Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung) - Trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên, Trương Quang Vinh (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.38 MB, 214 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

GIÁO TRÌNH

LUẬT HINH SỰ VIỆT NAM

PHẦN CHUNG

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>Mã số: TPG/K - 22 - 39</small>

<small>2000-2022/CXBIPH/04-194/TP</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>Chủ biên</small>

GS.TS. NGUYÊN NGỌC HÒA. Tập thể tác giả

GS.TS. NGUYEN NGOC HOA Chuong I dén Chuong XI <small>PGS.TS. TRUONG QUANG VINH Chương XII</small>

TS. HOÀNG VĂN HÙNG Chương XIII GS.TS. LÊ THỊ SƠN Chương XIV TS. NGUYEN TUYET MAI Chương XV TS. HOÀNG VĂN HÙNG Chương XVI TS. TRAN VĂN DŨNG

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

LỜI GIỚI THIỆU

<small>Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tồn tập) được biên</small>

soạn lần đầu năm 2000 trên cơ sở kế thừa, phát triển các giáo trình luật hình sự của Nhà trường được ấn hành từ năm 1992 và déu do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa làm chủ biên. Giáo trình này đã được in lại nhiễu lấn.

Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 được Quốc hội nước

<small>Cong hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XIII, ki họp thứ 10</small>

thơng qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, được sửa đổi, bồ sung

<small>năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.</small>

Trước tình hình đó, tập thể tác giả đã tổng rà sốt lại tồn bộ Giáo trình về nội dung khoa hoc cũng như về hình thức thể hiện. Trên cơ sở rà soát này, các tác giả đã sửa đổi, bồ sung

<small>và hồn thiện Giáo trình Luật hình sự Việt Nam cho phù hợpvới nội dung của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, được</small>

sửa đổi, bồ sung năm 2017, kịp thời phục vụ nhu cẩu học tập, nghiên cứu, giảng dạy của giảng viên, sinh viên và các đổi

<small>tượng khác.</small>

<small>Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học</small>

Luật Hà Nội được tái bản có sửa đổi, bồ sung lan này gom 3 quyền: Quyển 1 về Phan chung; Quyển 2 và Quyển 3 về Phan các tội phạm. Các chương của Giáo trình về cơ bản vẫn giữ kết cấu như các lan in trước đây, cụ thể:

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Về nội dung, ở các chương về Phân chung, Giáo trình được kết cấu theo các vấn đề và ở các chương về Phần các tội phạm, Giáo trình được kết cầu theo nhóm các lội phạm (các

chương trong Phân các tội phạm của Bộ luật Hình sự).

- Về sự giải thích, Giáo trình đảm bảo kết hợp giữa tính

<small>khoa học với tính có căn cứ theo luật định. Tuy nhiên, với yêu</small>

cẩu của chương trình đào tạo luật ở bậc đại học, sự giải thích trong Giáo trình cũng có mức độ nhất định; mặt khác, nhiều van dé trong Bộ luật cần phải được sự giải thích chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyên.

- Về cách trình bày, các tác giả lưu ý bạn đọc về các định nghĩa khái niệm dưới hình thức in nghiêng. Các chữ viết tat, các thuật ngữ được sử dụng thống nhất ở tất cả các chương,

<small>mục của Giáo trình.</small>

<small>Với sự tham gia biên soạn cua các giảng viên có kinh</small>

nghiệm, hi vọng rằng Giáo trình này sẽ đáp ứng được sự mong

<small>đợi cua bạn đọc. Trường Dai học Luật Hà Nội xin tran trọng</small>

giới thiệu (Giáo trình Luật hình sự Việt Nam va rất mong nhận được những ý kiến góp ý của bạn đọc để Giáo trình này ngày

<small>càng hoàn thiện.</small>

<small>Hà Nội, tháng 10 năm 2022</small>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

DANH MỤC CHỮ VIET TAT

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>CHƯƠNG I</small>

KHÁI NIỆM, NHIEM VỤ VÀ CÁC NGUYEN TAC CUA LUẬT HÌNH SỰ

I. KHÁI NIỆM LUẬT HÌNH SỰ

Luật hình sự là ngành luật trong hệ thống pháp luật có đối tượng và phương pháp điều chỉnh đặc biệt, tuân theo các nguyên tắc và thực hiện các nhiệm vụ riéng. Với tính chất là ngành luật, luật hình sự được hiểu là hệ thong các quy phạm pháp luật xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi

<small>là tội phạm và quy định hình phạt cũng như biện pháp hình sự</small>

phi hình phạt có thể áp dụng cho các tội phạm đó. Gắn với luật hình sự là hiện tượng tội phạm và biện pháp trách nhiệm đối

<small>với hiện tượng đó. Hình phạt và biện pháp hình sự phi hình</small>

phạt tuy cùng thuộc các biện pháp hình sự nhưng hình phạt vẫn được xem là biện pháp hình sự đặc trưng có tính “truyền thống”. Do vậy, thường có sự “vơ tình” đồng nhất giữa hình

<small>phạt với các biện pháp hình sự. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay</small>

<small>(1). Khái niệm luật hình sự có thé được dùng dé chỉ ngành luật nhưng cũng cóthé được hiểu là một trong những hình thức văn bản quy phạm pháp luật - luật(hoặc bộ luật) của ngành luật hình sự. Luật hình sự cịn có thé được dùng dé</small>

<small>chỉ môn khoa học nghiên cứu ngành luật hình sự.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

là phát triển biện pháp hình sự phi hình phạt cùng với hạn chế

<small>hình phạt. Luật hình sự Việt Nam cũng đang theo xu hướng này.</small>

Với hai nội dung như vậy mà ngành luật này có tên gọi gắn

<small>với một trong hai nội dung đó - tội phạm hoặc hình phạt. Vi du:</small>

Trong tiếng Anh, ngành luật này thường được gọi là Criminal Law (pháp luật hay ngành luật về tội phạm); còn trong tiếng

<small>Đức, ngành luật này lại thường được gọi là Strafrecht (pháp</small>

luật hay ngành luật về hình phạt). Trong tiếng Việt, hình sự có

<small>nghĩa là sự trừng trị, trừng phạt và ngành luật hình sự cũng có</small>

nghĩa là ngành luật về trừng phạt hay về hình phạt.

