Phản ứng của người mắc COVID-19 có sự thay đổi theo thời gian. Sự thay đổi thái độ của bệnh nhân từ sự không chắc chắn về căn bệnh cũng như kỳ vọng và nghi ngờ về việc khám bệnh dẫn đến sự đối đầu và chấp nhận sau khi chân đốn, cuỗi cùng dẫn đến lịng biết ơn đối với trải nghiệm phản ánh q trình thích nghi dần dần của bệnh nhân [19]. Ban đầu, họ cảm thấy sốc, hồi nghi, thậm chí phủ nhận kết quả xét nghiệm và bắt đầu lo ngại, sợ hãi cho sức khỏe của mình, cảm thấy có lỗi với người xung quanh. Những bệnh nhân bị nhiễm bệnh cảm thấy bị đe dọa bởi sự khó lường của căn bệnh này và có thể thường xuyên sợ hãi cái chết, như một phản ứng bản năng trước những hoàn cảnh khơng thể đốn trước [16]. Sau đó, khi mà họ đã chấp nhận bệnh tật, tâm lý của họ dan ôn định hơn và tập trung vào điều trị. Trong giai đoạn này, họ cảm giác cô đơn, nhớ gia đình, một

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

số cảm thấy bị bỏ rơi. Họ cũng hy vọng, trông mong và vui mừng khi tình trạng bệnh của mình dần cải thiện.

Thêm vào đó, nhiều nghiên cứu nhận định rằng, sợ bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử là nỗi sợ mà người mắc COVID-19 gặp phải trong ca quá trình điều trị. Nỗi sợ hãi lớn nhất là họ có thê bị xã hội kỳ thị do lây nhiễm và nhu cầu mạnh nhất để đáp ứng với COVID-19 là bảo vệ nhân quyền. Có khả năng là nỗi sợ bị kỳ thị của họ đã bị ảnh hưởng bởi nhận thức của xã hội rằng các cá nhân phải chịu trách nhiệm về việc nhiễm vi-rút [23].

1.3. Dinh kiến của người dân về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường

<small>1.3.1. Khái niệm</small>

<small>Căn cứ trên các khái niệm đã trình bày ở trên, chúng tơi xác định khái niệm định</small>

kiến của người dân đối với người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường như sau: “Dinh kiến của người dân về người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường là thái độ tiêu cực của cá nhân hoặc nhóm xã hội dựa trên niềm tin rằng tat cả những người đó đều có những đặc điểm tiêu cực giống nhau về sức khỏe và sự ảnh hưởng tới cộng đồng. Định kiến của người dân được thể hiện trên 3 mặt là: nhận

<small>thức, xúc cảm, hành vi”.</small>

1.3.2. Các biểu hiện của định kiến của người dân doi với những người mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường

Định kiến đối với những người mắc bệnh đã được một số tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu như: định kiến đối với người mắc HIV/AIDS; định kiến đối với người mắc tâm thần; định kiến đối với người mắc bệnh phong... Khái niệm định kiến đối với người mac các loại bệnh thực chat là những thành kiến dựa trên khuynh hướng bệnh tật và sức khỏe xã hội. Mỗi người từ khi sinh ra và lớn lên, trải qua quá trình phát triển, rèn luyện đều có cho mình một thứ q giá là “sức khỏe”. Tuy nhiên, sức khỏe, thể trạng của mỗi người là khác nhau, có người mạnh, người yếu và đều chịu ảnh hưởng từ môi trường khách quan, trong đó có những loại bệnh. Định kiến được hình thành khi cho rằng SỨC khỏe xã hội luôn quan trọng và mỗi người đều khỏe mạnh, chỉ những người yếu ớt sẽ là mam mong bệnh tật cho cộng đồng mà họ quên rang con người sẽ là những người phải thích nghi với bệnh tật trong cuộc sống.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Theo các nghiên cứu về định kiến đối với những người mắc một số bệnh truyền nhiễm thường được tiếp cận chủ yếu dưới khía cạnh cảm xúc và nhận thức. Trong đó, yếu tố nhận thức thê hiện ở niềm tin và sự trông đợi của chúng ta đối với các nhóm xã hội khác nhau. Ở cấp độ nhận thức, định kiến đối với những người mắc bệnh được biểu hiện qua lời nói — ngơn từ, các suy nghĩ khơng có căn cứ... có tính chat rap khn về các nhóm ngồi với xu hướng tiêu cực so với nhóm trong. Cùng với đó, các thành phần cảm

<small>xúc được xác định bởi những xúc cảm được tiêu cực hướng tới một nhóm người có xu</small>

hướng bị nhiễm bệnh và những cảm xúc này đóng một vai trò quan trọng trong việc phát

triển thái độ giữa các thành viên trong nhóm đã hình thành các khn mẫu. Bất kế các khn mẫu là tích cực hay tiêu cực thì chúng đều là những niềm tin phóng đại gắn với một nhóm xã hội. Niềm tin này xác định người mắc bệnh khi khỏi bệnh trở về cộng đồng thường là những người mang tính chất điển hình là dé mắc và dé lây lan.

Căn cứ trên sự phân tích biểu hiện định kiến đối với người mac các căn bệnh truyền

nhiễm nói chung: căn cứ vào khái niệm định kiến của người dân đối với người đã mắc COVID-19 trở về cuộc sơng bình thường: và đặc điểm tâm lý của người mắc COVID - 19 khi trở cuộc sơng bình thường, chúng tơi xác định biểu hiện định kiến của người dân đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở cuộc sống bình thường trên 3 mặt: Nhận

<small>thức, thai độ và hành vi.</small>

Về mặt nhận thức. Định kién của người dân đối với những người đã mắc COVID -19 khi trở về cuộc sống bình thường được hình thành từ nhận thức khơng đầy đủ, thiếu chính xác. Thực tế đã chứng minh trên nhiều trang mạng xã hội (Facebook, YouTube),

<small>trang tin điện tử đã "truy sát" danh tính của những người bị bệnh và đã khỏi bệnh. Thậm</small>

chí có những cá nhân cịn tung tin thất thiệt, nhiều trường hợp người đã từng nhiễm bệnh bị cộng đồng mạng săn lùng, suy diễn, cơng kích dé thu hút sự quan tâm của mọi người. Điền hình, có thể kế đến trường hợp bà Y, người đã từng mắc COVID-19 tại Sơn Lôi, Vĩnh Phúc — một 6 dịch lớn dau tiên tại Việt Nam đã phải nhận nhiều lời đả kích, sự xa lánh, kỳ thị từ người dân xóm làng và họ hàng khiến bà chỉ dám ở trong nhà khi đã khỏi bệnh [Theo tin tức VTV24, phát sóng ngày 16 tháng 5 năm 2020]. Xét về về mặt khuôn mẫu, định kiến đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở cuộc sống bình thường

<small>được hình thành trên co sở sự khái quát q mức các thơng tin thiêu căn cứ về nhóm đôi</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

tượng người đã từng nhiễm bệnh. Sự khái quát hóa quá mức được thể hiện dựa trên những nhận định và niềm tin rằng tất cả những người đã từng mắc bệnh COVID - 19 là những người có sức khỏe yếu ớt, trong người đã mang mầm mống của dịch bệnh và đó là lý do

làm lây lan dịch bệnh, ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, xã hội. Thậm chí, họ cịn cho

rằng những người đã từng mắc bệnh là “sứ giả của cái chết”, là “nguồn” dịch bệnh cần

<small>phải tránh xa hoặc tiêu diệt... Mặc dù chỉ là phỏng đoán với những nhận định vơ căn cứ,</small>

thiếu chính xác nhưng nó đã hình thành nên những niềm tin vững chắc về hình ảnh người đã từng mắc COVID - 19 với những đặc điểm rất tiêu cực.

