Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.67 MB, 90 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
DE TAI THAM GIA XET GIAI THUONG
“SINH VIEN NGHIEN CUU KHOA HOC NAM 2022” CUA TRUONG DAI HOC LUAT HA NOI
DE TAI: NGUYEN TAC SUY DOAN VO TOI TRONG BO LUAT TO TUNG HINH SU VIET NAM
<small>Thuộc nhóm ngành khoa hoc: XH</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">CÁC TỪ VIET TAT
0097.100015 ....1aầÌỪỒỘỎỪẲỪAMV.Ồ... | 1. Tính cấp thiết của đề tài...--- - 2 cSk‡S E21 1E11111111111112111111111111.11 11111111111 11 1c | 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài...- ¿- 5-2 2 +E+S2+E£EE+EEEESEE2EEEEEErEerkrrees 4 <small>3. Mục tiêu nghiÊn CỨU... ....- c 131113101113 11111 1111 1111 19H ngà 6</small> 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cỨu... - 2 - sSt+k£EE£EEEkEEE+EEEEEEEEEEE121111111111 1.111. x0 7 4.1 Đối tượng nghiên cứu...-- ¿+ 2 St SEEEEE2EEEEEE111E111111111111211111111111 11111111 111110 7 <small>A, PUG Wl TES ESAS MLD name wseanneecen sss. eee Se EDA SCAR A 7</small> 5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu...-- 2-5-2 2+E+SE+E£EE£EE2E£EE2EEEEEEEEerkererkee 7 5.1 Cách tiẾp cận ...---¿- 2 s21 E11 15112111181121111111111E111111111111 1111111111211 11 11g xe 7 <small>5.2 POS TH: HEHÔH BU ae san gen HH HE nhá ca aie gHnhn3 05-3-3030 Ai đà AOR SO I dù HA ROR hân A RA 8</small> 6. Kết cau của đề tài... - -csct tET 1 1111111101111 11 01111 111111 111111111111 11111111111 ga tye 8 NOI DŨNGG... - - SĐT 1115111 15151111 1111111111 1111111111111 1111111111111 1111111111111 rrkE 8 CHƯƠNG |: NHỮNG VAN DE LÝ LUẬN VE NGUYEN TAC SUY DOAN VÔ TOI.8 1.1 Khai niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc S1!Á316171008710319107 119... anes 8 1.1.1 Khái niệm ngun tắc suy đốn vơ tội ...--- 2 St E12 1211121111111 11 11 x6 8 1.1.2 Nội dung nguyên tắc suy đốn vơ tội...-.--- 2 + s22 +E+EE+EEEE2E2EEEEEEEEEErEerkrrrred 1] 1.1.2.1 Người bi buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của Tịa án có hiệu lực pháp luật
1.1.2.2 Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ dé buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tơ tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội...---¿- 2-5 2 +k+E+E£EE+E£EEEEEEEEEEEErkrrerkee 16
1.1.3 Y nghĩa của nguyên tắc suy đốn vơ tội...---¿- - + 2xx EEEEEEEEEEEEEEEEEEerkerrrkd 18 Kết luận chương L...--- ¿5c SE +E‡EE+EEEEEEE2EEE1E1111112111111111111111111111111 1111111 1 y0 26 CHƯƠNG 2: VIỆC THỰC HIỆN NGUN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI TRÊN
PHƯƠNG DIEN LẬP PHÁP...- --- S2 St St 2E EEEE2E9E5E1E1E12E15515511511512111115115121111 11x. EeE 27
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">tơ tụng hình sự năm 2Ï Š... ...- -- - 1111932101111 1111 9 111 9 111 1H HH ng 27 2.1.1 Nguyên tắc suy đốn vơ tội được thê hiện trong các quy định về quyền của người bị <small>DUOC i00... ... 27</small> 2.1.2 Ngun tắc suy đốn vơ tội được thê hiện trong quy định về chứng cứ và chứng
2.1.3 Nguyên tắc suy đốn vơ tội được thé hiện trong các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tổ tung Ninh SU 012757... ..a... 32 2.2 Việc thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong quy định về các giai đoạn tơ tung hình sự cụ thé của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ...--..- ¿55225 *‡+c+vxsseerseseeres 34 2.2.1 Ngun tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn khởi tố và điều tra...--.---- --- 34 2.2.2 Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn truy tỐ...---- 2 + 2+x+xx+xerxererrees 39 2.2.3 Ngun tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự...--- 4I Kết luận chương 2 ...-- ¿52 2S 2E9E12E215112151121121112111111111111111111111 1111111 re. 47 CHƯƠNG 3: THỰC TRANG THUC HIEN NGUYÊN TAC SUY DOAN VÔ TOI VÀ MOT SỐ KIÊN NGHỊ... G11 S3 1111 v31 E1 1111111111111 1111111111111 rree 48 3.1 Thực trạng thực hiện nguyên tắc suy đoán VO {ỘI ... -- --- 5S ssevreeseeree 48 3.1.1 Kết qua đạt QU0C....ceccececcccsescscsessessescssesecscssessssesscsesscsussesecsssassesstsassssetsseatsatassetaneeess 48 3.1.2 Những hạn chế, bất 30 54 3.1.3 Nguyên nhân của những han ché, bat cập khi thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội
<small>4... 62</small> 3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội...--- 68 <small>ee ETE PU LE PS Tfiunn mạ examen essa A URANO SORES, NT. NR 68</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố tụng hình sự là lĩnh vực quan trọng của hệ thong pháp luật Việt Nam, được dựa trên nền tảng quan hệ công và một hệ thống các nguyên tắc chủ đạo đặc trưng. Các nguyên tắc chủ đạo của tố tụng hình sự một mặt đưa con người vào khn khổ thực tiễn thi hành, một mặt vẫn tôn trọng va bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tung. Con người va quyền con người là những giá trị quan trọng và trở thành đối tượng ưu tiên bảo hộ của pháp luật trong tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự là bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyên con người, quyền công dân, là lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền cơng dân nhằm phịng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan, người có thâm quyền tiến hành tố tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đốn vơ tội. Suy đốn vơ tội là ngun tắc “kinh điển” nhất của tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền năm 1948, (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (khoản 2, Điều 14). Đặc biệt, bản Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc này là “phẩm <small>giá cua văn minh nhân loại ”.</small>
Ngun tắc suy đốn vơ tội ra đời rất sớm và được coi là bước tiễn quan trọng trong nhận thức của con người đối với vẫn đề tơn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Ngun tắc suy đốn vơ tội lần đầu tiên được thừa nhận và tuyên bố như quyền cơ bản của con người tại Điều 9 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hoà Pháp năm 1789. Tuyên ngôn nêu rõ: "Moi người déu được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, nếu xét thấy can thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức can thiết cho việc bắt giữ déu bị luật pháp xử phạt nghiêm khắc". “Suy đốn vơ tội” cũng đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Bat cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do déu có qun u cau xét xử trước Tịa án nhằm mục đích dé Tịa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tinh hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái pháp luật”. “Bat kỳ người nào déu có <small>qun doi hỏi việc xét xứ cơng băng và cơng khai do một Toa án có thâm qun, độc lập,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự. ” (các Điều 9.1, 9.2, 9.3, 14.1 Công ước).
Ở Việt Nam, nguyên tắc này lần đầu tiên được quy định rõ ràng tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nguyên tắc này xuất phát từ quy định về quyền con người tại Chương II “Quyển con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” của Hiễn pháp năm 2013, theo đó: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chung minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật” (Khoản 1, Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng: Ngun tắc suy đốn vơ tội.
Ngun tắc suy đốn vơ tội là ngun tắc của một loại hình tố tụng lấy các giá trị cơng bằng, bình dang làm nên tảng: là lá chắn quan trong và hữu hiệu cho việc tôn trọng bảo vệ và bao đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Suy đốn vơ tội có ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học cũng như thực tiễn với vai trò là nền tảng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Việc ghi nhận và áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội giúp cho q trình tố tụng ngày càng tiến bộ, dân chủ, phù hợp với cải cách tư pháp. Khi nguyên tắc suy đốn vơ tội chưa được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của nước ta đã khiến cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không khách quan, rất nhiều các vụ án xử không đúng người đúng tội gây nên nhiều oan ức cho người dân. Vụ án ông Nguyễn Thanh Chanở tinh Bac Giang la mot vi du điển hình.! Vụ án mạng xảy ra ngày 15/8/2003, nạn nhân là chị Nguyễn Thị Hoan. Sau khi tiến hành điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã khởi tố bị can và bắt tạm giam ông Chan với lý do ban chân trái của ông Chan “gần đúng” với vết chân có tại hiện trường va có những dấu hiệu bat minh trong ngày xảy ra vụ án. Tại phiên tòa sơ thâm TAND tinh Bắc Giang đã ra bản án tuyên bố ông Chan phạm tội “Giết người” và áp dùng hình phạt tù chung thân với ơng Chan. Ong Chan kháng cáo kêu oan. Tại phiên tòa phúc thâm ngày 27/7/2004 luật sư bào chữa cho ơng Chan trình bay và dé nghị làm rõ các tình tiết sau: Tình tiết 1: Ong Chan có giết chị Nguyễn Thị Hoan khơng? Vì thời điểm chị Hoan bị giết ghi trong cáo trạng có một số nhân chứng khai là gặp ông Chấn tại nhà ông Chan dé gọi điện thoại thuê (Nha ông Chấn làm dịch vụ điện thoại).
<small>1 140.html (truy cập lần cuối ngày 11/3/2022)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Tình tiết 2: Làm rõ số đo dấu chắn tại hiện trường vụ án có đúng là dau chân của ông Chan hay không? Vi số do dấu chân của kẻ giết chị Nguyễn Thị Hoan dé lại hiện trường vụ án có khác với số đo dấu chân của ông Chấn khi ông Chấn thực nghiệm điều tra. Tuy nhiên, đề nghị của Luật sư không được chấp nhận và Tòa án xét xử phúc thâm đã ra bản án phúc thâm, tuyên y án sơ thầm đối với ơng Nguyễn Thanh Chan. Ơng Chan kêu oan theo thủ tục Giám đốc thâm nhưng không được co quan tiến hành tố tụng có thâm quyền chấp nhận. Đến ngày 25/10/2013, Lý Nguyên Chung kẻ giết chị Nguyễn Thị Hoan ra đầu thú với cơ quan pháp luật và khai nhận mình là người giết chị Hoan vào tối ngày 15/8/2003 dé lay của chị Hoan 02 chỉ vàng... Như vậy với sự thiếu vắng nguyên tắc suy đoán vơ tội trong tố tụng hình sự đã khiến cho ông Nguyễn Thanh Chan bị tù oan hơn 10 năm mới được minh oan theo thủ tục tái thâm.
<small>Ngoài vụ án nêu ở trên, cịn có những vụ án oan khác, trong đó có vụ án của ơng</small> Huỳnh Văn Nén ở tỉnh Bình Thuận. Ơng bị kết án tù chung thân cho cả ba tội giết người, cô ý hủy hoại tài sản của công dân và cướp tài sản của công dân. Chịu tù oan hơn 17 năm ông Nén mới được giải oan theo thủ tục tái thâm khi ngày 10/10/2015 khi Cơng an tỉnh Bình Thuận bắt được Nguyễn Văn Thọ kẻ giết người, cướp tài sản gây ra vụ án oan này.?