<small>Quy phạm pháp luật của ngành luật hình sự được hình thành</small>

qua các quy định của pháp luật. Đó là các quy định chung về tội

<small>phạm và hình phạt cũng như biện pháp hình sự phi hình phạt, là</small>

các quy định về các tội phạm cụ thể và các khung hình phạt cũng như biện pháp hình sự phi hình phạt cụ thể. Các quy định này đều phải được thể hiện ở hình thức văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hay nói cách khác, các quy định về tội phạm và hình phạt

<small>cũng như biện pháp hình sự phi hình phạt phải do cơ quan</small>

quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước Cộng hồ XHCN

<small>Việt Nam ban hành vì tính đặc biệt của các quy định này.</small>

<small>Như đã trình bày, bên cạnh nội dung quy định hình phạt,</small>

<small>ngành luật hình sự cịn quy định các biện pháp hình sự khác</small>

<small>khơng phải là hình phạt mà thường được gọi là biện pháp hìnhsự phi hình phạt. Trong các BLHS Việt Nam, các biện phápnày có tên gọi là các biện pháp tư pháp; các biện pháp giám</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

sát, giáo dục và được coi là các biện pháp hỗ trợ hoặc thay thế

<small>cho hình phạt. Các biện pháp phi hình phạt này có xu hướng</small>

phát triển trong luật hình sự của các nước cũng như của Việt Nam. Tuy nhiên, hình phạt vẫn là biện pháp cưỡng chế hình sự

<small>chính và có tính đặc trưng của ngành luật hình sự. Do vậy, khi</small>

nói về ngành luật hình sự, các tài liệu thường chỉ nói đến hình

<small>phạt. BLHS Việt Nam khi xác định nhiệm vụ của mình cũng</small>

chỉ viết: “... Bộ ludt này quy định về tội phạm và hình phạt ” (Điều 1). Tuy nhiên, khi định nghĩa khái niệm tội phạm, Điều 8 BLHS không đề cập đến tính “chịu hình phạt” như một sé tài liệu mà đã đề cập đến đặc điểm “bị xử lý hình sự” của tội

<small>phạm. Theo đó, “chịu hình phạt” chỉ là một nội dung của “bixử lý hình sự”; hình phạt chỉ là một loại của biện pháp hình sự.</small>

<small>Với nội dung xác định tội phạm và quy định hình phạt cũng</small>

như biện pháp hình sự phi hình phạt, ngành luật hình sự có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh đặc biệt.

1. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự

Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hình sự trước hết là

<small>quan hệ xã hội giữa Nhà nước và người phạm tội. Khi có sựkiện tội phạm xảy ra - một loại quan hệ xã hội đặc biệt giữa</small>

Nhà nước và chủ thé đã gây ra sự kiện tội phạm đó được phat sinh. Ngành luật hình sự điều chỉnh quan hệ xã hội này qua việc xác định quyền và nghĩa vụ pháp lí của hai chủ thé - Nhà

<small>nước và người phạm tội. Trong quan hệ này, người phạm tộicó nghĩa vụ pháp lí phải chịu TNHS, trong đó có hình phạt,</small>

cịn Nhà nước có quyền buộc người phạm tội phải thực hiện

<small>11</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

nghĩa vụ pháp lí đó. Đối với người phạm tội, Nhà nước có quyền buộc họ phải chịu TNHS; đối với xã hội, Nhà nước có

<small>trách nhiệm xử lí nghiêm minh những người đã thực hiện hành</small>

vi phạm tội dé bảo đảm trật tự xã hội, tran áp tội phạm. Người

<small>phạm tội tuy có nghĩa vụ pháp lí phải chịu TNHS nhưng cũng</small>

có quyền yêu cầu Nhà nước chỉ được buộc mình chịu TNHS

<small>đúng với quy định của pháp luật.</small>

<small>Với việc quy định TNHS của pháp nhân thương mại, luật</small>

hình sự Việt Nam đã mở rộng phạm vi chủ thể phải chịu TNHS và do vậy cũng mở rộng đối tượng điều chỉnh của mình. Theo đó, ngành luật hình sự cũng điều chỉnh quan hệ giữa Nhà

<small>nước với pháp nhân thương mại phải chịu TNHS. Trong quan</small>

hệ này, Nha nước có quyền và nghĩa vụ đối với pháp nhân thương mại phải chịu TNHS tương tự như đối với người phạm

<small>tội. Trái lại, pháp nhân thương mại phải chịu TNHS cũng có</small>

nghĩa vụ và quyền tương tự như người phạm tội.

Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ xã hội có

tính đặc thù. Quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của ngành luật hình sự không những không cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội mà trái lại, xã hội đã phải chịu sự tác động xấu khi quan hệ xã hội này phát sinh. Các quan hệ xã hội cần thiết cho xã hội được các ngành luật khác điều chỉnh như quan hệ sở hữu được ngành luật dân sự điều chỉnh, quan hệ vợ chồng được ngành luật hơn nhân và gia đình điều chỉnh v.v. đều không phải là đối tượng điều chỉnh của ngành luật hình sự nhưng có thé là đối tượng bảo vệ của ngành luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

hình sự khi bị xâm hại ở mức độ nhất định. Các ngành luật khác có thể vừa điều chỉnh và vừa bảo vệ cùng nhóm các quan hệ xã hội nhất định, cịn ngành luật hình sự chỉ điều

<small>chỉnh một loại quan hệ xã hội - quan hệ giữa Nhà nước vàngười phạm tội cũng như với pháp nhân thương mại phải chịu</small>

TNHS và bảo vệ nhiều loại quan hệ xã hội khác được các ngành luật khác điều chỉnh.” Với lí do này mà quy phạm pháp luật hình sự có thé được coi là guy phạm pháp luật bảo vệ mà không phải là guy phạm pháp luật điều chinh. Quy phạm pháp luật hình sự khơng chỉ xác định quyền và nghĩa vụ pháp lí của các chủ thé của quan hệ pháp luật hình sự mà cịn là tiêu chuẩn dé xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người có phải là tội phạm hay khơng.®) Là tiêu chuẩn đánh

<small>giá hành vi của con người, quy phạm pháp luật hình sự tuy</small>

khơng trực tiếp điều chỉnh xử sự của con người trong cuộc sống hàng ngày như các ngành luật khác (mà chỉ điều chỉnh

<small>xử sự của Nhà nước và người phạm tội cũng như pháp nhân</small>

<small>thương mại phải chịu TNHS sau khi có sự kiện tội phạm xảy</small>

ra) nhưng vẫn có tác động điều chỉnh xử sự đó của con người.

<small>(1). Theo GS.TSKH. Đào Trí Úc thì luật hình sự có thé bảo vệ cả các quan hệ xãhội chưa được ngành luật nào điều chỉnh (Đào Trí Úc, Ludt hình sự Việt Nam,Quyển I - Những vấn dé chung, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 84).</small>

<small>(2). Theo cách phân loại quy phạm pháp luật được trình bày trong Gido trinhLi luận nhà nước và pháp luật của Trường Dai học Luật Hà Nội, Nxb. Công an</small>

<small>nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 396; (hoặc trong cuốn Li luận về nhà nước và phápludt của PGS.TS. Nguyễn Văn Động, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008, tr. 258).</small>

<small>(3). Xem: Trường Dai học Luật Hà Nội, Gido trinh Lí luận nhà nước và phápludt, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 316.</small>

<small>l3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>Quy phạm pháp luật hình sự xác định tội phạm, quy định hình</small>

<small>phạt cũng như biện pháp hình sự phi hình phạt và qua đó gián</small>

tiếp “cam đoán” việc thực hiện những hành vi bi coi là tội

<small>phạm - những hành vi đã được quy định trong luật hình sự.</small>

Với lí do này mà quy phạm pháp luật hình sự cịn có thé được coi là quy phạm pháp luật cam đoán và sự cam đoán này gián

tiếp điều chỉnh xử sự của con người theo hướng tránh thực

<small>hiện hành vi phạm tội. Bên cạnh các quy phạm pháp luật có</small>

tính “cắm đốn” như vậy, luật hình sự cũng có một số quy phạm pháp luật “cho phép” như là sự bổ sung dé đảm bao tinh hồn chỉnh của hệ thống quy phạm pháp luật hình sự. Vi du:

Cho phép gây thiệt hại khi phải phòng vệ v.v..

2. Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự

Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng điều chỉnh cũng như nội dung quyên, nghĩa vụ pháp lí của các chủ thé trong quan hệ pháp luật hình sự, có thể rút ra phương pháp điều chỉnh của

<small>ngành luật hình sự là phương pháp mệnh lệnh - phục tùng.</small>

Trong quan hệ pháp luật hình sự, Nhà nước có quyền buộc

<small>người phạm tội phải chịu TNHS, phải chịu hình phạt; người</small>

phạm tội có nghĩa vụ pháp lí phải thực hiện TNHS, chấp hành hình phạt và việc chấp hành này khơng thé tránh khỏi vì nó được bảo đảm băng cưỡng chế của Nhà nước.

<small>Trong trường hợp pháp nhân thương mại cùng phải chịu</small>

TNHS với cá nhân về tội phạm đã xảy ra, Nhà nước có quyền

<small>(1). Xem: Chương XI.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<small>buộc pháp nhân thương mại phải chịu hình phạt; pháp nhân</small>

thương mại có nghĩa vụ pháp lí phải chấp hành hình phạt. Phương pháp điều chỉnh của ngành luật hình sự là phương

<small>pháp mệnh lệnh - phục tùng. Theo đó, các quy phạm pháp luật</small>

hình sự đều có cách thức tác động chung là bắt buộc người

<small>phạm tội cũng như pháp nhân thương mại trong trường hợp</small>

nhất định phải thực hiện nghĩa vụ pháp lí là TNHS.

Qua đó, quy phạm pháp luật hình sự cũng gián tiếp điều chỉnh hành vi của con người trong cuộc sông hàng ngày với cách thức tác động là cam đoán.

Như đã trình bày, trong luật hình sự cịn có một số quy phạm

<small>pháp luật mà cách thức tác động là cho phép (được thực hiện</small>

quyền nhất định như quyền phòng vệ chính đáng v.v.). Tuy nhiên, cách thức tác động cam đốn và cho phép đều khơng phải

<small>là cách thức tác động đặc trưng của ngành luật hình sự.</small>

Tóm lại, phương pháp điều chỉnh của ngành luật hình sự là

<small>phương pháp mệnh lệnh - phục tùng và cách thức tác động đặc</small>

trưng là bắt buộc.

<small>3. Quy phạm pháp luật hình sự</small>

Nội dung của quy phạm pháp luật hình sự được thể hiện thơng qua các quy định của luật. Đó là các quy định chung về

<small>tội phạm và hình phạt cũng như biện pháp hình sự phi hình</small>

phạt; các quy định về các tội phạm cụ thể và các khung hình phạt cụ thể. Các quy định chung về tội phạm và hình phạt cũng như biện pháp hình sự phi hình phạt tạo thành Phần chung của luật hình sự; Phần các tội phạm của luật hình sự là phần được

<small>Lạ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hình thành bởi các quy định về tội phạm cụ thé và khung hình phat cụ thé.

Quy phạm pháp luật hình sự được thé hiện qua các quy định của luật hình sự hay nói cách khác là qua các điều luật. Giữa quy phạm pháp luật hình sự và điều luật của luật hình sự có sự khác nhau. Một điều luật quy định về tội phạm cụ thé mới chỉ thé hiện nội dung cơ bản của một quy phạm pháp luật hình sự

<small>mà chưa phải là một quy phạm pháp luật hình sự hồn chỉnh.</small>

Một quy phạm pháp luật hình sự hồn chỉnh luôn bao gồm nội dung của điều luật về một tội phạm cụ thé và nội dung các điều luật quy định về những vấn đề chung của tội phạm. Vi dụ: Điều 141 BLHS có nội dung: “Người nào ding vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. Nội dung này mới chỉ là phần cơ bản của quy phạm pháp luật hình sự vì trong nội dung này chưa có nội dung giải thích dấu hiệu “người nào”. Dấu hiệu này được giải thích qua các điều luật

về tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS) và về tình trạng khơng có

năng lực TNHS (Điều 21 BLHS).

<small>Với nội dung là xác định tội phạm và quy định hình phạt,</small>

quy phạm pháp luật hình sự địi hỏi phải có hai bộ phận cau

<small>(1). Về mối quan hệ giữa quy phạm pháp luật và điều luật, xem thêm: Trường</small>

<small>Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Li luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công annhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 325 - 326.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>thành - bộ phận xác định tội phạm và bộ phận quy định hình</small>

phạt. Tuy nhiên, việc xác định hai bộ phận đó trong cau trúc

<small>của quy phạm pháp luật nói chung cũng như của quy phạm</small>

pháp luật hình sự nói riêng có sự khơng thống nhất giữa các nhà nghiên cứu và giảng dạy. Bên cạnh quan điểm cho rằng

<small>quy phạm pháp luật nói chung cũng như quy phạm pháp luật</small>

hình sự nói riêng có ba bộ phận (giả định, quy định và chế tài) cũng có quan điểm cho răng quy phạm pháp luật chỉ có hai bộ phận (giả định và quy định hoặc giả định và chế tài). Tác giả cho răng, quy phạm pháp luật hình sự là loại quy phạm tương đối đặc biệt so với quy phạm pháp luật của các ngành luật khác nên khó có sự thống nhất trong cách hiểu về nội dung cũng như cấu trúc của loại quy phạm pháp luật này. Nhưng điều chắc chắn là quy phạm pháp luật hình sự phải có hai bộ

<small>phận - bộ phận mô tả tội phạm và bộ phận xác định khung hình</small>

phạt (chế tài) có thé được áp dụng đối với tội phạm đó. Trong đó, bộ phận mơ tả tội phạm gồm 2 phan: Phần mô ta chủ thé cùng các điều kiện khác (nếu có) và phần mơ tả hành vi phạm tội. Vi du: Bộ phận mô tả tội phạm tại Điều 132 BLHS (Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng) là: “Người nào thấy người khác đang ở trong tình

(1). Xem: Trung tâm dao tạo từ xa của Dai hoc Huế, Giáo trình Luật hình sự <small>Việt Nam - Phân chung, Nxb. Cáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 88; Khoa Luật, Daihọc Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phan chung, Nxb. Daihọc Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001, tr. 76.</small>

<small>(2). Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Gido trinh Lí luận nhà nước và pháp</small>

<small>huật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 318 và các trang tiếp theo.</small>

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dan đến hậu quả người đó chết”. Trong đó, phần mơ ta chủ thé là “người nào”, phần mô tả điều kiện khác là “có điều kiện (cứu giúp)”; phan mơ tả hành vi phạm tội là “không cứu giúp dan đến hậu quả người đó chết ”. Theo cơng thức chung của quy phạm pháp luật (nếu - thì - mà khác thì sé...) phan mô ta chủ thé và các điều kiện khác thuộc về giả định (“nếu”), phần mô ta hành vi phạm tội thuộc về quy định (“mà khác”). Phần quy định (“thì”) là phan ấn trong quy phạm pháp luật hình sự (trong ví dụ trên, phần ấn được hiểu là thì phải cứu giúp).