Nhận thức khơng day đủ, thiếu chính xác của người dân đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường được thể hiện như sau:

- Luôn cho rằng dù đã khỏi bệnh nhưng người từng mắc COVID-19 vẫn tôn tại virus corona gây bệnh cho cộng đồng bất cứ khi nào tiếp xúc. Ngược lại, cho rằng người đã từng mắc COVID-19 đã có kháng thé nên khơng cần thực hiện các biện pháp bảo vệ mà Bộ Y tế khuyến cáo và khơng cần tiêm vacxin phịng bệnh.

- Cho rằng những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường là người có sức khỏe yếu ớt, dé mắc bệnh lại. Ho không thể sinh hoạt, làm việc bình thường như trước khi mắc bệnh. Vi vậy, những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường nên hạn chế đi lại trong một khoảng thời gian sau khi khỏi bệnh.

- Không nên gan gũi, tiếp xúc với những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc song bình thường.

Về mặt hành vi: Định kiến đôi với những người đã từng mắc COVID - 19 được biểu hiện ở những hành vi khi nghe thấy, nhìn thấy và khi tiếp xúc với họ. Mặc dù mức độ biểu hiện khác nhau nhưng hau hết những người mang định kiến thường có phản ứng rất gay gắt khi nhìn thay hoặc tiếp xúc với những người đã từng mac COVID - 19 thơng qua lời nói di nghị, mắng chửi hay qua hành động xa lánh, cơ lập. Thậm chí, cịn lan truyền thơng tin sai lệch về những người đã từng mắc COVID - 19 để mọi người xung quanh cùng xa lánh, từ chối hợp tác, làm việc cùng người đã mắc COVID-19 và ý kiến không cho họ tham gia vào những hoạt động cộng đồng hay sinh hoạt có đơng người. Những người mang định kiến luôn luôn mặc nhiên đồ lỗi, buộc tội và lên án những người đã từng mắc COVID - 19 khơng tn thủ biện pháp phịng, chống dịch nên đã làm cho tình hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

dịch bệnh diễn biến ngày càng phức tạp, ảnh hưởng đến cuộc sống xã hội. Ngược lại, khi tiếp xúc với những người đã từng mắc COVID - 19, một số người lại ln giúp đỡ, chia sẻ khó khăn, làm cầu nối giúp người đã mắc COVID-19 kết nối lại với mọi người, chủ động hỏi han kinh nghiệm điều trị COVID-19 từ họ và sẵn sàng phủ nhận, bác bỏ các thông tin sai lệch về người đã mắc COVID-19 ở địa phương.

Vé mặt cảm xúc: Dinh kiến đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường được biểu hiện thơng qua cảm giác sợ hãi, căm ghét, ngại tiếp xúc với những người đã từng mắc dịch bệnh. Người mang định kiến luôn cho rằng những người đã từng mắc COVID - 19 là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến cuộc sống thường nhật, vì vậy họ xứng đáng bị chỉ trích và khơng cần có sự tơn trọng dành cho những người đã từng mắc COVID - 19. Bên cạnh đó, vi cảm thấy khơng an tồn khi tiếp xúc với người đã từng mắc COVID-19 mà những người mang định kiến thường không muốn cho con cái, người thân tiếp xúc với những người đã từng mắc COVID - 19; kỳ thị, phân biệt đối xử những người đã từng mắc COVID - 19 so với những người bình thường. Tuy nhiên, một số người lại có thái độ về mặt cảm xúc tích cực đối với những người đã từng mắc COVID - 19, luôn cảm thấy đồng cảm và sẵn sàng chia sẻ với những người đã từng mắc COVID - 19, cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc, giao tiếp với họ.

1.3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến định kiến của người dân đối với những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường

Khi tiến hành nghiên cứu về định kiến đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sơng bình thường, nhận thấy rằng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến định kiến. Song nổi bật là ảnh hưởng từ nhận thức của mỗi người; ảnh hưởng từ truyền thông và ảnh hưởng của sự tiếp xúc xã hội.

1.3.3.1. Ảnh hưởng từ nhận thức của mỗi người

Thế giới khách quan luôn vận động và phát triển không ngừng, vi vậy, con người muốn sống và tồn tại cần phải nhận thức, tỏ thái độ và hành động trong thế giới khách quan. Nhận thức, tình cảm và hành động là ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người.

<small>Trong quá trình hoạt động, con người phải nhận thức, thông qua hoạt động nhận thức,hiện thực xung quanh và hiện thực của bản thân được phản ánh, trên cơ sở đó con ngườitỏ thái độ, tình cảm và hành động.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thé.

Theo quan điểm Triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản

<small>ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực,</small>

năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn [1].

<small>Còn dưới góc độ tâm lý học, nhận thức thơng thường được coi là q trình xử lý</small>

thơng tin của tâm trí người tham gia hay người điều hành hoặc của bộ não. Theo đó nhận

<small>thức được cho là q trình phản anh năng động và sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ</small>

não con người. Nhờ hoạt động nhận thức, khơng chỉ cái bên ngồi mà cả bản chất nên

trong các mối quan hệ mang tính quy luật chi phối sự vận động, sự phát triển các sự vật

<small>hiện tượng, không chỉ phản ánh cái hiện tại mà cả cái đã qua và cái sẽ tới. Hoạt động này</small>

bao gồm nhiều quá trình khác nhau thé hiện nhiều mức độ phản ánh hiện thực khách quan và mang lại những sản phâm khác nhau về hiện thức khách quan.

Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn, hình thức khác nhau. Việc nhận thức thế gidi CÓ thé dat những mức độ khác nhau: từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Mức độ nhận thức cảm tính, mức độ cao hơn là nhận thức lý tính [11]. Trong đó, nhận thức cảm tính là cơ sở cung cấp tài liệu cho nhận thức ly tính; nhận thức lý tính nhờ có tính khái qt cao hiểu được bản chất nên đóng vai trị định hướng cho nhận thức cảm tính để có thể phản ánh được sâu sắc hơn. Nếu nhận thức chỉ dừng lại ở giai đoạn lý tính thì con người chỉ có được những tri thức về đối tượng. Còn bản thân tri thức đó có chân thực hay khơng thì chưa khăng định được. Muốn

khẳng định, nhận thức phải trở về thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn [1].

Như chúng ta đã biết, mặc dù quá trình nhận thức của mỗi người giống nhau nhưng con người lại luôn đưa ra những kết quả của sự nhận thức khác nhau, đặc biệt là những sự vật, hiện tượng mang tính đối lập. Đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc song bình thường cũng vậy. Mỗi người khi tiếp nhận nguồn thơng tin khác nhau, từ chính thống tới phi chính thống đều có cho mình những phán đoán, tư duy và sự nhận thức khác nhau. Định kiến đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường hình thành khi con người ta tin vào nhận thức của mình, rằng những người

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

đã từng mắc COVID - 19 với thé trạng yếu ớt sẽ dễ dang trở thành nguồn lây lan dịch bệnh ngoài cộng đồng. Những nhận thức này mới dừng lại ở quá trình cảm tính, chưa có sự tư duy, so sánh và soi chiếu vào thực tiễn. Mặc dù tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, số lượng những ca nhiễm bệnh ngày càng tăng cao, nhưng các chuyên gia y học, các tổ chức y tế và thông tin Chính phủ đều đã đưa ra những dẫn chứng, minh chứng cụ thé về việc người đã từng mắc COVID - 19 khi khỏi bệnh sẽ khơng cịn yếu tố dịch té dé lây lan dịch bệnh. Có thé thấy, chính là những nhận thức chưa đủ căn cứ, sai lệch, tin vào chấp niệm của bản thân đã vô tình hình thành khn mẫu đối với những người đã từng mac COVID - 19 với những nhận định và niềm tin tiêu cực. Ho tin vào nhận thức của bản thân là đúng, tin vào khuôn mẫu mà họ tự dựng lên: Những người đã từng mắc COVID - 19 sẽ không bao giờ trở về là một con người bình thường khi cịn mang trong mình mầm mơng của dịch bệnh.

1.3.3.2. Ảnh hưởng từ truyền thông

Việt Nam đã và đang trải qua vô số những đợt dịch bệnh COVID - 19 bùng phát nghiêm trọng, bên cạnh những y, bác sĩ, lực lượng vũ trang trên tuyến đầu chống dịch thì

<small>các trang thơng tin của Chính phủ, các trang báo điện tử cũng đóng một vai trị quan trọng</small>

trong việc đưa ra những thơng tin cần thiết, chính xác tới người dân về tình hình dịch bệnh, từ đó giúp người dân nâng cao ý thức phịng, chống dịch bệnh.

Khơng thể phủ nhận lợi ích và vai trị to lớn của các nguồn thông tin trực tuyến cũng như trên các tin tức thời sự nóng hồi. Tuy nhiên truyền thông luôn được coi là “con đao hai lưỡi” đối với nhận thức của mỗi người khi tiếp xúc. Trong một thời gian dai 4 năm ké từ ngày dịch bệnh COVID - 19 bùng phát, truyền thông ln đây mạnh đưa tin tức nóng hồi về dịch bệnh nhưng chính việc truyền thơng q nhân mạnh chú trọng đến đường lây truyền mà khơng giải thích rõ ràng, đặc biệt là chỉ có 1 số ít những bài viết liên quan đến van đề những người đã từng mắc COVID - 19 khi khỏi bệnh sẽ không trở thành nguồn lây lan dịch bệnh. Điều đó đã khiến mọi người sợ hãi, xa lánh và là một trong các nguyên nhân dẫn đến định kiến với người nhiễm CO VID - 19 cũng như những người đã từng mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường. Khơng chỉ vậy, nguồn thơng tin đưa ra những số liệu chứng minh chưa thực sự gan với thực tiễn, làm cho tin tức không thể đi

<small>sâu vào nhận thức của người dân, họ thường không quan tâm nhiêu đên những “con sô”</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

mà thường nhìn vào thực tiễn, nhìn vào khn mẫu định kiến vơ hình được xây dựng từ

<small>chỉnh bản thân và những người xung quanh.</small>

Bên cạnh những cơng thơng tin chính thức, thì trên các trang mạng xã hội lan truyền rất nhiều thơng tin giả, khơng có căn cứ liên quan đến những người đã từng nhiễm COVID - 19. Những bài viết với ngơn từ kích động, suy diễn, cơng kích thăng vào nỗi sợ hãi dịch bệnh, nhận thức hạn chế và sự tưởng tượng phong phú của người dân. Người dân tin tưởng và bắt đầu hình thành nên khuôn mẫu định kiến về những người đã từng mắc

COVID - 19 rang ho la nguồn gốc của dịch bệnh, là “điềm xui” cần phải tiêu diệt sớm. Từ

đó, trong những người mang định kiến ln có những trạng thái cảm xúc sợ sệt, kỳ thị đi

<small>kèm với những hành động xa lánh, miệt thị, thậm chí là truy sát.</small>

Ta nhận thấy, truyền thơng ln có sức ảnh hưởng lớn tới nhận thức, cảm xúc và hành động của con người, đặc biệt cũng là một lý do quan trọng hình thành nên định kiến đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường. Vì vậy, để giảm bớt định kiến đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường, cần cung cấp thêm nhiều kiến thức về những người đã từng nhiễm COVID - 19 và phô biến rộng rãi không chỉ qua tin tức trực tuyến mà cịn thơng qua những thông báo tuyên truyền đến người dân thuộc mọi độ tuôi, ngành nghề và nơi sinh sống. Những thông tin khách quan, chính xác và khoa học sẽ giúp cộng đồng hình thành nhận thức đúng và hành vi chuẩn mực đối với những người đã từng nhiễm COVID - 19. Ngược lại, những thơng tin sai lệch, mang tính định kiến có thé tạo ra và củng cơ nhận thức sai lệch và thái

<small>độ kỳ thị.</small>

1.3.3.3. Ảnh hưởng của sự tiếp xúc xã hội

Qua khảo sát những người ở nhiều giới tính, độ tuổi khác nhau, trình độ học vấn, vùng miền, dân tộc khác nhau,... khi được tiếp xúc với những người đã từng mắc COVID - 19 trong một khoảng thời gian nhất định cho được kết quả khác biệt: Đối với những người độ tuôi từ 40 trở lên, ở những vùng nông thôn thường thê hiện thái độ sợ hãi, kỳ thị, xa lánh không muốn tiếp xúc với những người đã từng mắc bệnh. Ngược lại, đối với những người trẻ từ 18-25 tuổi, có mơi trường làm việc học tập tại các thành phố lớn, được

tiếp cận với các nguồn thơng tin chính thống thì lại cảm thay tích cực, có thé san sang

<small>giao tiép, thậm chi là tiêp xúc co thê như năm tay, 6m,... với những người đã từng mac</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

COVID - 19. Như vậy, có thé thấy những yếu tố như độ tuổi, trình độ học van, vùng mién,... đều ảnh hưởng đến mức độ của định kiến đối với những người đã mắc COVID

-19 khi trở về cuộc sống bình thường.