Nhìn nhận lại các vụ án oan sai đó, ta dễ dàng nhận thấy: Việc điều tra vụ án không bảo đảm sự thật khách quan và việc xét xử của Tịa án khơng đánh giá khách quan về kết quả tranh tụng tại phiên tòa theo quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp đụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn điện và day du, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội... ”.Chính vì vậy việc tìm hiểu và nắm vững nội dung của nguyên tắc suy đốn vơ tội là rất cần thiết.
Hiện nay, đã có các cơng trình xem xét, nghiên cứu và đưa ra các ý kiến về nguyên tac này ở nhiều góc độ khác nhau, ở những mức độ khác nhau nhưng chúng ta cũng có thé thay việc nghiên cứu vẫn chưa tạo ra được sự chuyền biến cần thiết, đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Ngược lại, van dé này vẫn cịn tơn tại những bat cập gây khó khăn trong thực
<small>? (truy cập lần cuối ngày</small>
<small>11/3/2022)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">tiễn thi hành. Việc tồn tại những bat cập này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ <small>nguyên nhân chủ quan cho tới nguyên nhân khách quan. Chính vì vậy, trong phạm vi bài</small> viết này, nhóm tác giả xin được bàn về “Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” dựa trên khía cạnh các quy định của pháp luật, thực tiễn thi hành và từ đó đưa ra những giải pháp hồn thiện các quy định về nguyên tắc này trong hệ thống pháp luật Việt Nam dé việc thi hành pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự được thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ trước đến nay, nguyên tắc suy đoán vơ tội được coi là một ngun tắc có ý nghĩa rất quan trọng của khoa học tơ tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người. Chính vì vậy ngun tắc suy đốn vơ tội được đề cập trong các luận án, luận văn, tài liệu, bài viết nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Về luận án, luận văn:
1. Luận án tiễn sĩ luật học, “Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong luật tổ tụng hình sự Việt Nam ” của tác giả Nguyễn Thành Long, 2010.
Luận án này tác giả phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về ngun tắc suy đốn vơ tội trong tơ tụng hình sự; sự thé hiện của ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam dién hình là BLTTHS năm 2003 và thực tiễn áp dụng nguyên tắc này, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam.
2. Luận văn thạc sĩ luật học, “Bảo vệ quyén con người thông qua nguyên tắc suy đốn vơ tội theo Hiến pháp Việt Nam” của tác giả Lê Thị Ngọc Hà, 2016.
Trong luận văn tác giả trình bày cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người thơng qua ngun tắc suy đốn vơ tội. Phân tích các quy định liên quan của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tó tụng hình sự năm 2015 về ngun tắc suy đốn vơ tội, từ đó đưa ra một SỐ ý kiến đề xuất về ngun tắc suy đốn vơ tội ở Việt Nam hiện nay.
3. Luận văn thạc sĩ Luật học, “Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ” của tác giả Lâm Anh Tuấn, 2016.
Trong luận văn tác giả phân tích có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn nguyên tắc suy đoán vô tội theo Hiến pháp năm 2013, sự phát triển của các quy định pháp luật liên
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">quan đến suy đốn vơ tội trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2015, qua đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội.
Về bài viết, tạp chí có các cơng trình nghiên cứu:
4. “Sự thể hiện của ngun tắc suy đốn vơ tội trong chế định chứng minh và chứng cứ của luật tơ tụng hình sự Việt Nam của tac giả Dinh Thế Hưng, Tạp chí Nhà nước và <small>pháp luật 11/2009.</small>
Trong bài viết tác giả đề cập đến ngun tắc suy đốn vơ tội - một quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự. Sự thể hiện của ngun tắc suy đốn vơ tội trong chế định chứng <small>minh và chứng cứ của luật TTHS Việt Nam.</small>
5. “ Yêu cẩu thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn xét xử. ” của tac giả Phí Thành Chung, Tạp chí tịa án nhân dân số 12/2017.
Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án có hiệu lực pháp luật, ngun tắc suy đốn vơ tội đặt ra các yêu cầu chi phối toàn bộ hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật của cơ quan tiễn hành tô tụng, người tiến hành tổ tụng trong đó quan trọng nhất là Tịa án-cơ quan xét xử. Bài viết của tác giả thể hiện những nội dung cơ bản của ngun tắc suy đốn vơ tội. Qua đó đặt ra những yêu cau thực hiện ngun tắc suy đốn vơ <small>tội trong giai đoạn xét xử.</small>
6. “Ngun tắc suy đốn vơ tội — ngun tắc hiến định quan trọng trong BLTTHS năm 2015” của Gs.TSKH. Đào Trí Uc, Tạp chí kiểm sát số 02/2017.
Trong bài viết của mình tác giả đề cập tới những nội dung chủ u của ngun tắc suy đốn vơ tội trong Bộ luật tơ tụng hình sự năm 2015. Từ đó tác giả làm rõ bản chất pháp ly và ý nghĩa của ngun tắc suy đốn vơ tội.
7. “Bàn về ngun tắc suy đốn vơ tội” của PGS.TS Đỗ Đức Minh, Tạp chí tồ án, <small>8/2020.</small>
Suy đốn vơ tội là nguyên tắc đặc thù trong tố tụng hình sự, thiếu nó thì chúng ta khơng thê đạt được nền tư pháp công bằng và dân chủ. Bài viết làm rõ khái niệm, nguồn gốc của nguyên tắc suy đoán vô tội; chỉ ra những nội dung cơ bản của ngun tắc suy đốn vơ tội đồng thời làm rõ ý nghĩa chính trị to lớn của nguyên tắc này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">§. “Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ góc nhìn của Kiểm sát viên” của tác giả Mai Đắc Biên và Quách Đình Lực, Tạp chí nghề luật số 9 năm 2020.
Ngun tắc suy đốn vơ tội - thể hiện sự tiếp thu có chọn lọc những tỉnh hoa của nhân loại trong lĩnh vực tố tụng. Trong quá trình thực hiện quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, kiểm sát viên phải tuân thủ và thực hiện triệt để nguyên tắc này theo Điều 13 BLTTHS và quy chế nghiệp vụ của ngành kiểm sát. Trong bài viết của mình tác giả làm rõ van dé, khi xét xử cơng khai tại phiên tịa nếu xét không thay đủ và không thé làm sáng tỏ căn cứ đề buộc tội, kết tội do BLTTHS quy định thì kiểm sát viên phải rút ra một phần hoặc tồn bộ quyết định truy tơ và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bi cáo không phạm tội.
9. “Suy đốn vơ tội và kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật về ngun tắc suy đốn vơ tội” của PGS.TS Hồng Hùng Hải, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 23/2018.
Suy đốn vơ tội vừa là ngun tắc vừa là quyền của con người trong tố tụng hình sự, là thành qua dau tranh lâu dai của nhân loại được pháp luật quốc tế và quốc gia ghi nhận. Việt Nam cũng là một quốc gia đã ghi nhận nguyên tắc này. Bài viết thé hiện quan điểm về ngun tắc suy đốn vơ tội, các quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc này. Qua đó kiến nghị, sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về suy đốn vơ tội.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập các khía cạnh khác nhau về ngun tắc suy đốn vơ tội, nhưng có ít cơng trình nghiên cứu chun sâu và tồn diện về ngun tắc suy đốn vơ tội theo BLTTHS năm 2015. Chính vì vậy nhóm tác giả lựa chọn “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong Bộ luật to tụng hình sự Việt Nam” dé làm đề tài nghiên cứu khoa <small>học.</small>
<small>3. Mục tiêu nghiên cứu</small>
Mục tiêu của cơng trình nghiên cứu là nhằm làm sáng tỏ những van đề lý luận về ngun tắc suy đốn vơ tội; nghiên cứu, phân tích, đánh giá tồn điện những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về ngun tắc suy đốn vơ tội và thực trạng việc thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội ở nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">4.1 Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về ngun tắc suy đốn vơ tội. Theo đó, đề tài phân tích, tìm hiểu, đưa ra định nghĩa ngun tắc suy đốn vơ tội; phân tích, làm rõ nội dung ngun tắc suy đốn vơ tội và đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội với một số nguyên tắc khác trong tô tụng hình sự.
Thứ hai, đề tài nghiên cứu quy định về ngun tắc suy đốn vơ tội trong BLTTHS năm 2015 thông qua các quy định về phần chung trong BLTTHS và các giai đoạn trong q trình tơ tụng hình sự.
Thứ ba, đề tài nghiên cứu thực trạng thực hiện nguyên tắc suy đoán tội ở Việt Nam hiện nay từ đó đưa ra một số kiến nghị nâng cao chất lượng việc thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong q trình tơ tụng.
<small>4.2 Pham vi nghiên cứu</small>
Về lý luận, đề tài tập trung làm rõ khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc <small>suy đoán vô tội.</small>
Về pháp luật, đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của BLTTHS năm 2015 về nguyên tắc suy đốn vơ tội.
Về thời gian, đề tài nghiên cứu khảo sát thực trạng thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội từ năm 2015 đến nay.
Về không gian, đề tài nghiên cứu khảo sát thực trạng trên phạm vi toàn quốc. 5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cách tiếp cận
Dé tài tiếp cận van dé nghiên cứu từ các góc độ sau:
Tiếp cận từ góc độ lý luận về khái niệm, nội dung, ý nghĩa của ngun tắc suy đốn vơ tội và mối quan hệ của nguyên tắc này với một số nguyên tắc khác trong tố tụng hình sự. Tiếp cận từ góc độ pháp lý về quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2015 về ngun tắc <small>suy đốn vơ tội.</small>
Tiếp cận từ góc độ thực trạng việc thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội ở Việt Nam hiện nay, những thành tựu và hạn chế khi thực hiện nguyên tắc này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng H6 Chí Minh, quan điểm của Dang, Nhà nước về xây dựng nha nước pháp quyền va <small>cải cách tư pháp.</small>
Đồng thời để hồn thành đề tài nhóm tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu đặc thù khác nhau như: hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, bình luận, suy luận logic, quy nạp, diễn dịch...
Sử dụng phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn để nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng việc thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội.
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá trong tất cả các chương của đề tài dé làm rõ những van dé lý luận, nội dung, thực trạng việc thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội và đề xuất một số kiến nghi.
Sử dung phương pháp thống kê khi tong hợp các số liệu về thực trang thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội.
6. Kết cầu của đề tài
Ngồi phần mở đầu và kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu gồm có ba chương:
Chương 1: Những van dé lý luận về ngun tắc suy đốn vơ tội.
Chương 2: Việc thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trên phương diện lập pháp. Chương 3: Thực trạng thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội và một số kiến nghi.