Il. NHIỆM VỤ (CHỨC NANG) CUA LUAT HINH SỰ

<small>Trong sách báo pháp lí, nhiệm vu của luật hình sự thường</small>

được nói đến khi các tác giả viết về ngành luật hình sự và trong BLHS Việt Nam, Điều I cũng đề cập nhiệm vụ của

<small>BLHS. Tuy nhiên, vì luật hình sự được xem là “cơng cụ” nên</small>

<small>nói chức năng của luật hình sự phù hợp hơn so với nói nhiệm</small> vụ của luật hình sự.) Với nội dung của ngành luật hình sự

được nêu trên có thể rút ra chức năng của luật hình sự là phương tiện chống và phòng ngừa tội phạm, là phương tiện bảo vệ và giáo dục. Với cách nói tắt thì luật hình sự có các

<small>(1). Cơng thức chung này được trích trong Giáo trinh Lí luận chung về nhànước và pháp luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại họcQuốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 381.</small>

<small>(2). Theo Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hố - Thơng tin, Hà Nội, 1998:</small>

<small>Nhiệm vụ là cơng việc phải làm (tr. 1251), cịn chức năng là nhiệm vụ, cơng</small>

<small>dụng và vai trị (tr. 413). Theo đó, nhiệm vụ thường gắn với chủ thể hànhđộng, cịn chức năng ở nghĩa cơng dụng và vai trị thường gắn với phương tiện</small>

<small>hành động.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

chức năng: Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm, chức

<small>năng bảo vệ và chức năng giáo dục. Các chức năng này tuy có</small>

nội dung riêng nhưng khơng độc lập hồn tồn mà có mối

<small>quan hệ biện chứng với nhau.</small>

1. Chức năng chống và phịng ngừa tội phạm của luật

<small>hình sự</small>

Chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm là hai hoạt động

<small>tuy có nội dung khác nhau nhưng khơng tách rời nhau. Trong</small>

đó, chống tội phạm là hoạt động trực diện với tội phạm - hoạt động phát hiện, điều tra, truy tổ và xét xử tội phạm. Phòng ngừa tội phạm bao gồm nhiều hoạt động khác nhau nhằm ngăn ngừa khơng dé cho tội phạm xảy ra và đều có quan hệ mật thiết với hoạt động chống tội phạm. Chống tội phạm có hiệu quả

<small>khơng chỉ có tác dụng răn đe, ngăn ngừa tội phạm mà cịn có</small>

thé định hướng cho các hoạt động phòng ngừa tội phạm. Do vậy, hoạt động chống tội phạm cũng được coi là hoạt động phòng ngừa tội phạm đặc biệt. Hoạt động chống và phòng ngừa

<small>tội phạm phải dựa trên cơ sở pháp lí chung hay nói cách khác là</small>

đều phải sử dụng cơng cụ pháp lí chung là luật hình sự. Hiệu quả của chống và phòng ngừa tội phạm phụ thuộc một phần

<small>quan trọng vào độ hoàn thiện của luật hình sự. Do vậy, luật hình</small>

sự đã được coi “/a một trong những công cu sắc bén, hữu hiệu dé đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm... ”. Chức năng chống và phịng ngừa tội phạm của luật hình sự được khang

<small>(1). Lời nói đầu BLHS năm 1999.</small>

<small>1g</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

định rõ tại Điều 1 BLHS. Dé thực hiện tốt chức năng chống và

<small>phòng ngừa tội phạm đòi hỏi luật hình sự phải ln ln được</small>

hoan thiện theo sát sự thay đơi của tình hình tội phạm, đáp ứng

được yêu cầu của cuộc dau tranh chống tội phạm.

<small>2. Chức năng bảo vệ của luật hình sự</small>

Qua chức năng chống và phịng ngừa tội phạm, luật hình sự đồng thời có chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng

cần thiết cho sự 6n định và phát triển của xã hội trước sự xâm

<small>hại của tội phạm. Ngành luật hình sự là cơng cụ pháp lí “gop</small>

phan đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyên, thống nhất và

toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN, bao vé lợi ich của Nhà nước, quyên, lợi ich hợp pháp của công dân, tổ chức, gop phan duy trì trật tự an tồn xã hội, trật tự quản lí kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội

và sinh thai an tồn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao”.

Đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự đều được xác định

<small>rõ ràng trong các BLHS: BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 va</small>

BLHS năm 2015. Theo Điều § BLHS năm 2015, đối tượng bảo

vệ của luật hình sự là độc lập, chủ quyên, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền van

hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, qun, lợi ích

hợp pháp của tơ chức, quyền con người, qun, lợi ích hợp pháp của cơng dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật. Dé

<small>(1). Xem: Nguyễn Ngọc Hoà, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Công an</small>

<small>nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 252 và các trang tiép theo.</small>

<small>(2). Lời nói dau BLHS năm 1999.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

thực hiện tốt chức năng bảo vệ của mình, ngành luật hình sự cần phải xác định đúng, đầy đủ và kịp thời những hành vi có thé gây nguy hiểm cho các đối tượng bảo vệ dé quy định là tội phạm. Có như vậy ngành luật hình sự mới có thé trở thành

<small>cơng cụ pháp lí hữu hiệu bảo vệ các quan hệ xã hội đã được</small>

xác định qua việc chống và phòng ngừa một cách tồn diện tất cả các tội phạm, khơng có hành vi nào nguy hiểm (ở mức tội phạm) cho đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự bị bỏ qua.

<small>3. Chức năng giáo dục của luật hình sự</small>

Chống tội phạm qua việc xử phạt người phạm tội (cũng như pháp nhân thương mại trong trường hợp nhất định) không chỉ nhằm trừng tri ma cịn nhằm mục đích giáo dục họ và giáo

<small>dục mọi người nói chung. Do vậy, nganh luật hình sự khơng</small>

chỉ là cơng cụ chống tội phạm mà cịn có chức năng giáo dục.