1.4. Tác động của định kiến về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống

<small>bình thường</small>

Van đề tinh thần có vai trị quan trọng trong khái niệm sức khỏe. Trong thời kỳ dich bệnh COVID-19 dai dang dang suốt 2 năm qua, mỗi ngày chúng ta đều thấy tràn ngập những con SỐ đong đếm được như: Ca mắc, ca nặng, rồi tử vong, số người khỏi bệnh... Nhưng cịn một thứ vơ hình - những hậu quả gián tiếp của đại dịch thì khơng thể thống kê. Đó là stress, là những sang chấn tâm lý nặng nề, kéo dài, gây ra nhiều rối loạn tâm thần. Đa số hầu hết mọi người đều có những ảnh hưởng tâm lý ở các mức độ khác nhau do dịch bệnh COVID-19 gây ra. Vì vậy những định kiến xã hội về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường cũng trở thành một van dé đáng lo ngại vi

<small>những tác động mạnh mẽ của nó.</small>

1.4.1. Đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường Những định kiến tiêu cực trên đã vơ tình hoặc cố ý gây ảnh hưởng đến sự tự do của người khác, thay vì được tiếp tục cuộc sống tự do thoải mái sau khi mắc COVID-19 thì những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường lại phải chịu áp lực khơng dám được tự do đi lại hoạt động, họ cũng mang tâm lý lo lắng sợ sệt nghĩ răng mình là đối tượng đặc biệt cần chú ý đến. Vì những định kiến đó mà ho khơng thé tiếp xúc, giao tiếp với mọi người như bình thường được. Và những khó khăn đấy cứ tiếp tục không biết khi nào kết thúc vì dich bệnh van cịn kéo dài và những định kiến thì ln song hành. Thậm chí những người bị định kiến cũng hình thành những suy nghĩ và niềm tin giống như chủ thê mang định kiến.

1.4.2. Đối với những người đang mắc COVID-19

Không chỉ tác động đến những người mắc COVID-19 đã khỏi mà nó cịn ảnh hưởng đến tâm lý của những người đang mắc COVID-19. Giữ tinh than lạc quan, vui vẻ là một trong những phương pháp tốt để chữa lành chống lại dịch bệnh COVID-19. Thế nhưng những người đang mắc lại mat đi điều đó bởi những định kiến xã hội bên ngồi kia, ảnh hưởng sức khỏe, gây khó khăn đến quá trình điều trị của họ. Trạng thái tâm lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

kém có thé làm suy giảm hệ thống miễn dịch, dé dàng mệt mỏi trong giai đoạn tâm lý bat ồn.

1.4.3. Đối với xã hội

Ở hầu hết các quốc gia, kế cả Việt Nam cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 tập trung nguồn lực chủ yêu vào ngăn chặn sự bùng phát, lây lan và chữa trị người bệnh, song ít chú ý đến hệ lụy của đại dịch đối với sức khỏe tinh thần. Những biện pháp phòng, chống dai dich được các quốc gia áp dụng khó có thé hàn gắn được những đồ vỡ và sang chấn tâm lý mà người dân trải qua. Vấn đề định kiến xã hội đã từng được nhấn mạnh là một van dé quan trọng thậm chí nguy hiểm đối với xã hội, đặc biệt ngày nay khi tình hình

<small>chung của xã hội bi bao quanh bởi COVID-19. Những phan ứng của người dân gây khó</small>

khăn đến cơng tác chống dịch, giảm đi tính hiệu quả của chống dịch cũng như làm gia tăng lên sự căng thang ảnh hưởng của dịch COVID-19, làm mất đi sự đoàn kết dân tộc, gây chia rẽ tạo điều kiện cho kẻ phản động lợi dụng chống phá. Vì những định kiến trên mà những người không may bi mắc bệnh COVID-19 hay những người từng tiếp xúc là F1, F2 vì nỗi sợ hãi mà khơng dam đi khai báo y tế, gây khó khăn đến rà sốt chống dich. Định kiến có thé ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ giữa các cá nhân hay các nhóm xã

<small>hội với nhau qua hành vi ki thị.</small>

Tôn tại những suy nghĩ hành động tiêu cực gây anh hưởng đến trật tự an tồn xã hội, khó khăn đến cơng tác thực hiện an sinh xã hội trong thời kỳ dịch bệnh COVID-19.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Tiểu kết Chương 1

Như vậy những cơ sở lý luận trên đây đã đặt ra vẫn đề cho nội dung Định kiến xã hội của người dân về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường. Vấn đề định kiến xã hội là một nội dung gắn liền với đời song của mỗi chúng ta thường xuyên, khó có thể tránh khỏi và chúng ta phải đấu tranh với nó dé tiến tới xây dựng lối sông văn minh lành mạnh, tiễn bộ. Di sâu tìm hiểu về định kiến xã hội nó là một nội dung có những đặc điểm độc đáo, riêng biệt. Hiện nay, Việt Nam đã trải qua hơn 2 năm thời kỳ khó khăn của dịch bệnh và đến bây giờ vẫn còn đang tiếp tục chưa thê kết thúc. Điều đó có nghĩa là chúng ta cùng chung sống chiến đấu với dịch bệnh COVID-19 hàng ngày. Bên cạnh những tác động to lớn về mọi mặt mà dịch bệnh mang lại thì xuất hiện một vấn đề bất ơn đó là định kiến xã hội về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường. Cùng với những ảnh hưởng to lớn mà định kiến xã hội trên đem đến đã cho thấy đây là một vấn đề cần được nghiên cứu đề giải quyết kịp thời đứt điểm.