<small>NOI DUNG</small>
CHUONG 1: NHUNG VAN DE LY LUẬN VE NGUYEN TAC SUY DOAN VO TOI 1.1 Khai niệm, nội dung, ý nghĩa của ngun tắc suy đốn vơ tội
1.1.1 Khái niệm ngun tắc suy đốn vơ tội
Thuật ngữ “suy đốn” bắt nguồn từ tiếng Latin “praesumptino” có nghĩa là giả định, hay trong tiếng Anh “presump” được hiểu là coi van dé, hiện tượng nao đó là đúng đắn cho đến khi chưa có lý do dé bác bỏ van đề, hiện tượng đó. Trong từ điển Longman ở lĩnh vực luật “presump” được hiểu là “chấp nhận một diéu gì đó là đúng cho đến khi nó được chứng <small>minh là khơng đúng ”.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Suy đốn vơ tội xuất hiện lần đầu trong Bộ luật cô Manu của Ân Độ nhưng cội nguồn của ngun tắc suy đốn vơ tội được xem là có từ thời La Mã cơ đại và được thé hiện trong bản tóm lược Luật La Mã với nội dung: “Chứng minh là công việc thuộc về anh ta T— người khẳng định chứ không phải là người phủ định”. Tuy vậy, suy đốn vơ tội chỉ được chính thức được xem như một nguyên tắc mang tính pháp lý khi luật gia người Pháp Jean Lemonie dé xuất việc ủng hộ cho một cách suy luận mang tính pháp ly rằng “hdu hết mọi người khơng phải là tội phạm ”. Suy đốn vơ tội được ví như là nguyên tắc “vàng” trong tố tụng hình hình sự, một thành tựu vĩ đại của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc này được quy định trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền như Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789 của Cộng hòa Pháp; Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966;... Hiện nay, khi đứng trước yêu cầu bảo vệ quyền con người và xu thế hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, suy đốn vơ tội - một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS đã được ghi nhận và áp dụng rộng rãi trong nền tư pháp của nhiều quốc gia văn minh, trong đó có Việt <small>Nam.</small>
Theo từ điển Tiếng Việt “suy đốn” có nghĩa là: “đoán ra diéu chưa biết, căn cứ vào những diéu đã biết và những giả định. ”3. Thuật ngữ này được hiểu là sự khang định một vấn đề nào đó là đúng cho đến khi chưa bị bác bỏ.
“Vơ tội” có nghĩa là: “khơng có t6i’*. Suy đốn vơ tội được hiểu là sự phán đốn, kết luận về sự vô tội của một người trên cơ sở phân tích những thơng tin giả định. Một người chưa bị coi là có tội từ khi bị buộc tội cho tới khi có bản án kết tội của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Nhà nước và xã hội nhìn nhận một cơng dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, cho đến khi người đó chưa bị kết án bởi một bản án có hiệu lực pháp luật. Điều này thé hiện sự tôn trọng danh dự nhân phẩm của Nhà nước đối với con <small>nguoi.</small>
Ngun tắc suy đốn vơ tội trong TTHS là những tư tưởng chủ dao, co bản mang tính xuất phát điểm, là cơ sở cho việc xây dựng va áp dụng pháp luật tô tụng hình sự bao
<small>3 25 trang 884 Từ điển Tiếng Việt.4 25 trang 108 Từ điển Tiếng Việt.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">đảm người bị buộc tội có quyền được coi là khơng có tội cho tới khi lỗi của người đó được chứng minh theo pháp luật. Pháp luật Việt Nam đã tiếp thu tư tưởng tiễn bộ và ghi nhận ngun tắc suy đốn vơ tội như sau:
Tại thơng tư số 2225-HCTP ngày 24/10/1956 quy định về chan chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa của bị can của Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp đã đề cập đến nội dung chủ yếu của ngun tắc suy đốn vơ tội: “#rước khi tuyên án bị can phải được coi như người vơ tội ” và “khơng nên có định kiến rằng người bị truy tơ nhất định có tội mà đối xử như với người có tội; bị can trước khi tun án được coi như vơ tội dé Tịa án có thải độ hồn tồn khách quan.” Ngày 24/9/1982, Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị, thể hiện sự cam kết của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người nói chung và thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội nói riêng. Sau đó, tại Điều 10 Bộ luật TTHS năm 1988 quy định: “Khơng ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật”. Hiễn pháp 1992 kế thừa và khăng định lại tinh thần suy đốn vơ tội một lần nữa tại Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật”. Trong Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001 nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được quan tâm hơn và được quy định tại Điều 72 Chương V của Hiến pháp với tên gọi của chương là “Quyên và nghĩa vụ cơ bản của công đân”. Tương tự như vậy, BLTTHS năm 2003 ra đời và cũng tiếp tục kế thừa phát huy những thành tựu của các Bộ luật trước, quy định rõ ràng hơn tại Điều 9, theo đó "Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật”. Tại Điều 10 BLTTHS năm 2003 “Xác định sự thật cua vụ an” cũng quy định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT, bi can, bi cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội. Như vậy, cho đến trước Hiến pháp năm 2013, pháp luật Việt Nam có quy định về nguyên tắc suy đốn vơ tội nhưng chưa được cụ thể và chưa bao hàm hết nội dung cơ bản của nguyên tắc suy đốn vơ tội. Mặt khác, về mặt hình thức thì cả trong Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự cũng chưa có điều nào có tên gọi “suy đốn vơ tội”. Ngay cả cụm từ “suy <small>đốn vơ tội” cũng chưa được quy định một cách chính thức trong văn bản quy phạm pháp</small> luật mà mới chỉ được thê hiện trong các cơng trình nghiên cứu khoa học hoặc các văn bản, các cuộc trao đối, hội thảo có tính phân tích, bình luận, diễn giải... pháp luật. Hiến pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">năm 2013 đánh dau bước phát triển mới trong quy định về ngun tắc suy đốn vơ tội “7. Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng mình theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. ”
BLTTHS năm 2015 hiện hành đã tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của các văn bản pháp luật trước, thé chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, đã khái qt thành ngun tắc suy đốn vơ tội tại Điều 13 BLTTHS năm 2015 như sau: “Điêu 13. Suy đốn vơ tội: Người bị buộc tội được coi là khơng có lội cho đến khi được chứng mình theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của <small>Toa an đã có hiệu lực pháp luật.</small>
Khi khơng du và khơng thể làm sang to căn cứ dé buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm qun tiễn hành tô tụng phải kết luận <small>người bị buộc tội không có tội. ”</small>
BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên ghi nhận suy đốn vơ tội là một ngun tắc chính thức có ý nghĩa quan trọng, là bước tiến lớn trong việc bảo vệ con người trong hoạt động <small>tư pháp hình sự.</small>
1.1.2 Nội dung ngun tắc suy đốn vơ tội
Suy đốn vơ tội được xem là ngun tắc nền tảng trong tư pháp hình sự, định hướng cho tồn bộ q trình giải quyết vụ án hình sự, thiếu nó chúng ta khơng thé có một nên tu pháp cơng băng, nhân đạo và văn minh. BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định ngun tắc suy đốn vơ tội khi trước đó BLTTHS năm 2003 hay BLTTHS năm 1998 đều chưa đề cập rõ nguyên tắc này. Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội như sau: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết toi của Tịa án đã có hiệu lực <small>pháp luật.</small>
Khi khơng đu và khơng thể làm sảng tỏ căn cứ dé buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm qun tiễn hành tô tụng phải kết luận <small>người bị buộc tội khơng có toi.”</small>
Từ quy định trên của BLTTHS năm 2015 nhóm tác giả có nhận thấy rằng nguyên tắc suy đốn vơ tội bao gồm hai nhóm nội dung. Những nội dung này cũng chính là những
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">đòi hỏi, yêu cầu là điều kiện cần và đủ mà nếu thiếu đi chúng thì một người bị buộc tội phải <small>được coi là khơng có tội.</small>
1.1.2.1 Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của Tịa án có hiệu <small>lực pháp luật.</small>
Một là, người bị buộc tội có quyền được suy đốn là khơng có tội cho đến khi được <small>chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Day là nội dung quan trong cua</small> ngun tắc suy đốn vơ tội. Ngun tắc này khăng định răng dù đang bị buộc tội, phải tham gia vào quá trình tố tụng và chịu sự hạn chế nhất định về quyền nhưng người bị buộc tội vẫn được suy đốn vơ tội cho đến xuất hiện những tình tiết và sự kiện nhất định - đó là bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của tòa án. Tòa án là cơ quan có thâm quyền duy nhất tuyên bố một người nao đó là phạm tội và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ mà không một cơ quan nào có thâm quyền điều tra hay truy t6 được thực hiện. Việc quy định thẩm quyền của Tòa án như vậy đã đưa đến nhận thức và hành động mới mẻ trong quá trình giải quyết <small>vụ án hình sự, đó là việc khách quan trong việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm</small> cũng như việc đối xử cơng băng với người bị tình nghi phạm tội. Nội dung ngun tắc này địi hỏi cơ quan có thâm quyền tiến hành tố tụng, người có tham quyền tiến hành tố tụng không được đối xử với người bị tình nghi phạm tội như người phạm tội, khơng được định kiến, kết luận một chiều khi giải quyết vụ án. Mọi quyền con người của người bị tình nghi <small>phạm tội phải được tôn trọng ngay cả khi họ đang bị áp dụng một trong những biện pháp</small> như: biện pháp ngăn chặn, bắt người, tạm giữ, tạm giam và họ chỉ bị hạn chế một phần quyền tự do thân thê trong giới hạn pháp luật quy định còn các quyền khác vẫn được bảo <small>đảm."</small>
Và để buộc tội một người đòi hỏi phải chứng minh được lỗi của người bị buộc tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Ngun tắc suy đốn vơ tội đòi hỏi rằng một người chỉ bị kết tội và áp dụng hình phạt phải thơng qua một thủ tục TTHS khách quan công bang. Theo Điều 13 của BLTTHS năm 2015: “øgười bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. ” Như
<small>5 PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật và việc áp dụng trong thực tiễn tố tụng hình</small>
<small>sự ở Việt Nam.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">vậy dé buộc tội một người cần phải chứng minh người đó phạm tội theo một trình tự, thủ tục BLTTHS quy định. Quá trình chứng minh tội phạm được thực hiện ngay khi có tố giác, tin báo về tội phạm và thông qua các thủ tục, khởi tố vụ án, khởi tô bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, truy t6 và xét xử. BLTTHS đã quy định một chương riêng về một số biện pháp điều tra đặc biệt tại Điều 223 ghi âm, ghi hình bí mật, nghe điện thoại bí mật, thu thập dữ liệu điện tử...đồng thời cũng quy định về việc chỉ sử dụng các thông tin, tài liệu thu thập được từ các biện pháp này trong việc khởi tố, điều tra truy tố, xét xử, các tài liệu không liên quan phải tiêu hủy kịp thời. Có thé hiểu, mục đích của việc u cầu về trình tự thủ tục nhằm bảo đảm cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là đúng quy định của pháp luật, gop phan giải quyết vụ án một cách khách quan, cơng bang. Theo đó nếu việc kết tội một người không thông qua thủ tục chứng minh của TTHS hoặc có bat ky su vi pham thu tuc tơ tụng trong quá trình chứng minh của cơ quan, người có thâm quyền tiến hành tơ tụng đều <small>khơng có giá tri.</small>
Suy đốn vơ tội là quyền cơ bản của người bị buộc tội, điều này cũng dẫn tới trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội. Điều 15 Bộ luật TTHS quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyên tiễn hành tơ tụng. Người bi buộc tội có qun nhưng không buộc phải chứng minh là minh vô tội.” Với việc chưa bị kết án bởi một bản án có hiệu lực pháp luật của tịa án thì người bi buộc tội khơng có nghĩa vụ chứng minh là mình vơ tội. Điều đó có nghĩa rằng, cơ quan có thâm qun tiến hành tố
<small>nào mà phải tự mình chứng minh.</small>
Trước hết khẳng định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc VỀ cơ quan có thâm quyền tiến hành tổ tụng. Cơ sở của su khang định này là xuất phat từ mối quan hệ giữa Nha nước và công dân trong tơ tụng hình sự và trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm trật tự an ninh, an toàn xã hội. Như vậy, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thầm qun tiễn hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp như biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ và các biện pháp khác do pháp luật quy <small>định đê xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đây đủ, làm rõ chứng</small>
<small>® Dinh Thế Hưng, Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, 2007, tr</small>
<small>18.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Pháp luật nghiêm cấm sử dụng mọi hình thức <small>truy bức, nhục hình và các hình thức trái pháp luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ</small> và thực hiện các hoạt động tố tụng khác.