<small>Cũng chính qua chức nang giáo dục ma ngành luật hình sự có</small>

thé thực hiện được chức năng phòng ngừa tội phạm của mình.

<small>Ngành luật hình sự khơng chỉ là cơng cụ răn đe người phạm tộimà còn răn đe cả những người khác và qua đó giáo dục ngườiphạm tội cũng như mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tránh</small>

<small>các hành vi phạm tội. Ngành luật hình sự cũng là cơng cụ giáo</small>

dục ý thức tham gia chống và phòng ngừa tội phạm cho tất cả

<small>mọi người với vai trò là cơng dân cũng như với vai trị là thành</small>

viên của cơ quan hay tổ chức. Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự dựa trên cơ sở chức năng chống tội phạm nhưng đồng thời cũng là cơ sở cho chức năng phòng ngừa tội phạm và

<small>chức năng bảo vệ của ngành luật này.</small>

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự được xác định</small>

cụ thé tại Điều 1 và Điều 31 BLHS. Điều 1 (Nhiệm vụ của

<small>BLHS) quy định: “... gido duc mọi người ý thức tuán theo</small>

pháp luật, phòng ngừa và dau tranh chống tội phạm”; Điều 31

<small>(Mục đích của hình phạt) quy định: “... mà còn giáo đục họ ý</small>

thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống,... giáo

<small>đục người, pháp nhân thương mại khác tơn trọng pháp luật,</small>

phịng ngừa và dau tranh chong tội phạm ”.

II]. NGUYEN TAC CUA LUẬT HÌNH SỰ

<small>Cũng như các ngành luật khác, ngành luật hình su được</small>

xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, trong đó có những nguyên tắc có tính chất chung cho cả hệ thống pháp luật và những ngun tắc có tính đặc thù của ngành luật hình sự. Việc tuân thủ những nguyên tắc này trong xây dựng cũng như

<small>áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự sẽ đảm bảo cho ngành</small>

luật hình sự thực hiện được các chức năng của mình. Nhìn tổng thể, các quy phạm pháp luật hình sự phải thể hiện được các nội dung của nguyên tắc đã đặt ra. Có thé có những quy định cu thê khơng thể hiện trực tiếp nội dung của nguyên tắc nào của ngành luật hình sự nhưng những quy định này đều khơng được trái với các ngun tắc đó.

Hiện nay, chưa có sự thống nhất trong việc xác định những nguyên tắc thuộc hệ thống các nguyên tắc của ngành luật hình su.) Tác giả xác định có 6 ngun tắc của luật hình sự, trong

<small>(1). Trong cuốn sách chuyên khảo Ludt hình sự Việt Nam, Quyển 1 - Những van</small>

<small>dé chung, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tác giả Dao Trí Uc xác định có 7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

đó có 3 nguyên tắc là những nguyên tắc đặc thù của luật hình sự. Cụ thể 6 nguyên tắc đó là: Ngun tắc pháp chế; ngun tắc bình đăng trước pháp luật; nguyên tắc nhân đạo; nguyên tắc hành vi; nguyên tắc có lỗi và nguyên tắc phân hoá TNHS.

1. Nguyên tắc pháp chế

Nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc chung của cả hệ thống pháp luật Việt Nam, được tuân thủ trong tất cả các ngành luật cụ thể. Trong ngành luật hình sự, nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các van đề về tội phạm và hình phạt đều phải được quy định cu thể, rõ ràng trong văn bản luật (hiện nay là BLHS); việc xác định tội phạm và hình phạt trong áp dụng luật đều phải dựa trên các điều luật cụ thể. Như vậy, nguyên tắc này đòi hỏi phải

<small>nguyên tắc của luật hình sự (nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc mọi cơngdân đều bình đăng trước pháp luật, ngun tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc</small>

<small>TNHS trên cơ so lỗi, nguyên tắc công bằng về TNHS, nguyên tắc nhân đạo,nguyên tắc dân chủ); Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phan chung</small>

<small>của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, HàNội, 2001, tác giả cũng xác định có 7 nguyên tắc của luật hình sự nhưng khơngtrùng hồn tồn với 7 nguyên tắc mà tác giả Đào Trí Úc đã xác định (nguyên tắcpháp chế, nguyên tắc bình đăng trước pháp luật, nguyên tắc công minh, nguyêntắc nhân đạo, nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm, nguyên tắc tráchnhiệm do lỗi, nguyên tắc trách nhiệm cá nhân); Trong Giáo frình Luật hình sựViệt Nam - Phân chung của Trung tâm đào tạo từ xa, Dai học Huế, Nxb. Giáodục, Hà Nội, 2001, tác gia xác định có 12 nguyên tắc của luật hình sự (nguyêntắc dân chủ XHCN, nguyên tắc nhân đạo XHCN, nguyên tắc pháp chế XHCN,nguyén tắc kết hop hài hoà chủ nghĩa yêu nước va đoàn kết quôc tế, nguyên</small>

<small>tắc chịu trách nhiệm chỉ đối với hành vi phạm tội cụ thể, nguyên tắc mọi công</small>

<small>dân đều bình đăng trước pháp luật, ngun tắc khơng tránh khỏi TNHS và hình</small>

<small>phạt, nguyên tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi,nguyên tắc phân hoá trách nhiệm tuỳ thuộc vào tình tiết của việc thực hiện tộiphạm, nguyên tắc cá thê hoá trách nhiệm và hình phạt, ngun tắc cơng bằng).</small>

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>được tuân thủ trong cả hoạt động lập pháp và hoạt động áp</small>

dụng luật. Cụ thể:

<small>- Những hành vi bị coi là tội phạm phải được quy định thành</small>

các tội danh cụ thể và được mô tả rõ ràng bởi quy phạm pháp

<small>luật hình sự;</small>

- Những loại hình phạt có thể được áp dụng cho người

<small>phạm tội (cũng như cho pháp nhân thương mại phải chịuTNHS) phải được quy định bởi quy phạm pháp luật hình sự va</small>

<small>phải được xác định cho từng tội danh đã được quy định;</small>

- Các căn cứ của việc quyết định hình phạt cụ thể cho người

<small>phạm tội (cũng như cho pháp nhân thương mại phải chịu TNHS)</small>

phải được quy định thống nhất bởi quy phạm pháp luật hình sự;

<small>- Việc truy cứu TNHS người phạm tội (cũng như phápnhân thương mại phải chịu TNHS) phải tuân thủ các quy định</small>

của ngành luật hình sự: Chỉ được kết tội họ về tội danh đã

<small>được quy phạm pháp luật hình sự quy định cũng như chỉ được</small>

<small>tuyên hình phạt trong phạm vi mức độ cho phép của quy phạmpháp luật hình sự.</small>

Những yêu cầu trên đây của nguyên tắc pháp chế đã được thể hiện trong các điều luật của BLHS. Khoản 1 Điều 2 quy