Trên đây chúng tôi đã đưa ra những cơ sở lý luận cụ thé là các khái niệm cơ bản nên tảng về định kiến xã hội, khái niệm về người đã mắc COVID-19 về định kiến xã hội đối với những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường. Chương 1 cũng đã xác định được các biểu hiện về mặt nhận thức, thái độ, hành vi định kiến trên ở người dân cũng như đưa ra cơ sở các yếu tơ ảnh hưởng đến việc hình thành nên định kiến xã hội về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường. Sức khỏe tâm lý là một vấn đề quan trọng nhưng dường như mọi người thường quên đi và vì vậy để lại những hậu quả khơng đáng có. Theo đó, định kiến xã hội về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường được hình thành dựa trên các yếu tố cụ thé, và định kiến đó thì có tác động vơ cùng to lớn đến khơng chỉ đối tượng mà cịn tác <small>động to lớn đên sự ôn định của đời sông xã hội.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

CHƯƠNG 2. THUC TRẠNG ĐỊNH KIÊN CUA NGƯỜI DAN HÀ NỘI VE

NHỮNG NGƯỜI DA MAC COVID - 19 KHI TRO VE CUỘC SONG BINH

+ Tổng quan các nghiên cứu trong và ngồi nước về vấn đề có liên quan đến định kiến của người dân về những người đã từng mắc COVID-19.

+ Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài. Xác định các khái niệm công cụ gồm: Định kiến, định kiến về người đã mac COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường. Bên cạnh đó chỉ rõ các yếu tổ ảnh hưởng đến định kiến của người dân về người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường và tác động của định kiến đối với xã hội.

<small>- Nội dung nghiên cứu</small>

+ Phân tích, tổng hợp những cơng trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngồi nước về định kiến với người bệnh nói chung và định kiến về người đã mắc COVID-19 khi trở lại cuộc sống bình thường nói riêng, chỉ ra những van dé cịn tồn tại ở các cơng trình nghiên cứu này để tiếp tục nghiên cứu.

+ Xác định nội dung nghiên cứu thực tiễn dựa vào kết qua tong hợp của phan lý thuyết, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến định kiến về người đã mắc COVID-19 khi trở lại cuộc sống bình thường.

+ Xác định các biểu hiện về định kiến của người dân về người đã mac COVID-19 khi trở lại cuộc sống bình thường bao gồm: Nhận thức, cảm xúc va hành vi của người dân về người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường.

* Giai đoạn 2: Nghiên cứu thực tiễn

<small>- Mục đích nghiên cứu:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

+ Khảo sát thực trạng, biểu hiện và mức độ định kiến của người dân về người đã mắc COVID-19 khi trở lại cuộc sống bình thường.

+ Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến người dân về người đã mắc COVID-19 khi trở lại cuộc sống bình thường.

- Nội dung nghiên cứu: Chúng tôi tiễn hành xây dựng công cụ nghiên cứu; Chọn mẫu và thu thập dữ liệu nghiên cứu định lượng bằng bảng hỏi đối với người dân Hà Nội. Sau đó xử lý số liệu, phân tích dữ liệu và viết báo cáo.

Dữ liệu được thu thập trên mẫu người dân thành phố Hà Nội (nội và ngoại thành Hà Nội). Số phiếu được phát ra 280 phiếu. Đặc điểm của mẫu được hién thị ở bảng dưới

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>2.1.2. Phương pháp nghiên cứu</small>

- Phương pháp điều tra băng bảng hỏi

<small>* Xây dựng bảng hỏi</small>

<small>Từ cơ sở lý luận, thông qua các mặt biêu hiện định kiên của người dân vê người đã</small>

mắc COVID-19 khi trở lại cuộc sống bình thường, chúng tơi thiết kế các câu hỏi của bảng

<small>* Nội dung và cau trúc cua bang hỏi</small>

<small>Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu chúng tôi xây dựng bang hỏi đê khảo sat</small>

của người dân đối với người mắc COVID-19 khi trở lại cuộc sơng bình thường. Bảng hỏi <small>gơm các nội dung sau:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

«e Tìm hiểu những thơng tin cá nhân bao gồm: Giới tính, tuổi, khu vực song, trình độ

học vấn.

¢ Tim hiểu mức độ định kiến của người dân về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc song binh thuong thé hién qua mat nhận thức, mat cảm xúc va mặt

<small>hành vi.</small>

« Tim hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới định kiến của người dân về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường.

e Phương pháp phỏng van sâu

2.2. Thực trạng định kiến của người dân Hà Nội đối với người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường

2.2.1. Đánh giá chung về thực trạng định kiến của người dân Hà Nội đối với người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường

Một phần khơng nhỏ người tham gia khảo sát nhận thức được việc mình đã từng định kiến với người đã mặc COVID-19 sau khi trở về cuộc sống bình thường. Cụ thể, ở trên cả ba độ tudi có 36,4% cho răng minh đã từng định kiến. Trong đó, giữa các độ tuổi có sự phân hóa tỷ lệ người đã từng có định kiến với người mắc COVID-19 sau khi trở về cuộc sống bình thường khác nhau. Do là, ở các độ tuôi lớn hơn tỷ lệ người đã từng định kiến cao hơn, ở độ tudi từ 18 đến 23 tuổi có 20,3%, ở độ tuổi từ 23 đến 60 tuổi có 62,5% và ở độ tuổi trên 60 tuổi có 73,9% người đã từng định kiến.

Bang 2.2. Tỷ /é người cho biết đã từng định kiến về người mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường (don vị: %)

Tình trạng Từ 18 đến 23 tuổi| Từ 23 đến 60 tuổi| Trên 60 tudi Tổng Chưa từng định kiến 79,8 37,5 26,1 63,6 Đã từng định kiến 20,3 62,5 73,9 36,4

<small>Trong sô những người đã nhận thức được việc định kiên của mình vê người macCOVID-19 khi trở vê cuộc sơng bình có sự khác nhau vê quan điêm định kiên. Cụ thê,</small> 104 lựa chọn cho rằng định kiến đó là sự xa lánh, tránh tiếp xúc với người đã mắc

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

COVID-19, 61 lựa chọn cho rằng định kiến là nhận thức, cảm xúc phù hợp của xã hội dé tránh sự lây lan dịch bệnh va 115 lựa chọn định kiến là nhận thức, cảm xúc và hành vi

<small>tiêu cực cua cá nhân hoặc nhóm xã hội dựa trên niêm tin rang vê những người đó đêu có</small>

thê làm lây lan dịch bệnh cho cộng đồng, hoặc không thẻ bị tái nhiễm.

Trường hợp của chị H.T.T (bệnh nhân số 196, trú tại Thường Tín, Hà Nội), sau khi chị ra viện và tự cách ly ở nhà 1 tháng nhưng khi ra đường chị vẫn bắt gặp nhiều ánh mắt ái ngại. Chị kế lại, khi chị đi mua d6 cho con, người bán hàng thấy chị cịn chạy đi lay

<small>khâu trang rơi mới nói chuyện với chị [3].</small>

Bang 2.3. Quan điểm về khái niệm định kiến của người dân về người mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường.