Chứng minh tội phạm là cả một q trình, q trình đó diễn ở cả giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tơ và xét xử; mỗi giai đoạn sé có những đặc điểm, tính chất và nhiệm vụ riêng.
O giai doan khoi to vu án hình sự:
Cơ quan có thâm quyền khởi tơ có trách nhiệm chứng minh có hay khơng căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Trong giai đoạn nay cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành kiểm tra, xác minh; thực hiện một số hoạt động dé giải quyết nguồn tin tô giác, tin báo về tội phạm.
Ở giai đoạn diéu tra:
Cơ quan điều tra có trách nhiệm xác định một cách đầy đủ, khách quan, tồn diện, chính xác tất cả những sự kiện, tình tiết phải chứng minh trong vụ án hình sự. Các chứng cứ đều phải được cơ quan điều tra phát hiện, thu thập và đánh giá theo đúng những quy định của pháp luật TTHS. Cơ quan điều tra có thể nhập vụ án đề điều tra theo thâm quyền trong trường hợp bị can phạm nhiều tội; bị can phạm tội nhiều lần; nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can cịn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tai sản do bi can phạm tội mà có. Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong trường hợp cần thiết khi khơng thé hồn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó khơng ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án. Khi điều tra, tùy vào từng vụ án mà thực hiện việc tô chức điều tra theo nhóm hoặc giao cho một điều tra viên tiến hành điều tra. Ở giai đoạn này cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động dé chứng minh tội phạm như lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất và nhận dạng; tiễn hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra...Việc đánh giá chứng cứ trong giai đoạn này chỉ mang tính sơ bộ, nhằm mục đích phục vụ cho việc xét xử.
Ở giai đoạn truy tố:
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra; yêu cầu cơ quan điều tra cung cấp những tài liệu liên quan đến vụ án dé xem xét; hoặc tự minh thực hiện một số hoạt động điều tra, bố sung tải liệu chứng cứ quyết định cho việc truy to; ra quyết định truy tố bị can trước Tòa bằng bản cáo trạng, hoặc trả hồ sơ về dé điều tra bô <small>sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.</small>
Ở giai đoạn xét xử:
Xét xử sơ thâm: mọi tài liệu, chứng cứ vụ án do cơ quan điều tra thu thập được đều <small>được đưa ra xem xét cơng khai. Tịa án khơng ràng buộc những những chứng cứ đã có trong</small> h6 sơ vụ án mà có thé yêu cầu bị cáo, người bào chữa... cung cấp những tài liệu chứng cứ mới. Tòa án chỉ ra bản án, quyết định trên cơ sở những chứng cứ đã được xem xét tại Tòa. Xét xử phúc thấm: trước khi xét xử, Viện kiểm sát có thé tự mình hoặc theo u cầu của Tòa án bổ sung những chứng cứ mới. Chứng cứ cũ, mới phải được xem xét ở Tòa. Quá trình chứng minh này nhằm dé kết luận kháng cáo, kháng nghị có căn cứ hay khơng dé ra quyết định thuộc thâm quyền của mình.
Việc thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm trong mỗi giai đoạn phải được cơ quan có thâm quyền tiễn hành tố tụng thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định do BLTTHS quy định đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội trong tố tụng hình sự: “Điều 7. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tô tụng hình sự: Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định cua Bộ luật này. Không được giải quyết nguon tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy t6, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. ” Khăng định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về người buộc tội cũng đồng nghĩa với việc nếu khơng chứng minh được tội phạm thì người bị buộc tội khơng có <small>toi.</small>
Khơng chỉ khang định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội ngun tắc suy đốn vơ tội cịn thé hiện rõ việc bản thân người bị buộc tội có quyền chứng <small>minh là mình vơ tội nhưng khơng có nghĩa vụ chứng minh sự vơ tội của mình. Tuy khơngcó nghĩa vụ chứng minh tội phạm nhưng khơng có nghĩa là người bi tình nghi phạm tội bị</small> động trong quá trình giải quyết vụ án. Họ có quyền tự chứng minh bản thân mình vơ tội dé bảo vệ chính mình. Người bị buộc tội có thể đưa ra bất cứ lời khai, trả lời các câu hỏi của cơ quan có thâm quyên tiến hành tố tụng nhưng cũng có thê từ chối tham gia vào hoạt động
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">điều tra nào đó hoặc im lặng khơng khai báo bất cứ điều gì. Dù BLTTHS chưa có quy định trực tiếp về quyền im lặng nhưng ở rải rác các điều luật cũng là thể hiện nội dung của nguyên tắc này ví dụ người bị buộc tội không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc phải buộc nhận là mình có tội. Bên cạnh đó người bị buộc tội có thé nhờ tới sự hỗ trợ của người bào chữa, quyền đưa ra chứng cứ chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình...Đồng thời người bị buộc tội có quyền đưa ra các yêu cầu đối với co quan có thầm quyền trong q trình chứng minh giải quyết vụ án như đề nghị cơ quan có thâm quyền tiễn hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bô sung, giám định lại, định giá tài sản... Như vậy người bị tình nghi là tội phạm có quyền chứng minh sự vơ tội <small>của mình thông qua cách thức khác nhau. Việc người bị buộc tội chứng minh mình vơ tội</small> khơng những bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của ho mà cịn giúp cơ quan có thầm quyền xác định chính xác vụ án, xét xử đúng người, đúng tội.
Hai là, người bị buộc tội chi bi coi là có tội khi có bản án kết tội của Tồ án có hiệu lực pháp luật. Theo Hiến pháp năm 2013 Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp và là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước có phán quyết, xác định một người có tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Ban án là một văn bản pháp lý ghi nhận phán quyết của Tòa án và đánh dấu việc kết thúc cả một q trình tơ tụng, phản ánh được những nội dung, kết quả của một vụ án và đồng thời xác nhận răng một người đã thực hiện hành vi vi nguy hiểm đáng ké cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm, chính thức bi coi là “có tội” và phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà nước và xã hội. Điều này có nghĩa là trách nhiệm hình sự chính thức bắt đầu khi bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Từ đó ta thấy tầm quan trọng của ban án đối với quá trình tố tụng hình sự cùng ý nghĩa to lớn của nó trong việc đảm bảo ngun tắc suy đốn vơ tội.
1.1.2.2 Khi không đủ và không thé làm sáng tỏ căn cứ dé buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội
Ngun tắc suy đốn vơ tội là một phương án tối ưu dé bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Nội dung thứ hai này khang định bản chat cốt lõi của nguyên <small>tac suy đốn vơ tội: “lơi khơng được chứng minh, dong nghĩa với sự vô tội được chứng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">minh ”.” Nội dung này của ngun tắc suy đốn vơ tội nhằm nhắn mạnh đến các khía cạnh sau: (i) Dé kết tội một người phải có đủ chứng cứ chứng minh được hành vi phạm tội của họ và việc chứng minh phải tuân theo trình tự, thủ tục do luật định;(1) Nếu không thu thập đủ hoặc không thu thập được căn cứ buộc tội thì cơ quan có thầm quyền phải tun người <small>bị buộc tội vơ tội.</small>
Mọi nghi ngờ về tội phạm của người bi tình nghi phạm tội nếu khơng được loại trừ <small>theo trình tự, thủ tục của pháp luật thì phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bịtình nghi phạm tội. Việc giải thích theo hướng có lợi cho người bị tình nghi phạm tội đã</small> được luật hình sự quốc tế ghi nhận như là một nguyên tac cơ bản. Tại khoản 2 Điều 21, Điều 82 Quy chế tịa án hình sự quốc tế quy định: “Trong trường hợp tội phạm được hiểu hai nghĩa thì phải giải thích có lợi cho người dang bị điều tra, truy tố, xét xử. Nếu có thay đổi trong điều luật áp dụng đối với vụ án thể thì phải áp dụng diéu luật nào có lợi hơn cho ho tức là thực hiện hiệu lực hồi tổ của văn bản pháp luật theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. ” Pháp luật không thé dự liệu được hết tất cả tình huống xảy ra trong cuộc sơng nên can có sự giải thích của cơ quan tiến hành t6 tụng khi phát sinh những van dé mới. Khi giải thích luật phải dựa trên cơ sở khách quan mang tính thực tiễn để đảm bảo tính hợp lý và không trái với nguyên tắc mà pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên việc giải thích luật thường phản ánh ý thức chủ quan của con người nên có những hướng giải thích khác nhau đối với <small>cùng một việc sẽ đưa tới những hậu quả khác nhau theo hướng có lợi hoặc có hại cho người</small> bị tình nghi phạm tội. Thực tế này khơng đáp ứng được địi hỏi của việc bảo vệ quyền con người nên nguyên tắc suy đốn vơ tội đã khăng định mọi nghi ngờ về tội phạm của người bị tình nghi phạm tội nếu khơng được loại trừ theo trình tự, thủ tục của pháp luật thì phải <small>được giải thích theo hướng có lợi cho người bi tình nghi.</small>
Khi thực hiện hành vi phạm tội của mình, tội phạm ln dé lại những dấu vết, chứng cứ ở tại hiện trường, việc của co quan có thầm quyên tiến hành tố tung là phải thu thập những chứng cứ và chứng minh sự hợp pháp của chứng cứ theo quy định của pháp luật dé kết tội người bị buộc tội. Nhưng khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan người có thẩm qun tiễn
<small>7 GS.TSKH Đào Trí Úc, Ngun tắc suy đốn vơ tội — ngun tắc hiến định quan trọng trong BLTTHS năm 2015Tạp chí Kiểm sát số 02/2017.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">hành t6 tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội.Š Quy định này xuất phat từ tinh huống của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có sự khơng rõ ràng trong việc xác định các chứng cứ, các tình tiết liên quan đến vụ án mà cơ quan có thâm quyền tiễn hành tố tụng đã nỗ lực thực hiện các biện pháp điều tra nghiệp vụ mà vẫn khơng thể làm rõ vụ án, dẫn đến tình huống hồi nghi và có sự mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính các cơ quan đó khơng thê khắc phục được. Bởi vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, ở từng giai đoạn, nếu hết thời hạn hoặc không thé, không đủ chứng cứ chứng minh tội phạm thì phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội, các quyền và lợi ích hợp pháp của họ được khôi phục theo quy định của pháp luật. Ví dụ, trong giai đoạn điều tra nếu khơng chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm mà thời hạn điều tra đã hết thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ vụ án; trong giai đoạn xét xử nếu không đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội thì Hội đồng xét xử ra bản án tun bố bị cáo khơng có tội.” Nội dung này của nguyên tắc thé hiện sự nhân đạo của nhà nước đối với người bị buộc tội.