<small>định: “Chi người nào phạm một tội đã được BLHS quy định</small>

mới phải chịu TNHS”. Tương tự như vậy, khoản 2 Điều 2 cũng

<small>xác định pháp nhân thương mai chỉ phải chịu TNHS theo các</small>

tội danh được quy định tại Điều 76 khi thoả mãn các điều kiện của Điều 75. Điều 8 cũng khang định tội phạm phải là hành vi đã được quy định trong BLHS. Điều 30 khi định nghĩa hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

phạt đã khang định: “Hình phạt... được quy định trong Bộ luật này, do toà án quyết định áp dụng... ”. Điều 50 quy định: “Khi quyết định hình phạt, tồ dn căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm

<small>nhẹ va tăng nặng TNHS”.</small>

Từ nguyên tắc pháp chế (có tính chất chung), ngành luật

hình sự Việt Nam thừa nhận một số ngun tắc có tính đặc thù nhưng cũng chỉ là sự biéu hiện của nguyên tắc pháp chế. Trước hết phải kể đến nguyên tắc đã được thừa nhận chung “Nullum

<small>crimen sine lege” (Khơng có tội khi khơng có luật). Cũng từ</small>

ngun tắc này, ngành luật hình sự Việt Nam không chấp nhận

nguyên tac “dp dung tương tự” và nguyên tắc “hiệu lực trở về rước” (còn được gọi là nguyên tắc “hồi tố”) để truy cứu

TNHS một người (có hành vi nguy hiểm cho xã hội). Điều 2 và Điều 8 BLHS đã được nêu trên thé hiện rõ ràng quan điểm cam “áp dung tương tự” dé truy cứu TNHS. Điều 7 BLHS là điều luật thể hiện rõ quan điểm cấm áp dụng “có hiệu lực trở về frước ” dé truy cứu TNHS.

<small>(1). Ấp dụng tương tự để truy cứu TNHS có nghĩa áp dụng một điều luật củaluật hình sự dé truy cứu TNHS một người về hành vi chưa được quy định trongluật hình sự là tội phạm nhưng tương tự với hành vi đã được quy định là tội</small>

<small>phạm trong điều luật đó;</small>

<small>Ap dụng hiệu lực trở về trước đề truy cứu TNHS là áp dụng một điều luật củaluật hình sự dé truy cứu TNHS một người về hành vi mà người đó đã thực hiệntrước khi điều luật này có hiệu lực thi hành. Vấn đề này được trình bày tiếp ở</small>

<small>Chương II.</small>

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật

Điều 16 Hiến pháp quy định: “7. Moi người déu bình dang trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, van hod, xã hội”. Tương tự như vậy, Điều 51 Hiến pháp cũng khang định: “Các chủ thé thuộc các

thành phan kinh tế bình đăng,... ”. Cụ thé hố ngun tac hién

định này, Điều 3 BLHS quy định: “Moi người phạm lội đều bình dang trước pháp luật, khơng phân biệt giới tính, dân tộc, tin ngưỡng, tôn giáo, thành phân, địa vị xã hội” (điềm b khoản 1). Ngoài ra, điều luật này còn xác định, mọi pháp nhân thương mại, khi phải chịu TNHS đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt hình thức sở hữu và thành phan kinh tế.

Ngành luật hình sự với các quy định về tội phạm và các quy định về hình phạt có giá trị như nhau đối với tất cả mọi

<small>người cũng như mọi pháp nhân thương mại nói chung và đặc</small>

biệt đối với tất cả những người đã có hành vi phạm tội nói riêng. Ngành luật hình sự khơng được phép quy định đặc điểm nhân thân như về giới tính, về tôn giáo, về thành phần, địa vị xã hội là cơ sở để truy cứu TNHS. Trong áp dụng luật hình sự, đặc điểm về nhân thân cũng khơng được phép ảnh hưởng đến việc truy cứu TNHS theo hướng định kiến hay thiên vi. Cụ thé: Việc xử lí tội phạm khơng bi chi phối bởi giới tính, dân

tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần, địa vị xã hội của người

<small>(1). Ở đây cần phân biệt giữa nguyên tắc này với việc quy định chủ thé đặcbiệt cũng như việc quy định những đặc điểm nhất định về nhân thân là dấu</small>

<small>hiệu định khung hình phạt hoặc dau hiệu tăng nặng, giảm nhẹ TNHS (nhữngvan đề này được trình bày ở các chương tiếp theo).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<small>phạm tội; việc truy cứu TNHS pháp nhân thương mai cũng</small>

khơng bi chi phối bởi hình thức sở hữu và thành phan kinh tế của pháp nhân thương mại. Tat cả các cá nhân và pháp nhân thương mại đều bình dang trước pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Người phạm tội cũng như pháp nhân thương mại phải chịu TNHS đều phải được các cơ quan tiến hành tố tụng đối xử bình dang trong hoạt động điều tra, truy t6, xét Xử.

3. Nguyên tắc nhân đạo

Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc chung và là nguyên tắc

<small>được đặc biệt chú ý trong ngành luật hình sự vì hậu quả màngười phạm tội phải chịu theo ngành luật này là hình phạt </small>

-“biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước...” (Điều 30 BLHS).

Ngành luật hình sự Việt Nam thể hiện nguyên tắc nhân đạo qua nhiều điều luật khác nhau, trong đó có các điều luật về nguyên tắc xử lí tội phạm, về các hình phạt và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Đây là những điều luật thé hiện tương đối rõ và trực tiếp nguyên tắc nhân đạo. Điều 3 BLHS khi xác định nguyên tắc xử lí đã khang định chính sách khoan hồng được áp dụng “đối với người tự thú, đâu thú, thành khẩn khai bdo, tô giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với

<small>cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc</small>

trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hồi cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gáy ra”. Điều luật về mục đích của hình phạt đã khang định: “Hinh phat khơng chỉ nhằm trừng

<small>Zl</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<small>tri... mà cịn giáo duc họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy</small>

tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới...” (Điều 31

<small>BLHS). Từ mục đích này mà ngành luật hình sự Việt Nam đã</small>

xác định các hình phạt trong hệ thống hình phạt đều là các hình phat khơng nhằm gây đau đớn về thé xác và xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của người phạm tội. Đối với hai hình phạt nghiêm khắc nhất là hình phạt tù chung thân và hình phạt tử

<small>hình, luật hình sự Việt Nam cũng đã giới hạn phạm vi áp dung</small>

dé thể hiện tính nhân đạo, cụ thé: “Khơng xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” (Khoản 5 Điều 91 BLHS); “... Khơng áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ dang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm lội hoặc khi xét xử ” (Khoản 2 Điều 40 BLHS); “Không thi hành án tử hình đối với... phụ nữ có thai hoặc phụ nữ dang nuôi con dưới 36 thang tuổi;... ” (Khoản 3 Điều 40 BLHS).