. Số | Tỷ lệ

<small>TT Quan diém</small>

lượng | (%) | Định kiến đối với người mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống

bình thường là sự xa lánh, tránh tiếp xúc của mọi người đối với | 104 | 37,2 những người đã từng mắc COVID-19

2 | Định kiến đối với người mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống

bình thường là nhận thức, cảm xúc hành vi dung đắn của xã hội dé 61 21,8 tránh sự lây lan dịch bệnh từ người đã từng mắc COVID-19

3_ | Định kiến đối với người mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống

<small>bình thường là nhận thức, cảm xúc và hành vi tiêu cực của cá</small>

nhân hoặc nhóm xã hội dựa trên niềm tin rằng về những người đó | 115 4I đều có thê làm lây lan dịch bệnh cho cộng đồng, hoặc không thể

<small>bị tái nhiễm</small>

Như vậy, định kiến về nguol mac COVID-19 sau khi trở về cuộc song binh thuong

<small>tôn tai trong một bộ phan người trong xã hội. Thêm vào đó, các quan điêm về định kiên</small>

ton tại trong họ có sự khác nhau, đặc biệt có một tỷ lệ nhất định cho rằng định kiến đối với người mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường là phản ứng đúng đắn của cá

<small>nhân trong xã hội trước tình hình dịch bệnh phức tạp.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

2.2.2. Các mặt biểu hiện cụ thể của định kiến về những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường

2.2.2.1. Biểu hiện chung của định kiến về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường

Dé tìm hiểu về những biéu hiện chung của định kiến về những người đã người mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường, nhóm chúng tơi đã tiến hành khảo sát trên 3 mặt: Nhận thức, cảm xúc và hành vi của 280 người dân Hà Nội bao gồm người dân nội thành, người dân ngoại thành với 3 nhóm tuổi: từ 18 tuổi — 23 tuổi, từ 23 tuổi — 60 tudi và từ 60 tuổi trở lên với câu hỏi: “Theo anh/chi, định kiến của người dân doi với những người đã mac COVID-19 đã khỏi bệnh bao gém những biểu hiện nào?” (xem phần câu

hỏi 5, phụ lục 2). Kết quả thu được:

Bảng 2.4. Nhận thức của người dán về các biểu hiện của định kiến xã hội về người đã mắc COVID-19 đã khỏi bệnh (don vị: %)

Nhận thức luôn cho răng dù đã khỏi bệnh những người từng mac

1 | COVID-19 vẫn tôn tại virus corona gây bệnh cho cộng đồng bat ctr} 215 76,7

<small>khi nào tiêp xúc.</small>

3 Cho răng người đã từng mắc COVID-19 có kháng thê nên khơng - 57]

cần thực hiện các biện pháp bảo vệ mà Bộ Y tế khuyến cáo

Xa lánh không tiép xúc và phân biệt đôi xử đôi với người từng mac

<small>3 162 57,8COVID-I9</small>

4 | Lời nói đàm tiêu, chỉ trích làm tơn thương 133 | 47,4 5 | Tuyên truyén các thông tin sai lệch về những từng mac COVID-19 140 50

<small>é Cam thay so hai néu phải đứng gân hoặc tiếp xúc với những người 152 543</small>

<small>7 | Mục khác 5 1,8</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Qua kết quả tại bảng 1, nhận thấy rằng đa số mọi người đều cho rằng biểu hiện rõ nét nhất của định kiến về những đã người mắc COVID — 19 khi quay trở về cuộc sống bình thường là do nhận thức của mỗi người khi luôn cho rằng dù đã khỏi bệnh nhưng người từng mắc COVID-19 vẫn tồn tại virus corona gây bệnh cho cộng đồng bat cứ khi nào tiếp xúc chiếm 215/280 ý kiến (76,7%). Về mặt cảm xúc đã chiếm 152/280 ý kiến (54,3%) cho thay mọi người vẫn luôn sợ hãi phải đứng gần hoặc tiếp xúc với những người đã từng mắc COVID-19. Đồng thời, về mặt hành vi với 3 nhận định: Xa lánh không tiếp xúc và phân biệt đối xử đối với người từng mắc COVID-19, lời nói đàm tiếu, chỉ trích làm tốn thương hay tuyên truyền các thông tin sai lệch về những từng mắc COVID-19 chiếm ưu thế lần lượt với 57,8%, 47,4% và 50%. Ngồi ra 1,8% cịn cho răng định kiến về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường cịn được thé hiện thơng qua thái độ thờ ơ, hành vi không giúp đỡ người đã từng mắc COVID - 19.

Bên cạnh đó, khi tiến hành phỏng vấn mọi người với câu hỏi: “Làm thế nào để anh/chị biết được đây là định kiến về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc song bình thường?”. Da số mọi người lại đưa ra những biểu hiện về hành vi được thé hiện ra bên ngoài va dé dàng nhận thấy như: “Thay mọi người cứ xì xào, bàn tán rồi lan truyền thông tin về người đã từng mắc COVID - 19”, “Người đã từng mắc COVID - 19 đi đến đâu là mọi người tan ra, tránh tiếp xúc với”, hay có người đã từng mắc COVID - 19 sau

khi trở về nhà đã bộc bạch rằng: “Thậm chí, đến cả khi ra chợ mua đồ ăn cũng không ai

bán cho, mọi người đều xua tay ý rằng tránh xa ra, đừng có ở đây làm ảnh hưởng đến

Điều này xuất phát từ mối quan hệ giữa nhận thức, cảm xúc và hành vi của con

<small>người. Trong đó, nhận thức làm sáng tỏ cách thức hành động, cảm xúc định hướng hành</small>

động và đến hành vi có khả năng hiện thực hóa nhận thức và cảm xúc. Nhận thức, cảm xúc, hành vi có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chỉnh thể có thể gọi là “sự kiện xã hội” của mỗi cá nhân. Đối với biểu hiện của định kiến về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường cũng chịu sự tác động của mỗi quan hệ giữa nhận thức, cảm xúc và hành vi. Khi con người ta muốn nảy sinh cảm xúc: sợ hãi, kỳ thị, cảm thấy khơng an tồn và ngại tiếp xúc,... đối với những người đã từng mắc COVID — 19 thì bắt buộc phải có thơng tin về đối tượng — là những người đã từng mắc COVID —

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

19. Chúng ta luôn luôn phải suy nghĩ để biết họ là ai, tại sao họ lại mắc bệnh hay họ có ảnh hưởng gi đối với minh hay khơng dé có những cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực khi đối diện với những người đã từng mắc COVID - 19. Ở đây, nguyên nhân chính dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như trên xuất phát từ nhận thức cho rằng những người đã từng mac COVID-19 vẫn mang trong minh mam bệnh và dễ dàng trở thành nguồn lây lan dịch bệnh ngoài cộng đồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống nhiều lúc nhận thức đúng nhưng khơng có cảm xúc tích cực và ngược lại, có cảm xúc phù hợp nhưng lại bị hạn chế về mặt nhận thức. Điển hình như qua khảo sát, độ tuổi người dân từ 18 tuổi — 23 tuổi với trình độ hoc van cao và thường xuyên được tiếp cận với những nguồn thơng tin chính xác, ln có nhận thức tốt và họ hiểu rằng những người đã mắc COVID — 19 khi được trở về cuộc song bình thường là họ đã khơng cịn yếu tố dịch té (virus corona) dé khiến lây lan dich bệnh ra ngồi cộng đồng nhưng có đến 77/154 người (49,7%) vẫn cảm thấy sợ hãi và ngại tiếp xúc với những người đã từng mắc COVID — 19. Từ những nhận thức và cảm xúc như vậy đã thúc đây những người mang định kiến biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi như: xa lánh, phân biệt đối xử, đàm tiếu, chỉ trích,... đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sơng bình thường.