1.1.3 Ý nghĩa của ngun tắc suy đốn vơ tội
Sự xuất hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong BLTTHS có ý nghĩa pháp lý to lớn ghi nhận địa vi của con người, tự do va dan chủ, ghi nhận mối liên hệ giữa tự do và trách nhiệm, dân chủ và pháp luật trong xã hội. Nguyên tắc suy đốn vơ tội u cầu việc buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực khơng cịn sự nghỉ ngờ. Moi sự nghi ngờ đối với
chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ. Theo đó ngun tắc suy đốn vơ tội có <small>những ý nghĩa sau:</small>
<small>° Y nghĩa chính tri, xã hội:</small>
Ngun tắc suy đốn vơ tội có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ con người và quyền con người. Nguyên tắc suy đoán vô tội thé hiện sự đổi mới tư duy pháp lý trên cơ sở khoa học, là một bước tiến quan trọng trong nhận thức, thé hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong TTHS. Nguyên tắc suy đốn vơ tội được ghi nhận như một bảo đảm
<small>8 Điều 13 Bộ luật TTHS năm 2015.</small>
<small>5 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tố tụng hình sự, trang 47.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">pháp lý quan trọng bảo vệ những người yếu thé trong tố tụng hình sự, củng cơ và bảo vệ quyền tự do, bình dang của công dân trước nhà nước pháp quyền, đồng thời bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội, bảo đảm an toàn pháp lý cho mỗi cá nhân trong mối quan hệ với Nhà nước và xác định trách nhiệm của cơ quan có thâm quyền tiến hành tố tụng đối với việc bảo vệ quyền con người, xác định tính khách quan của vụ án. Bởi TTHS là lĩnh vực mà quyền con người dé bị xâm phạm từ phía các cơ quan, người có thẩm quyền tiễn hành tố tụng. Nguyên tắc thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nước trong việc đưa ra phán xét về số phận chính trị, pháp lý của cơng dân, tơn trọng va bảo đảm quyền con người, quyền lợi <small>ích hợp pháp của công dân, bảo đảm dân chủ, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,không bị bỏ lọt tội phạm.</small>
Ngun tắc suy đốn vơ tội là một bảo đảm pháp lý để ràng buộc trách nhiệm cơ quan, người có thầm quyền tiễn hành tố tụng phải khách quan trong trong quá trình chứng minh tội phạm và đồng thời nó cũng là định hướng dé đi đến sự thật khách quan của vụ án. Nguyên tắc suy đốn vơ tội xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người tiến hành tố tụng đồng thời xác định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên <small>buộc tội. Suy đốn vơ tội có nội dung quan trọng và trọng tâm là bảo vệ chính sách nhânđạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, phản ánh</small> bản chất nhân văn, nhân đạo của pháp luật dân chủ và pháp quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, loại trừ việc buộc tội và kết án thiếu căn cứ. Nguyên tắc này đã góp phần bảo đảm sự dung hịa giữa lợi ích của xã hội và quyền tự do của cá nhân; bảo đảm sự cân bang trong hoạt động TTHS giữa một bên là Nhà nước với một bên là người bi buộc tội luôn ở dia vi yếu thế hơn. Do vậy, trong quá trình tiễn hành tố tụng các cơ quan có thâm quyền tiến hành tố tụng cũng như người có thâm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm túc tuân thủ, tôn trọng và chấp hành theo nguyên tắc này đề tránh việc oan sai đối với những <small>công dân vô tội!?. Đơng thời ngun tac suy đốn vơ tội như một lời cảnh báo đôi với những10 Thc chất, việc bảo đảm quyên con người trong TTHS được coi là trục xoay của toàn bộ hoạt động TTHS:vừa làm thé nào dé trên con đường di tìm sự thật và cơng lý thì qun của tat cả nhưng ai có liên quan đềuphải được tôn trọng, bảo dam và bảo vệ. Việc ghi nhận nguyên tắc này sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc, nó sẽco gia tri bắt buộc đối với các cơ quan THTT và có trách nhiệm hon trong hoạt động chứng minh tội phạm,bên cạnh đó, khi có những vụ án rơi vào trường hợp chứng cứ khơng day đủ, thiếu tính vững chắc thì ngườiTHTT sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa ra kết luận về kết quả của vụ án theo nguyên tắc “ suy đốn vơ tội</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">người thực hiện chức năng tổ tung, gìn giữ, bao đảm trật tự an ninh, an toàn xã hội kèm
cân thận, chính xác, chặt chẽ và có trách nhiệm. Khi một vụ án đi vào ngõ cụt, khi mà dù đã làm hết các biện pháp mà các cơ quan tố tụng khơng thê tìm ra chủ thể nào gây ra sự việc đó thì ngun tắc suy đốn vơ tội có tác dụng giảm bớt tình trạng kéo dài thời gian giải quyết vụ án đo phải điều tra bố sung theo yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc Tòa án được quy định trong pháp luật tơ tụng hình sự Việt Nam đồng thời mở ra lỗi thoát cho các vụ án đang đi vào bế tắc.
Nguyên tắc này ra đời thê hiện sự phát triển của kĩ thuật lập pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của co quan TTTH và bảo vệ qun và lợi ích hợp pháp của cơng dân, có ý nghĩa quan trọng trong việc đấu tranh phịng chống tội phạm. Suy đốn vơ tội được thể hiện rõ nét nhất tại BLTTHS năm 2015. Đây là dau mốc quan trọng đánh dau sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung cũng như sự phát triển của pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Nguyên tắc này quyết định, chi phối toàn bộ tính chất hoạt động của cơ quan có nhiệm vụ phát hiện, điều tra xử lý tội phạm.
Nguyên tắc suy đốn vơ tội ra đời nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phô biến, giáo dục pháp luật, củng cô lòng tin của người dân vào co quan tư pháp. Ngun tắc này góp phan thé hiện qun lợi chính đáng của người dân, khiến họ thấy rang bản thân mình ln được pháp luật bảo vệ từ đó tin tưởng vào pháp luật, cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết cho vụ án khi bản thân có liên quan đến vụ án, cởi mở hơn với cơ quan tư pháp, từ đó vụ án được giải quyết nhanh chóng.
© Ýnghĩa pháp by:
Ngun tắc suy đốn vơ tội thê hiện quan điểm pháp lý tiễn bộ, vì con người hướng theo nhân đạo, tiễn bộ, dân chủ. Tố tụng hình sự là tồn bộ các quy định về trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự. Q trình đó kết thúc phải băng việc xác định rõ người bị buộc tội có tội hay khơng. Dé có được kết luận đó cơ quan thắm quyền phải dựa trên nhận thức người đó được suy đốn vô tội. Nguyên tắc bảo đảm thái độ khách quan của các chủ thể tố tụng. Nó địi hỏi các chủ thé tố tụng trong suốt quá trình tố tụng hình sự khơng được coi <small>người bi bat, bi tạm giữ, tạm giam, bi can, bi cáo là người đã có tội mà họ chỉ là người thực</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm, kê cả khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thì một số qun bị hạn chế cịn lại các quyền khác vẫn được đảm bảo.
Ngun tắc suy đốn vơ tội có ý nghĩa trong định hướng xây dựng và thực thi pháp luật. Ngun tắc suy đốn vơ tội trở thành phương châm, định hướng quá trình giải quyết vụ án hình sự mà tất cả các chủ thể của TTHS phải tuân theo. Nguyên tắc tạo điều kiện cho việc phát huy, bảo đảm công bằng quyên cá nhân cho con người. Một cá nhân bị cáo buộc về một tội phạm phải đối mặt với các hậu quả xã hội và cá nhân nghiêm trọng, bao gồm
tác hại xã hội, tâm lý và kinh tế khác. Xét mức độ nghiệm trọng của những hậu quả này cho thấy sự cần thiết của suy đốn vơ tội là rất quan trọng. Đây là điều cần thiết trong một xã hội cam kết công băng và công lý xã hội. Suy đốn vơ tội xác nhận, phản ánh niềm tin của chúng ta rằng các cá nhân là những thành viên đứng đắn và tuân thủ pháp luật của cộng đồng cho đến khi được chứng minh ngược lại. Không chỉ là quyền của người bị buộc tội và nghĩa vụ của bên buộc tội. Suy đốn vơ tội phù hợp với quy luật nhận thức trong tô tụng <small>hình sự một người ln vơ tội khi cơ quan thi hành pháp luật khơng tìm ra chứng cứ và</small> chứng minh là họ có tội. Như là một điều luật bảo vệ bên yếu thế, chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía cơng qun, ngun tắc suy đốn vơ tội bảo vệ chính sách nhân <small>đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đặt ra yêu</small> cầu cao hơn cho những người tiến hành t6 tụng trong việc chứng minh tội phạm: cơ quan tư pháp, điều tra có trách nhiệm phải tìm được bằng chứng chứng minh vô tội song song voi việc tim bang chứng chứng minh có tội. Vì vay, một người bi tình nghi phạm tội dang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử rất có thé họ sẽ không phải là người thực hiện tội phạm nên không có lý do gì mà cơ quan có thâm quyền tiến hành tô tung đã coi họ là tội phạm ở giai đoạn này. Dé bảo đảm tính khách quan của vụ án cần đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải vô tư khi tiến hành tổ tụng, nếu có định kiến người bị tình nghi chính là người phạm tội thì việc giải quyết vụ án sẽ không khách quan dẫn đến làm oan người vô tội, quyền con người bị xâm hại.
Ngun tắc suy đốn vơ tội không chỉ đáp ứng yêu cầu chứng minh mà còn bảo vệ quyền của người bi buộc tội: Hoạt động TTHS vừa có nhiệm vụ bảo vệ xã hội chống lại <small>các hành vi xâm hại từ phía tội phạm vừa bảo vệ quyên của người bị buộc tội khi bị xâm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">hại bởi cơ quan cơng quyền. Có thé thay trong TTHS người bị buộc tội luôn là người bị yếu thé hơn so với Nhà nước, chính vì thé ngun tắc suy đốn vơ tội ra đời góp phần mang lại sự cân băng trong hoạt động TTHS. Mặt khác, chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kì phức tạp, không chỉ là những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm lý của người phạm tội. Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thê trả giá bằng cả tính mạng của con người, do đó nếu chứng minh theo hướng suy đốn có tội thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và ra bản án kết tội kèm theo những hình phạt cụ thé. Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người.
Suy đốn vơ tội là ngun tắc, tư tưởng pháp lý tiễn bộ trong việc chứng minh và bảo vệ quyền con người trong TTHS; suy đoán vơ tội là một ngun tắc có ý nghĩa chính trị to lớn, vượt ra ngoài phạm vi và nội dung pháp lý của nó nhằm ghi nhận địa vị của con người, tự do và dân chủ, ghi nhận mối liên hệ giữa tự do và trách nhiệm, dân chủ và pháp luật trong xã hội. Đồng thời, nguyên tắc này cịn thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với những chủ thê lầm lỡ phạm tội.