Ngoài ra, nguyên tắc nhân đạo còn được thé hiện ở nhiều điều luật quy định về quyết định hình phạt, về TNHS của người chưa đủ 18 ti, về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo), về miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, về tha tù trước thời hạn có điều kiện, về

<small>xố án tích v.v..</small>

4. Nguyên tắc hành vi và nguyên tắc có lỗi

Xuất phát từ quan điểm: Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể là hành vi của con người mà không thể là ý

<small>nghĩ, tư tưởng của họ, ngành luật hình sự Việt Nam thừa nhận</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

nguyên tắc hành vi là nguyên tắc của ngành luật này. Theo đó,

<small>ngành luật hình sự khơng cho phép truy cứu TNHS một người</small>

về tư tưởng của ho mà chỉ được truy cứu TNHS đối với hành vi của họ khi hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm cụ thé được quy phạm pháp luật hình sự quy định. Thé hiện nguyên tắc hành vi, Điều 8 BLHS đã xác định tội phạm phải là hành vi trong định nghĩa về tội phạm. Từ đó, trong phần mơ tả các tội danh cụ thể, BLHS khi mô tả tội phạm đều mô tả hành vi của con người. Với nguyên tắc hành vi, ngành luật hình sự Việt Nam cắm truy cứu TNHS tư tưởng của con người. Ở khía cạnh này cũng có thé coi “cẩm truy cứu TNHS tư tưởng” là nguyên tắc của ngành luật hình sự.

Gan liền với nguyên tắc hành vi là ngun tắc có lỗi. Ngành luật hình sự Việt Nam truy cứu TNHS một người về hành vi gây thiệt hại cho xã hội chỉ khi người đó có lỗi. Hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng chủ thể thực hiện khơng có

lỗi (do những lí do khác nhau như họ bị mat nang luc nhan

thức ý nghĩa xã hội của hành vi hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội vì mắc bệnh tâm thần hoặc do họ ở trong tình trạng bất khả kháng) thì hành vi đó không bị coi là tội phạm và chủ thể thực hiện không phải chịu TNHS. Với việc thừa nhận nguyên tắc có lỗi, luật hình sự Việt Nam cắm “truy

<small>tội khách quan” (truy cứu TNHS chỉ căn cứ vào hành vi khách</small>

quan mà không xét đến lỗi (chủ quan) của chủ thể).

Thừa nhận nguyên tắc có lỗi là xuất phát từ chức năng giáo dục của ngành luật hình sự. Chức năng này không thể thực hiện được khi truy cứu TNHS một người mà họ khơng có lỗi.

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Thé hiện nguyên tắc có lỗi, ngành luật hình sự Việt Nam khi định nghĩa tội phạm tại Điều § BLHS đã khăng định tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện một cách cố ý hoặc vo ý, có nghĩa là được thực hiện một cách có lỗi. Từ đó, các điều luật trong BLHS khi mô tả tội cụ thể đều cần thé hiện dấu hiệu lỗi của tội phạm.

5. Ngun tắc phân hố trách nhiệm hình sự

Cũng như các nguyên tắc khác, nguyên tắc phân hoá TNHS phải được thê hiện trong xây dựng luật hình sự cũng như trong áp dụng luật hình sự. Trong áp dụng luật hình sự, ngun tắc này cịn được gọi là ngun tắc cá thé hoá TNHS hay nguyên tac cá thé hố hình phạt. Như vậy, cá thé hố TNHS trong áp

<small>dụng luật hình sự và phân hố TNHS trong luật hình sự là hai</small>

nội dung khơng tách rời nhau của ngun tắc phân hố TNHS. Trong đó, phân hố TNHS trong luật là co sở pháp lí cần thiết cho việc cá thể hoá TNHS trong áp dụng.

Chức năng giáo dục của luật hình sự chỉ có thé trở thành

<small>hiện thực khi TNHS được xác định đúng cho từng người</small>

phạm tội. Hình phạt áp dụng cho người phạm tội cụ thể phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của

<small>tội phạm đã gây ra và phải phù hợp với nhân thân cũng như</small>

hoàn cảnh của người phạm tội. Đây chính là yêu cầu của cá thé hố TNHS (hình phạt) trong áp dụng luật hình sự. Tương

<small>tự như vậy, TNHS của pháp nhân thương mại cũng phải được</small>

cá thé hoá cho phù hợp với tội phạm mà pháp nhân thương

<small>mại phải chịu TNHS cũng như phù hợp với “nhân thân” củapháp nhân thương mại.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Dé cá thé hố TNHS (hình phat) trong khi áp dụng luật địi

<small>hỏi phải có sự phân hố TNHS trong luật và giải thích luật.</small>

<small>TNHS càng được phân hố trong luật và trong giải thích luật</small>

thì càng có cơ sở cho việc cá thé hố hình phạt trong áp dung.

<small>Do vậy, hồn thiện sự phân hố TNHS là một trong những nội</small>

dung hồn thiện luật hình sự nói chung. Cac biểu hiện của phân hoá TNHS trong luật có thé là:

- Phân loại tội phạm thành các nhóm tội khác nhau để có các quy định khác nhau về TNHS;

- Đa dạng hố hệ thống hình phạt;

- Phân hố chế tài của mỗi tội thành nhiều khung hình phạt

khác nhau v.v..

Thẻ hiện nguyên tắc này, khoản 1 và khoản 2 Điều 3 BLHS

xác định các đối tượng cần nghiêm tri và các đối tượng cần

khoan hồng. Theo đó, những người phạm tội cần nghiêm trị là người chủ mưu, cầm dau, chỉ huy, tái phạm nguy hiểm, côn đồ, ngoan cố chống đối, là người lợi dụng chức vụ, quyền han hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt dé phạm tội, là người phạm tội có tổ chức, có tính chất chun nghiệp, cơ ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp pháp nhân thương mại cần bị nghiêm trị là trường hợp đã dùng thủ đoạn tinh vi, có tinh chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Đối tượng cần được khoan hồng theo quy định của điều luật là người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm,

<small>lập cơng chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm(1). Nội dung cụ thể của những vấn đề này được trình bày ở các chương tiếp theo.</small>

<small>3l</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết

vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt

hại gây ra. Trường hợp pháp nhân thương mại cần được khoan hồng là trường hợp tích cực hợp tác với cơ quan có trách

<small>nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải</small>

quyết vụ an, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

Nội dung phân hóa trên đây đã được cụ thé hố tại các điều 51 và 52 BLHS (các tình tiết giảm nhẹ TNHS, các tình tiết tăng nặng TNHS) cũng như được cụ thể hố ở dấu hiệu định khung hình phạt của một số tội phạm. Nội dung phân hoá này cũng cần được chú ý khi áp dụng luật hình sự dé cá thé hố TNHS.