2.2.2.2. Dinh kiến về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường thể hiện ở mặt nhận thức

Thực trạng các biểu hiện về mặt nhận thức của người dân đối với định kiến về những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường được khảo sát thơng qua các nhận định mang tính chất nhận thức về định kiến về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường với 5 mức độ: Hồn tồn đồng ý, Đồng ý, Trung lập, Khơng đồng ý và Hồn tồn khơng đồng ý. Kết quả được thê hiện ở bảng sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

thường thể hiện ở mặt nhận thức (đơn vi:%)

Bang 2.5. Định kiến về những đã người mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình Những người mac COVID-19 khi

quay trở về cuộc sống bình thường là người có sức khỏe yếu ớt, dé mắc

<small>bệnh lại.</small>

Những người mắc COVID-19 khi

quay trở về cuộc sống bình thường van cịn có virus trong người dé lây

<small>lan dịch bệnh.</small>

Những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường khơng thể sinh hoạt, làm việc bình thường như trước khi mắc bệnh.

Những người mắc COVID-I9 khi quay trở về cuộc sống bình thường nên hạn chế đi lại trong một khoảng

<small>thời gian sau khi khỏi bệnh.</small>

Những người mac COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường khơng cần áp dụng các biện pháp 5k, vì đã có kháng thé trong người

Những người mac COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường có thể chia sẻ kinh nghiệm điều trị

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

COVID-19 đúng đăn.

Những người mắc COVID-I9 khi

7 | quay trở về cuộc sống bình thường| 8,5 9,3 17 33,1 32,1

<small>khơng cân tiêm vacxin phịng bệnh.</small>

Khơng nên gân gũi, tiếp xúc với

8 |những người mắc COVID-19 khi| 8,2 13,8 25 31,9 21,1 quay trở về cuộc sống bình thường.

<small>Nên cảm thơng với khó khăn mà</small>

những người mắc COVID-19 khi

<small>9 ` , 35,6 | 35,6 13,6 93 5,9quay tro vé cudc song binh thuong</small>

<small>phải đôi mặt sau khi trở vê.</small>

<small>Nên động viên và giúp đỡ những</small>

10 | người mắc COVID-19 khi quay trở| 40,7 | 34,7 | 12,7 6,8 5,1

<small>về cuộc sông bình thường.</small>

Qua kết quả từ bảng trên, nhận thấy rằng khi khảo sát với những nhận định liên quan tới sức khỏe của những đã người mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường như sức khỏe còn yếu ớt, nên hạn chế đi lại một khoảng thời gian sau khi khỏi bệnh được đa số người dân đồng ý và hoàn toàn đồng ý. Cùng với đó, có 71,2% người dân cảm thơng với khó khăn của những người đã từng mắc COVID - 19 và 75,4% người dân sẵn sàng động viên và giúp đỡ những người đã mắc COVID-19 khi trở về cuộc sống bình thường. Điều này cho thấy, nhận thức của người dân Hà Nội hầu hết đều tích cực và đúng đắn, bởi Hà Nội được biết đến với dân số trí thức đơng và là một thành phố hiện đại.

Đồng thời, với câu hỏi phỏng van được đưa ra: “Anh/chị có nghĩ nhận thức là một biểu hiện của định kiến về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường hay khơng? Nếu có, thì được biểu hiện như thế nào?”. Có tới 54,1% người cho rằng nhận thức là một biểu hiện của định kiến về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường và nó được biểu hiện như: “Mọi người suy nghĩ rằng người đã từng mắc COVID - 19 vẫn mang mam bệnh và có thé lây cho người khác” hay “Khi người có định kiến thì người ta thường có nhiều suy nghĩ áp đặt rằng mình khơng tiếp xúc

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

với những người đã từng mắc COVID - 19 là mình an tồn”,... Từ đây, thấy rằng xung quanh chúng ta vẫn tồn tại nhiều người mang nhận thức định kiến và chúng ta có thé dễ

<small>dàng nhận ra suy nghĩ tiêu cực và khơng chính xác của họ.</small>

Dé thấy rõ và sâu sắc hơn mức độ định kiến của người dân đối với những người đã mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sơng bình thường thé hiện ở mặt nhận thức, chúng tôi tiến hành khảo sát và so sánh trên 3 nhóm tuổi: từ 18 - 23 tuổi, từ 23 tuổi - 60 tuổi và từ 60 tuôi trở lên, thuộc 2 khu vực: Nội thành và Ngoại thành Hà Nội.

Ở 3 nhóm tuổi với cùng những nhận định về định kiến về những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường thể hiện ở mặt nhận thức cho kết quả không tương đồng đối với mỗi nhận định và 5 mức độ. Tuy nhiên, hầu hết ở 3 nhóm ti đều đồng ý và hoàn toàn đồng ý với một số nhận định về sức khỏe và tình trạng của người đã từng mắc bệnh như: “Những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường là người có sức khỏe yếu ớt, dé mắc bệnh lai” và “Những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường nên hạn chế đi lại trong một khoảng thời gian sau khi khỏi bệnh”, cũng như không đồng ý và hồn tồn khơng đồng ý với nhận định “Những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường khơng cần áp dụng các biện pháp 5k, vì đã có kháng thé trong người” và “Những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường khơng can tiêm vacxin phịng bệnh”. Bởi, theo nghiên

cứu của các nhà khoa học sau khi khỏi bệnh mà không tuân thủ khuyến cáo của Bộ Y tế

vẫn có khả năng tái nhiễm; cũng như thực tiễn cuộc sống, mọi người đều nhận ra rằng sau khi mắc bệnh và khỏi bệnh, cơ thé trở nên yếu hon, có những ảnh hưởng tới cơ thé như

rụng tóc, hụt hơi, viêm phối... hay còn gọi là hậu COVID — 19. Vì vậy, việc hạn chế đi

lại, tuân thủ nguyên tắc 5K và tiêm phòng vaccine theo yêu cầu sau khi mắc bệnh được coi như vừa dam bảo khuyến cáo của Bộ Y tế, vừa giúp người vừa mac bệnh 6n định sức khỏe hơn và cùng xã hội chung tay phòng, chống dịch bệnh COVID - 19.