1.2 Mối quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội với một số nguyên tắc khác trong tố tụng hình sự
Các ngun tắc cơ bản của tơ tụng hình sự là những định hướng chi phối tat cả hoặc một số hoạt động tổ tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận. Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong tố tụng hình sự. Các nguyên tắc này không chỉ định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự mà cịn định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong thực tiễn. Một số nguyên tắc cụ thể hoá quy định của Hiến pháp được quy định cụ thé trong BLTTHS năm 2015. Suy đoán vơ tội là một ngun tắc có vai trị và ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung và <small>q trình chứng minh nói riêng; giúp hoạt động chứng minh được thực hiện đúng quy định</small> pháp luật, theo trình tự thủ tục nhất định và loại trừ những yếu tố, van đề còn nghi ngờ về hành vi phạm tội. Nguyên tắc mở ra một định hướng tích cực hơn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện nay. Nguyên tắc suy đốn vơ tội cũng mang ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng hình sự; tao ra một hành lang pháp lý trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">việc điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thé tố tụng, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho việc phát huy, bảo đảm các quyền cá nhân, sự công bằng, khách quan bởi lẽ đây là nguyên tắc có mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc khác trong tô tụng hình sự.
Thư nhất, mỗi quan hệ của nguyên tắc suy đốn vơ tội với ngun tắc tơn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
Đây là nguyên tắc bảo đảm không một công dân nào bị xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong mối quan hệ với ngun tắc suy đốn vơ tội, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của cơng dân là ngun tắc mang tính nền tảng, ngun tắc suy đốn vơ tội thé hiện cụ thé và chi tiết của nguyên tắc này. Nguyên tắc suy đốn vơ tội được quy định tại Điều 13 BLTTHS năm 2015 với nội dung “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật ” nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cơng dân. Nếu lỗi không được chứng minh, đồng nghĩa với "sự vô tội được chứng minh". Đây là sự thừa nhận chính thức của xã hội, thông qua các quy tắc pháp lý về việc một người bị tình nghi phạm tội được coi là ngoại phạm chừng nào các bang chứng rõ ràng chống lại người này chưa được cơ quan có thẩm quyền đưa ra ánh sáng. Khi chưa bị coi là có tội thì họ vẫn có đầy đủ các quyên và nghĩa vụ hợp pháp của một người công dân, nên trong bat kì giai đoạn nào của tố tụng hình sự, quyền của họ vẫn phải được tơn trọng và đáp ứng day đủ.
Thir hai, mỗi quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội với ngun tắc bảo đảm quyền bình dang trước pháp luật.
Nguyên tắc bảo đảm quyên bình dang trước pháp luật xác định vị tri của mọi người như nhau trong lĩnh vực hoạt động nhà nước và xã hội cũng như tham gia các hoạt động tố tụng hình sự, khơng có sự phân biệt. Theo như nội dung của nguyên tắc này thì mọi người đều có qun và nghĩa vụ như nhau khi tham gia tố tụng hình sự đồng nghĩa với việc được đảm bảo về quyền và nghĩa vụ cũng phải được thực hiện một cách công băng. Nguyên tắc <small>này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ vụ án một cách khách quan, toàn diện,</small> đầy đủ, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tô chức, cá nhân, người bị <small>buộc t6i,...</small>
Thứ ba, môi quan hệ giữa nguyên tắc suy đốn vơ tội với ngun tắc bảo hộ tính <small>mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phâm, tài sản của công dân.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Với nội dung “Khơng ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo dung các quy định của bộ luật tơ tụng hình sự và chưa được xác định bằng ban án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án.” Người bi tam giữ, bị can, bị cáo vẫn có địa vị pháp lý của công dân nên tất cả các quyền cơ bản của công dân cần được bảo vệ. Nếu cơ quan, người có thâm quyền khơng thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội, đối xử với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như đối với người có tội, có những hành vi vi phạm quyền cơ bản của họ mặc dù họ chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật thì điều đó có nghĩa những người này đã vi phạm quy định của pháp luật quy định về ngun tắc suy đốn vơ tội.
Thư tw, mỗi quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội với ngun tắc xác định sự thật <small>của vụ án.</small>
Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc xác định sự thật của vụ án cũng có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được quy định tại Điều 15 BLTTHS theo đó: “Trách nhiệm chứng mình tội phạm thuộc VỀ cơ quan có thẩm qun tiễn hành tơ tụng... ” Với nguyên tắc này Co quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dung mọi biện pháp hợp pháp dé xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc vé các cơ quan có thâm quyền tiễn hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội. Ngun tắc suy đốn vơ tội cũng đã phân định rõ trách nhiệm trong việc chứng minh tội phạm, đó là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiễn hành tố tụng chứ không phải trách nhiệm của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Cơ quan tiễn hành tố tụng được Nhà nước trang bị các điều kiện về vật chất và con người, hoạt động một cách chuyên nghiệp nên chắc chắn sẽ có nhiều điều kiện hơn các đối tượng khác trong việc chứng minh tội phạm nói riêng và sự thật khách quan của vụ án nói chung. Như vậy, với nội dung của hai nguyên tắc này đã có sự đồng nhất về chủ thể có trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội, thực hiện tốt nội dung ngun tắc suy đốn vơ tội chính là thực hiện tốt nguyên tắc xác định sự thật của vụ <small>án và ngược lại. Điêu này đòi hỏi những người có thâm qun tiên hành tơ tụng, các cơ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">quan có thâm quyền tiến hành tố tụng phải không ngừng nỗ lực dé tim ra những chứng cứ thuyết phục, rõ rang và có căn cứ dé chứng minh tội phạm.
Thứ năm, mỗi quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội với ngun tắc bao dam quyền bào chữa của người bị buộc tội.
Về mối quan hệ này PGS.TS Nguyễn Thái Phúc đã có quan điểm như sau: “Ngun tắc suy đốn vơ tội là nên tảng, là sự thể hiện cô đọng nhất những bảo đảm pháp lý cho quyên bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và chúng tôi dong ý với quan điểm này. ” Bởi vì nếu đã bị coi là có tội ngay từ khi chưa xét xử thì việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ cịn là hình thức. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được quy định nhằm bảo đảm cho họ trình bày quan điểm của mình đối với việc bị buộc tội, đưa ra các chứng cứ cần thiết, đề nghị các cơ quan có thâm quyền tiễn hành tố tụng xem xét tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, quyền bào chữa là tất cả các quyền mà pháp luật quy định dé người bị buộc tội chống lại sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Người bao chữa là người được đào tạo chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Họ được nghiên cứu hồ so vụ án trên cơ sở am hiểu các quy định của pháp luật và được bị cáo hoặc gia đình bị cáo ủy quyền dé bảo vệ cho các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội là điều kiện cần thiết để cơ quan có thâm quyền tiến hành tố tụng xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cả hai nguyên tắc này đều có một điểm chung là đề cao, tơn trọng quyền con người, đều có tính nhân đạo và dân chủ. Xâm phạm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tức là xâm phạm các quyền tự do dân chủ của công dân. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bi can, bị cáo góp phan giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự theo đúng hướng mà nội dung ngun tắc suy đốn vơ tội đã nêu: Khơng ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các quy định của bộ luật t6 tụng hình sự và chưa được xác định băng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án. Nói một cách khác, ngun tắc suy đốn vơ tội có mối quan hệ qua lại mật thiết với quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị <small>cáo.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Tứ sáu, môi quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội với ngun tắc tranh tụng <small>trong xét xử được bảo đảm.</small>
Mối quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội với ngun tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là vô cùng quan trọng, bởi nếu thiếu đi nguyên tắc này thì ngun tắc suy đốn vơ tội sẽ khơng khả thi trên thực tiễn. Nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS có ý nghĩa rất lớn giúp tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Là nguyên tắc tạo sự bình dang giữa các bên tham gia tố tụng khi phân định rõ ràng quyền và nghĩa vu của các bên khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự. Quy định bên buộc tội có những chức năng nhiệm vụ riêng, bên bị buộc tội có những khả năng pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình. Bởi vậy nguyên tắc tranh tụng tạo ra sự bình đăng cho bên buộc tội và bên gỡ tội trên thực tế và khi đó ngun tắc suy đốn vơ tội sẽ phát huy được hiệu quả của mình.
Ngun tắc suy đốn vơ tội được coi là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật tơ tụng hình sự, nội dung của ngun tắc được đề ra đều có mối quan hệ gan bó mật thiết, có mối liên hệ chặt chẽ với các nguyên tắc khác. Các quy định liên quan đến ngun tắc suy đốn vơ tội được thé hiện trong các giai đoạn tố tụng hình sự, tạo thành hệ thống các quy phạm ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội.
Kết luận chương 1
Tư pháp hình sự là một lĩnh vực hết sức nhạy cam, rất dé xâm phạm tới quyền của con người. Chính vì thé sự ra đời của những nguyên tắc trong lĩnh vực hình sự giúp tạo ra một cơ chế pháp lý vững chắc đảm bảo quyền con người. Ngun tắc suy đốn vơ tội xuất hiện khá sớm trên thế giới nhưng ở Việt Nam ngun tắc suy đốn vơ tội lần đầu tiên được ghi nhận vào tố tụng hình sự Việt Nam và đầy đủ nhất trong BLTTHS năm 2015. Nguyên tắc này được đánh giá là một thành tựu vĩ đại của văn minh pháp lý, là một bước tiến quan trọng trong nhận thức của con người trong việc tôn trọng và bảo vệ qun lợi hợp pháp của chính mình. Với tư cách là một nguyên tắc nền tảng của tố tụng hình sự nguyên tắc thể hiện nội dung người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo đúng quy định của pháp luật và bị Tòa án kết tội băng bản án có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc này mang ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong q trình giải quyết vụ án hình sự, khi nó kết nối với nhiều nguyên tắc khác trong tố tụng hình sự, góp phần xem xét tồn diện vụ án <small>một cách chính xác, tránh tình trạng oan sai.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">CHƯƠNG 2: VIỆC THỰC HIỆN NGUN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI TRÊN PHƯƠNG DIỆN LẬP PHÁP
2.1 Việc thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong quy định tại phần chung của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
2.1.1 Ngun tắc suy đốn vơ tội được thể hiện trong các quy định về quyền của <small>người bị buộc tội</small>
mình; được đưa ra các chứng cứ; được trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thâm quyên tiễn hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; có qun trình bày lời khai, ý kiến của mình hoặc khơng buộc phải đưa ra các lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay
liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của BLTTHS khi có yêu cầu; bi cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tô tụng nếu được chủ tọa phiên tòa đồng ý...và nhiều quyền khác.
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Tại điểm d khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm 2015 người bị giữ trong trường hop khan cấp, người bi bắt có quyền “trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chong lại chính mình hoặc buộc phải nhận minh có tội, tự mình bào chữa, nhờ người bào chữa”. Tại điểm c, khoản 2, Điều 59 BLTTHS quy định về quyền của người bị tam giữ thé hiện ngun tắc suy đốn vơ tội như sau: “c) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải dua ra lời khai chong lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; ” Bị can có quyền “d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chong lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; ” quy định tại điềm d khoản 2 Điều 60 BLTTHS. Tương tự bị cáo có quyền “h) Trinh bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận minh có tội” được thể hiện tại điểm h khoản 2 Điều 61 BLTTHS. Quy định quyên trình bày lời khai, trình bày ý kiến của người bị buộc tội góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, đồng thời giúp họ thực hiện tốt hơn quyền
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">bào chữa, họ có thể đưa ra các tình tiết có lợi để chứng minh mình vơ tội. Việc quy định quyền không đưa ra lời khai chống lại chính mình có thé hiểu là người bị buộc tội có quyền khơng cơng khai những thơng tin bất lợi cho bản thân mình. Mặc dù khơng quy định rõ ràng nhưng quy định này có thé hiểu tương đương với quyền được im lặng của người bị buộc tội. Đây là một bước tiễn mới trong việc ghi nhận quyền được 1m lặng với tư cách là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong tư pháp hình sự. Quyền được im lặng là một chuẩn mực được pháp luật của nhiều nước trên thé giới thừa nhận. Có nhiều quan điểm về quyền được im lặng như: quyền im lặng không phải quyền con người, quyền im lặng khác với quyên bào chữa, quyền bào chữa mới là quyền cơ bản của con người. Nhóm tác giả khơng đồng tình với quan điểm này và theo nhóm tác giả quyền được im lặng chỉ là một trong những vấn đề phát sinh của nguyên tắc suy đốn vơ tội. Cần phải hiểu quyền được im lặng với nội hàm là quyền của người bị buộc tội.
Bào chữa là một chức năng quan trọng trong tố tụng hình sự “Ở đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa. ” Đây là hoạt động không thé thiếu trong q trình giải quyết vụ án hình khơng chỉ nhằm bảo vệ quyền của người bị buộc tội mà bảo đảm cho việc giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa. Người bị buộc tội là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án nói chung cũng như các tình tiết nói riêng liên quan đến họ, việc quy định người bị buộc tội có quyền bào chữa như một bảo đảm pháp lý hết sức cần thiết để họ đưa ra những chứng cứ, lý lẽ chứng minh, gỡ tội cho mình. Pháp luật bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội băng việc tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện các quyền như đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
buộc tội khơng tự bào chữa được cho mình như thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết pháp luật <small>cũng như khơng có khả năng thu thập chứng cứ... Vì vậy pháp luật quy định cho phép ngườibị buộc tội được nhờ người bào chữa. Pháp luật TTHS quy định người bào chữa là: “7.</small> Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiễn hành tô tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm qun tiễn hành tơ tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. 2. Người bào chữa có thể là: a) Luật sư; b) Người đại diện <small>của người bị buộc tội; c) Bào chữa viên nhân dan; d) Trợ giúp viên pháp ly trong trường</small> hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp ly.” Có thé thay rang người bao
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">chữa với kiến thức pháp luật đã có cộng với các kỹ năng đã được đào tạo và những kinh nghiệm nghề nghiệp tích lũy được sẽ giúp người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo về mặt pháp lý dé bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ho cũng như đưa ra các tình tiết dé chứng minh người bị buộc tội vô tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Sự tham gia của người bào chữa vào vụ án sẽ góp phần cho việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng đắn, tránh làm oan người vô tdi. Đề người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa BLTTHS quy định cụ thé một số quyền của người bào chữa tại khoản 1 Điều 73 BLTTHS như: quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền tiếp cận chứng cứ và tài liệu có liên quan đến vụ án; quyền được đưa ra các yêu cầu, dé nghị có liên quan đến q trình tố tụng như: đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiễn hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dich thuật...Ngoài ra pháp luật cũng quy định quyền được chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội, quy định trách nhiệm của tòa án trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội để bảo vệ tốt nhất quyền lợi chính đáng của người bị buộc tội.
2.1.2 Nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện trong quy định về chứng cứ và <small>chứng minh</small>
Dé phát hiện và xử lý chính xác khách quan tội phạm và người phạm tội việc chứng minh trong tơ tụng hình sự nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án. BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan có thầm quyền tiến hành tố tụng. Khi chứng minh tội phạm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tơ tụng phải làm rõ những vấn dé được quy định tại Điều 85 của BLTTHS: “7. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay <small>vơ ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng; mục dich, động cơ phạm toi; 3. Những</small> tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; 4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; 5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; 6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. ”
Theo quy định này thì điều đầu tiên phải chứng minh là có hay khơng hành vi phạm tội, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Đây là yếu tổ đóng
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">vai trò quyết định hoạt động tiếp theo của cơ quan có thẩm qun tiến hành tơ tụng. Bởi nếu khơng có hành vi phạm tội thì sẽ khơng có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can nhưng nếu có hành vi phạm tội thì sẽ có quyết định khởi tố. Cơ quan có thâm quyền tiễn hành tố tụng khơng chỉ chứng minh có hành vi phạm tội mà phải chứng minh theo hướng ngược lại là khơng có hành vi phạm tội xảy ra. Quy định này là hợp lý bởi khi tiến hành điều tra ở những bước dau, có nhiều trường hợp cơ quan có thâm thầm quyền tiến hành tố tụng khơng biết hoặc khơng xác định được là có hành vi phạm tội và tội phạm xảy ra hay khơng từ đó phải xem xét ở hai khía cạnh dé tránh tình trạng định hướng sai lầm trong các hoạt động tố tụng tiếp theo. Việc chứng minh có hay khơng tội phạm xảy ra luôn được đặt ra trong suốt quá trình chứng minh ở tất cả các giai đoạn tơ tụng cho đến khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của tịa án. Thậm chí van đề này vẫn còn tiếp tục được đặt ra ở thủ tục giám đốc thâm, tái thẩm. Dé làm rõ các van đề cần chứng minh các cơ quan có thẩm quyền tiến hành t6 tụng phải dựa vào các chứng cứ, các tình tiết khách quan của vụ án. <small>Pháp luật hiện hành quy định chứng cứ là “Ching cứ là những gì có thật, được thu thập</small> theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. ” Chứng cứ trước hết là những gì có thật được thu thập theo quy định của pháp luật. Chứng cứ được dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng hành vi phạm tội. Khoa học tố tụng hình sự chia chứng cứ ra làm hai loại là chứng cứ buộc <small>tội và chứng cứ gỡ tội. Chứng cứ buộc tội là chứng cứ, chứng minh được có hành vi phạm</small> tội xảy ra, có người phạm tội và có các tình tiết khăng định trách nhiệm hình sự của họ. <small>Chứng cứ gỡ tội là chứng cứ, chứng minh được khơng có hành vi phạm tội, khơng có người</small> phạm tội hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trên thực tẾ, đa số các vụ án đều có cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội; vì thế trong quá trình chứng minh cần phải thu thập cả hai loại chứng cứ, đánh giá tổng hợp tất cả chứng cứ thu được thì mới giải quyết vụ án một cách khách quan, tồn điện và cơng bằng.
Đề khăng định một người là có tội hay khơng thì trong q trình chứng minh cơ quan có thầm quyền tiến hành tố tụng phải tn thủ ngun tắc suy đốn vơ tội. BLTTHS quy định co quan có thâm quyên tiến hành tố tụng được thu thập tat cả chứng cứ từ nhiều nguồn <small>khác nhau như tự mình thu thập chứng cứ; yêu câu cơ quan, tô chức, cá nhân cung câp</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Sau khi thu thập chứng cứ, cơ quan có thâm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra tính xác thực và tính hợp pháp của chứng cứ. Ngun tắc suy đốn vơ tội u cầu hoạt động kiểm tra chứng cứ phải thật cân trọng tránh đưa ra những tài liệu chứng cứ không đúng sự thật hoặc được thu thập một cách bất hợp pháp không liên quan đến vụ án để chứng minh có hay khơng tội phạm xảy ra. Cụ thé, những tinh tiết, sự việc có that nhưng khơng được thu thập <small>theo trình tự, thủ tục của BLTTHS thì khơng có giá trị pháp lý va khơng được dùng làm</small> căn cứ dé giải quyết vụ án. Tùy theo đặc điểm, tính chat của từng loại chứng cứ mà BLTTHS quy định trình tự, thủ tục thu thập khác nhau nhằm bảo đảm tính khách quan và giá trị chứng minh của chứng cứ trong tat cả các giai đoạn tô tung. Quy định như vậy vừa rõ rang, vừa đầy đủ, khắc phục được những biéu hiện tùy tiện tránh được những trường hợp các co quan có thâm quyền đưa những tài liệu, chứng cứ thu thập được khơng theo trình tự thủ tục quy định của pháp luật làm chứng cứ gây ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Từ đó <small>đảm bảo được các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội; tránh được những hành động xâm</small> phạm tới quyền con người là quyền được suy đốn vơ tội của người bị buộc tội.
Sau khi thu thập chứng cứ cơ quan có thâm quyên tiến hành tổ tụng tiễn hành đánh giá chứng cứ. Đánh giá chứng cứ là biện pháp dé kiểm tra chứng cứ, đánh giá tông hợp các <small>chứng cứ thu thập được... Việc đánh giá chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng</small> minh tội phạm, góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Khi nghiên cứu, đánh giá chứng cứ địi hỏi cơ quan có thâm quyền tiến hành tổ tụng khách quan khơng định kiến với sự có tội hay khơng có tội của bị can, bi cáo phải so sánh, đối chiếu, các chứng cứ trong mối tương quan với nhau dé từ đó đưa ra những kết luận chính xác.
Trong các quy định về nguồn của chứng cứ thì những quy định về lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bi can, bi cáo thê hiện rõ nguyên tắc suy đoán vơ tỘI. Đề đảm bảo tính khách quan của lời khai bị can, bị cáo và dam bảo quyền bào chữa cho họ pháp luật quy định cụ thê tại Điều 98 BLTTHS “2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thé được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội cua bị can, bi cáo làm chứng cứ duy nhát để buộc tội, kết tội. ” Như vậy dé buộc tội cơ quan có thâm quyền tiến hành tố tụng khơng thé dựa vào lời khai duy nhất <small>của bị can, bị cáo mà phải phân tích, xem xét kỹ lưỡng đặt nó vào cả quá trình điêu tra tội</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">phạm dé tránh tinh trạng người bi buộc tội bi ép cung, bức cung, dùng nhục hình buộc phải nhận tội dé kết thúc vụ án hoặc vì một lý do nào đó mà người bi buộc tội phải nhận tội trong khi họ không gây ra hành vi phạm tội. Quy định này thể hiện nguyên tắc suy đoán vô tội ở chỗ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thầm quyền tiến hành tơ tung, người bị buộc tội vẫn được coi là không có tội cho đến khi vụ án kết thúc, có bản án có hiệu <small>lực pháp luật của tịa án.</small>
Bên cạnh đó BLTTHS năm 2015 cịn thé hiện rõ ngun tắc suy đốn vơ tội ở những quy định về thu thập và cách thức thu thập chứng cứ của người bào chữa. Chăng hạn như người bào chữa đề nghị co quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa...Với quy định này người bào chữa có thê tiếp cận và thu thập được nhiều tài liệu chứng cứ hơn dé bảo vệ cho người bị buộc tội.
2.1.3 Ngun tắc suy đốn vơ tội được thể hiện trong các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối
hoặc phạm tội quả tang nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trỗn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở việc điều tra, truy tố, <small>xét xử và thi hành án hình sự. Biện pháp ngăn chặn khơng phải là hình phạt mà nó là biện</small> pháp cưỡng chế tơ tụng hình sự có tính chất tạm thời trước khi bản án có hiệu lực pháp luật của Tịa án kết tội một người là đã thực hiện hành vi phạm tội. Pháp luật quy định chặt chẽ căn cứ, điều kiện thẩm quyền thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, tăng cường các giải pháp nhằm chống bức cung, nhục hình, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm sốt hoạt động tố tụng hình sự.