Bên cạnh đó, khi tiến hành so sánh mức độ định kiến đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sơng bình thường thé hiện ở mặt nhận thức, ta thay rõ sự chênh lệch rất lớn về mức độ đồng ý và không đồng ý ở nhóm tuổi trên 60 tuổi trở lên với nhóm tuổi từ 18 — 23 tuổi và từ 23 — 60 tuổi. Đặc biệt đối với những nhận định liên quan đến sức khỏe của người đã từng mắc COVID - 19 như: “Những người mắc COVID-19

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

khi quay trở về cuộc sống bình thường vẫn cịn có virus trong người để lây lan dịch bénh” hay “Những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường khơng thé sinh hoạt, làm việc bình thường như trước khi mắc bệnh” và nhận định về cách cư xử đối với những người đã từng mắc bệnh “Không nên gan gũi, tiếp xúc với những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường” cho thay sự khác biệt tương đối rõ ràng. Những người thuộc nhóm tuổi từ 18 — 23 tuổi thường là những học sinh, sinh viên, cịn nhóm tuổi từ 23 — 60 tuổi là những người đã và đang đi làm. Đây là 2 nhóm tuổi

trẻ, đang trong độ ti lao động, họ được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin chính thống,

khoa học; có sự tìm hiểu và hiểu biết nhất định về dịch bệnh COVID - 19, về những người đã từng mắc COVID - 19 khỏi bệnh. Bên cạnh đó, mơi trường làm việc của họ có thé đã tiếp xúc với rất nhiều người đã từng mắc bệnh nhưng vẫn có thé sinh hoạt va làm việc bình thường, hay thậm trí cả bản thân họ cũng đã từng mac COVID - 19 và nhận thấy bản thân không hè yếu ớt. Điều này, không chỉ khiến họ nhận thức một cách thông thường thông qua tin tức mà cịn họ cịn có thé tư duy, so sánh và soi chiếu vào thực tiễn cuộc sống xung quanh mình để đưa ra tri thức tốt nhất cho bản thân. Vì vậy, việc nhận định những người đã từng mắc COVID — 19 khi trở về cuộc sống bình thường khơng thé sinh hoạt, làm việc bình thường và vẫn mang trong mình mầm bệnh với 2 nhóm tuổi này hầu như khơng có và 2 nhóm tuổi này sẵn sàng tiếp xúc với người đã từng mắc bệnh. Ngược lại, với nhóm tuổi 60 tuổi trở lên — đây là nhóm tuổi sau lao động, sức khỏe đã yếu hơn và thường có xu hướng ít tiếp xúc với những thơng tin chính xác. Vì vậy, họ thường rất lo sợ dịch bệnh COVID - 19 và có định kiến về những người đã mắc COVID - 19, thê hiện rõ ở mức độ đồng ý và hoàn toàn đồng ý với các nhận định: 65,2% cho rằng Những người mac COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường vẫn cịn có virus trong người dé lây lan dịch bệnh, 41,8% cho răng Những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường khơng thể sinh hoạt, làm việc bình thường như trước khi mắc bệnh và 43,5% cho răng Không nên gần gũi, tiếp xúc với những người mắc COVID-19 khi quay trở về cuộc sống bình thường. Sở di, những người thuộc nhóm tudi nay có mức độ định kiến cao bởi một số lý do như: họ lo lắng cho sức khỏe của bản thân mình dễ mắc bệnh, thường xuyên tiếp xúc với những nguồn thông tin không chính xác hay bởi niềm tin do

tudi tác đem đến vào những nhận định khuôn mẫu của bản thân rang những người đã từng

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

mac COVID-19 sẽ khơng bao giờ trở về là một con người bình thường khi cịn mang trong mình mầm mong của dich bệnh ma khơng có sự soi chiếu vào thực tiễn.

Tuy nhiên, ở nhóm ti 60 tuổi trở lên có sự mâu thuẫn trong nhận thức, mặc dù không muốn tiếp xúc, gần gũi với những người đã từng mắc COVID — 19 nhưng có tới 56,5% người đồng ý và hồn tồn đồng ý với việc nên cảm thơng với những khó khăn mà những người đã từng mắc COVID - 19 phải đối mặt và 60,9% người cho rang nên giúp đỡ những người đã từng mắc COVID - 19. Điều này xuất phát từ những suy nghĩ đối lập bên

trong mỗi người. Một mặt, vẫn cảm thấy sợ hãi khi phải tiếp xúc, mặt khác lại mong

muốn có thé tiếp cận để phục vụ cho lợi ích của bản thân như học hỏi kinh nghiệm chữa bệnh hay cách phòng bệnh. Hai khuynh hướng đối lập trong nhận thức vừa thống nhất vừa dau tranh dé đưa ra những cảm xúc, hành vi cư xử đối với những người đã từng mắc

COVID - 19. Sự chuyên hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự dau tranh của

các mặt đối lập. Có thé hai mặt đối lập chuyên hóa lẫn nhau như việc nỗi sợ hãi, tiếp xúc đã bao trùm và ngăn cản đi những suy nghĩ đồng cảm, giúp đỡ đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường và ngược lại; cũng có thê cả hai chuyên thành những chất mới, hình thành những cảm xúc mới, hành vi cư xử mới đối với những người đã mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường.

Bên cạnh việc khảo sát, phân tích dựa trên các nhóm tuổi, định kiến của người dân đối với những người đã mac COVID - 19 khi trở về cuộc sống bình thường cịn được tiến hành trên khu vực sống của người dân Hà Nội bao gồm Nội thành và Ngoại thành. Kết quả khảo sát cũng cho thấy sự giống nhau và vaccine phòng chống. Điều này cũng xuất phát từ lý do mọi người đều nhận thức đúng về những thông tin khuyến cáo từ Bộ Y tế và Chính phủ trong cơng tác phịng, chống dịch bệnh COVID - 19 và mong muốn hạn chế sự lây lan trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất trong nhân thức giữa người dân Nội thành và người dân Ngoại thành chính là nhận định về hoạt động bình thường của người mắc COVID - 19 khi trở về cuộc sống khác nhau trong nhận thức, suy nghĩ của người dân thuộc 2 khu vực khác nhau. Số lượng lớn người dân thuộc 2 khu vực đều đồng ý và hoàn toàn đồng ý với những nhận định về sức khỏe của người từng mắc COVID - 19 là còn yếu ớt, dé tái nhiễm cũng như nên hạn chế đi lai trong 1 khoảng thời gian sau khi khỏi bệnh; không đồng ý với việc người đã từng mắc COVID - 19 chủ quan,

</div>

×