Ngun tắc suy đốn vơ tội được thể hiện ngay ở biện pháp giữ người trong trường hợp khan cấp tạo Điều 110 BLTTHS. BLTTHS năm 2015 đã thay đôi cum từ “bắt người” thành “giữ người”, đây là một bước tiễn mới của các nhà làm luật thé hiện rõ sự tơn trọng quyền con người. Theo đó việc “bắt người” tác động trực tiếp tới quyền tự do thân thê của con người, không thê áp dụng một cách tùy tiện. Việc bắt người phần nào phản ánh thái độ định kiến người bị buộc tội là người có tội, điều này vi phạm ngun tắc suy đốn vơ tội. BLTTHS hiện hành sử dụng thuật ngữ “giữ người” đã thể hiện sự khách quan của pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">luật. Về cơ bản các căn cứ để xác định giữ người trong trường hợp khẩn cấp về cơ bản vẫn giống các căn cứ dé bắt người trong trường hợp khan cấp song điểm tiến bộ được thê hiện ở đây là căn cứ dé “giữ” người chứ khơng phải dé “bat” người; nó giảm nhẹ di tính nghiêm trọng của vụ việc; từ đó yêu cầu người có thâm quyền khơng được định kiến với người bị buộc tội mà phải đối xử với họ như những cơng dân bình thường.
BLTTHS quy định các căn cứ dé áp dụng biện pháp tạm giữ tại Điều 117 như sau: “1.Tạm giữ có thé áp dung đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cap, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, dau thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. ” Việc quy định chặt chẽ về biện pháp tạm giữ nhằm bảo đảm hành vi, quyết định của người có thẩm quyền được giới hạn trong phạm vi luật quy định, hạn chế mức thấp nhất việc ảnh hưởng đến quyền của con người, quyền cơng dân của người <small>bi tạm giữ.</small>
Khi chưa có đủ căn cứ dé giữ người, bắt người trong trường hợp khan cấp và tạm giữ thì cơ quan điều tra phải trả tự do cho những người này nếu hết 12 giờ kể từ khi thực hiện việc giữ người, bắt người trong trường hop khan cấp, tạm giữ. Quy định nay bảo đảm sự đúng dan của chủ thé có thâm quyền khi ra quyết định áp dụng pháp luật và phù hợp với tinh thần suy đoán vơ tội của luật, bởi vì theo luật khi mọi van đề khơng có đủ căn cứ dé <small>buộc tội thì phải suy đốn theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.</small>
Tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất trong số các biện pháp ngăn chặn. Pháp luật quy định các căn cứ dé áp dụng biện pháp tạm giam tại Điều 119 BLTTHS qua đó người bị buộc tội có thé biết việc mình bị áp dụng biện pháp tạm giam là đúng hay sai dé từ đó có cơ sở dé khiếu nại về quyết định tạm giam dé bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình. Đồng thời cũng quy định những căn cứ pháp lý dé buộc chủ thể có thâm quyên phải tuân thủ khi áp dụng biện pháp tạm giam mà không được lạm quyên. Biện pháp tạm giam không được xuất phát từ ý chí chủ quan của người có thâm quyền mà phải xuất phát từ những quy định của pháp luật, đáp ứng những đòi hỏi khách quan của thực tiễn. Khi áp dụng biện pháp này cơ quan, người có thâm quyền phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp của việc áp dụng biện pháp tạm giam.
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn như giữ người, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam địi hỏi phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Quy định này thê
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">hiện rõ tinh thần của nguyên tắc suy đốn vơ tội là mọi quyết định của cơ quan, người có thâm quyên đối với người bị buộc tội phải có căn cứ xác định và phải được tiễn hành theo thủ tục của pháp luật quy định. Với sự kiểm soát chặt chẽ như vậy hạn chế tình trạng vi phạm ngun tắc suy đốn vơ tội, thay được sự công bằng của pháp luật.
Sự thê hiện ngun tắc suy đốn vơ tội cịn được thé hiện ở một số biện pháp khác như: bảo lĩnh, đặt tiền bảo đảm. Day là biện pháp ngăn chặn thay thé biện pháp tạm giam được áp dụng với bị can, bị cáo. Đề được áp dụng biện pháp này thì bị can, bị cáo phải tuân thủ một số việc như: không cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự that, không tiêu hủy, gia mạo chứng cứ, tài liệu đồ vật của vụ án...Việc bảo đảm những nội dung này chính là bảo đảm căn cứ dé chứng minh một người là có tội hay khơng. BLTTHS đã có những hướng mở trong việc chứng minh tội phạm, han chế tư tưởng duy ý chí của chủ thể có thâm quyền tiễn hành tố tụng. Quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội được bảo đảm. Tạo điều kiện cho quá trình chứng minh, thu thập chứng cứ được minh bạch, công khai. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng đắn có tác dụng bảo đảm quá trình tiễn hành tố tụng được khách quan, góp phan phịng chống tội phạm.
2.2 Việc thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong quy định về các giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
2.2.1 Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn khởi tố và điều tra Giai đoạn khởi to:
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của quá trình t6 tụng hình sự, cơ quan có thâm quyền có nhiệm vụ xem xét xem có dấu hiệu tội phạm hay khơng và ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Khởi tổ bị can là hoạt động áp dụng pháp luật TTHS của cơ quan có thầm quyền trong đó xác định một người, pháp nhân đã thực hiện tội phạm dé bắt đầu tiễn hành điều tra. Quyết định khởi té là cơ sở pháp lý cho việc điều tra. Hoạt động điều tra và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế chỉ được thực hiện sau khi có quyết định khởi tố. Nguyên tắc suy đốn vơ tội thé hiện trong giai đoạn khởi tô như sau:
Ở giai đoạn này các cơ quan có thầm quyền khởi tố chỉ có nhiệm vụ xác định sự việc xảy ra có hay khơng có dấu hiệu tội phạm dé ra quyết định khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự mà chưa được kết luận là ai là người có tội. Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu <small>tội phạm, thì người có hành vi này chưa là bị can, bị cáo. Khi chưa phải là bị can, bị cáo thì</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">họ khơng phải có nghĩa vụ của bị can, bị cáo đồng thời khi chưa là bị can, bị cáo nếu họ tron tránh thì được ra quyết định truy nã, áp giải.. .và không áp dụng bat kỳ biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nào đối với họ trừ biện pháp giữ khẩn cấp, bắt, tạm giam, khám xét. Muốn khởi tố bị can và áp dụng biện pháp cưỡng chế TTHS cần phải có chứng cứ đầy đủ và toàn diện. Muốn xác định được dấu hiệu của tội phạm được dựa vào các căn cứ quy định tại Điều 143 BLTTHS căn cứ khởi tố vụ án hình sự: “Chi được khởi tổ vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cu; T\ 6 giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tô chức, cá nhân; Tin bdo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tổ của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyên tiễn hành to tụng trực tiếp phái hiện dau hiệu tội phạm, Người phạm tội tự thú `”.
Từ các quy định trên có thé khang định, chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dau hiệu tội phạm. Quy định như vậy mới đảm bảo tính chính xác của vụ án hình sự, tránh tình trạng khởi tổ trên diện rộng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ich hợp pháp của công dân. <small>Trong thời gian qua, từ các thông tin được phản ánh trên các phương tiện thơng tin đại</small> chúng đã cho thấy có một số người đã gửi đơn tố giác, yêu cầu khởi tố hình sự đối với bà Nguyễn Phương Hang (ở quận 1, TP Hồ Chí Minh) vì cho rang bà Hang đã vu khống, xúc phạm đến danh dự của họ. Nội dung vụ việc cụ thé như sau: Ba Nguyễn Phương Hang da nhiều lần livestream nói về việc các cá nhân, ca sĩ kêu gọi quyên góp từ thiện cứu trợ đồng bào miền Trung gặp thiên tai, lũ lụt năm 2020 không minh bạch trong việc thu chỉ như ca sĩ Thủy Tiên, nghệ sĩ Trấn Thành, ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng...Các buổi livestream này thu hút được rất nhiều lượt xem, tạo ra nhiều ý kiến, tranh luận trái chiều trên không gian mạng, gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của một SỐ nghệ sĩ nói trên. Bộ cơng an đã chỉ đạo Cục cảnh sát hình sự thụ lý, kiểm tra và xác minh các nguồn tin,va phối hợp với ngân hàng ra <small>soát, xác định tài khoản đã huy động từ thiện. Sau đó, Cục cảnh sát hình sự đã ra thông báo</small> kết quả giải quyết xác định: Bà Trần Thị Thủy Tiên (ca sĩ Thủy Tiên), ông Huỳnh Minh Hưng (ca si Dam Vĩnh Hưng), ông Huỳnh Tran Thành (nghệ sĩ Tran Thành)...khơng có hành vi gian đối, khơng chiếm đoạt tiền từ thiện do người dân đóng góp, ủng hộ cứu trợ đồng bào miền Trung gặp thiên tai, lũ lụt năm 2020!!. Như vậy khi nhận được một số tin tố
<small>1! 18/cac-tin-tuc-khac/cuc-canh-sat-hinh-su-thong-tin-ve-nhung-phat-ngon-cua-ba-phuong-hang (truy cập lần cuối ngày 12/3/2022)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">giác của cá nhân về một vụ việc đó cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án không được khởi tố vụ án ngay mà phải cần phải xác minh, tìm hiểu, làm rõ hành vi tố giác về vi phạm này có cơ sở hay khơng. Nếu là những tố giác bia đặt thì khơng khởi tố vụ án hình sự đồng thời cũng đưa ra những biện pháp xử lý đối với hành vi vu khống, bịa đặt. Chính vì vậy Điều 147 BLTTHS quy định: “Trong thời hạn 20 ngày ké từ ngày nhận được tô giác, tin bdo về tội phạm, kiến nghị khởi to, Cơ quan diéu tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định: Quyết định khởi to vụ án hình sự; Quyết định khơng khởi tơ vu án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tơ giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố `.
Theo đó, sau khi kiểm tra, xác minh nếu khơng có dấu hiệu của tội phạm thì cơ quan có thầm quyền giải quyết không được khởi tô vụ án hình sự. Các căn cứ khơng khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 157 BLTTHS: “Khơng có sự việc phạm tội; Hành vi khơng cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội cua họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ an có hiệu lực pháp luật; Da hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Toi phạm đã được đại xa; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ truong hợp can tái thẩm doi với người khác; Tội phạm quy định tại khoản 1 các diéu 134, 135, <small>136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 cua Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện</small> của bị hai không yêu câu khởi tổ”. Như vậy trong những trường hợp các chứng cứ, thông tin, tài liệu chưa đầy đủ để kết luận là có hay khơng dấu hiệu phạm tội thì ngun tắc suy đốn vơ tội cần được áp dụng, người bị buộc tội nên được suy đốn có lợi. Đây là một điểm tiễn bộ thé hiện tinh thần của ngun tắc suy đốn vơ tội trong BLTTHS năm 2015.
Giai đoạn diéu tra:
Điều tra là một giai đoạn của tơ tụng hình sự, cơ quan điều tra sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định dé xác định tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác dé căn cứ vào đó điều tra, giải quyết vụ án. Giai đoạn này có nhiệm vụ xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết vụ an; lập hồ sơ vụ án, đề nghị truy tố bị can ra Tòa án dé xét xử hoặc ra quyết định khác để giải quyết vụ án; ngồi ra giai đoạn điều tra cịn xác định nguyên nhân và điều kiện <small>phạm tội, yêu câu các cơ quan, tô chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn</small>
</div>