IV. KHOA HỌC LUAT HÌNH SỰ

<small>Khoa học luật hình sự là bộ phận của khoa học pháp lí,</small>

nghiên cứu những vấn đề lí luận của ngành luật hình sự. Những vấn đề này có thể được nghiên cứu ở những cấp độ và

<small>hình thức khác nhau. Trong chương trình đào tạo cử nhân luật,</small>

việc học tập, nghiên cứu ngành khoa học này nhằm trang bị những vấn đề lí luận cơ bản, giúp sinh viên có thể hiểu, giải thích, đánh giá được các quy định của luật hình sự và có thê

vận dụng luật dé giải quyết các vụ án hình sự.

Những nhóm van đề cốt lõi mà khoa học luật hình sự cần giải quyết bao gồm:

- Nhóm vấn đề chung về ngành luật hình sự: Khái niệm, chức năng, nguyên tắc và nguồn của ngành luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

- Nhóm van dé về tội phạm: Bản chat, đặc điểm, cấu trúc của hiện tượng tội phạm; vấn đề phản ánh (quy định) tội phạm

Ngồi ra, khoa học luật hình sự cịn nghiên cứu một số van đề khác như vấn đề lịch sử (trên phạm vi quốc tế hoặc quốc gia) của ngành luật hình sự, vẫn đề so sánh luật hình sự (so sánh giữa các quốc gia hoặc theo lich sử của một quốc gia).

Khoa học luật hình sự có liên quan gần với một số nganh

<small>khoa hoc khac nhu:</small>

<small>- Tội phạm học (nghiên cứu tội phạm dưới góc độ tinh</small>

<small>hình, ngun nhân và biện pháp phịng ngừa);</small>

- Tâm thần học tư pháp (nghiên cứu các bệnh tâm thần liên quan đến van dé năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành

<small>vi theo đòi hỏi của xã hội, của con người);</small>

- Khoa học luật tố tụng hình sự (nghiên cứu trình tự và thủ

<small>tục pháp lí của q trình truy cứu TNHS người phạm tội);</small>

- Khoa học điều tra tội phạm (nghiên cứu các phương pháp, kĩ thuật phục vụ việc điều tra tội phạm).

<small>(1). Có thể xem mục lục của giáo trình luật hình sự để biết các nội dung cụ thé của</small>

<small>khoa học luật hình sự được giải quyết trong chương trình đào tạo cử nhân luật.</small>

<small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

CÂU HOI HƯỚNG DAN ÔN TẬP

1. Phân biệt đối tượng điều chỉnh và đối tượng bảo vệ của

<small>ngành luật hình sự.</small>

2. Phân tích các ngun tắc đặc thù của ngành luật hình sự.

<small>3. Trình bày các chức năng của ngành luật hình sự.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

- Tiên lệ pháp (trong lĩnh vực luật hình sự là án lệ); và

- Văn bản (quy phạm) pháp luật.

Việt Nam không coi tập quán pháp và án lệ là nguồn của

<small>ngành luật hình sự với nghĩa là ngn quy định tội phạm và</small> hình phạt cũng như các biện pháp hình sự phi hình phat.

<small>(1). Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trinh Lí luận nhà nước và phápluat, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 285.</small>

(2). Ở đây, nguồn của luật hình sự được hiển theo nghĩa hẹp “... nguồn của

luật hình sự chỉ bao gồm những căn cứ trực tiếp quy định về ning gi lién

<small>quan đến tội phạm và hình phạt. Nói cách khác, " nguồn của luật hình sự chỉcó thể là những văn bản pháp luật hình sự ” (Đào Trí Úc, Luật hình sự ViệtNam, Quyển 1 - Những vấn đề chung, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000,tr. 293). Ngồi ra, cịn có cách hiểu nguồn của luật hình sự theo nghĩa rộng.</small>

<small>Về van đề này có thé xem: Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1 </small>

<small>-Những vấn dé chung, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 293 và cáctrang tiếp theo. Trong Giáo trình này, nguồn của luật hình sự được hiểu theo</small>

<small>nghĩa hẹp như vậy.</small>

<small>35</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Nguồn của ngành luật hình sự Việt Nam theo nghĩa này chỉ có thé là văn bản quy phạm pháp luật. Do tinh chất quan trọng va đặc điểm đặc biệt của đối tượng điều chỉnh của ngành luật hình sự nên nguồn của nó khơng phải là tat cả các loại văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ có thể là văn bản quy phạm pháp luật do co quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành. Chi có luật (bộ luật hoặc luật) là nguồn của ngành luật hình sự. Các văn bản dưới luật không thể là nguồn của ngành luật hình sự. Những luật được coi là nguồn của luật hình sự phải có các quy định liên quan trực tiếp đến tội phạm và hình phạt.

BLHS là luật mà trong đó tập hợp đầy đủ hoặc tương đối đầy đủ các quy định về tội phạm và hình phạt hay nói cách khác, BLHS là luật có tất cả hoặc hầu hết các quy phạm pháp

luật hình sự. Khác với BLHS, (văn bản) luật hình sự? chỉ có

một số quy phạm pháp luật hình sự. Mỗi (văn bản) luật hình sự có thé giữ vai trị bổ sung cho BLHS trong trường hợp có BLHS; cịn trong trường hợp khơng có BLHS thì mỗi văn bản

<small>đó là một bộ phận và cùng với các văn bản khác hợp thành</small>

nguồn của ngành luật hình sự. Luật hình sự có thể chỉ có các quy định về tội phạm, về hình phạt thuộc lĩnh vực hoặc vấn đề cụ thể nào đó. Bên cạnh đó có thể cịn có những luật mà trong

<small>(1). Trước day, dé phân biệt van ban luật không phải là bộ luật với bộ luật</small>

<small>chúng ta có khái niệm đạo luật. Hiện nay, khái niệm này khơng cịn được sử</small>

<small>dụng vì theo Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì trong hệthống văn bản quy phạm pháp luật chỉ có khái niệm luật mà khơng có kháiniệm đạo luật. Trong đó luật được hiểu bao gồm cả bộ luật.</small>

<small>(2). Từ đây trở đi, tác giả sử dụng khái niệm luật hình sự với nghĩa là một trongnhững hình thức văn bản quy phạm pháp luật (hình sự) - (văn bản) luật hình sự.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<small>đó khơng chỉ có những quy phạm pháp luật hình sự mà cịn có</small>

quy phạm pháp luật của ngành luật khác. Đây thực chất là luật của ngành luật khác và trong đó có điều luật xác định tội phạm và quy định hình phạt đối với những hành vi vi phạm thuộc

<small>ngành luật đó nhưng ở mức phải bi coi là tội phạm. Do vậy,luật loại này được gọi là luật có quy phạm pháp luật hình sự.</small>

Tóm lại, nguồn của ngành luật hình sự có thể là BLHS, luật hình sự và luật có quy phạm pháp luật hình sự. Nhiều quốc gia trên thế giới xây dựng ngành luật hình sự theo hướng có BLHS

<small>và các luật có quy phạm pháp luật hình sự như Cộng hồ Liên</small>

bang Đức. Trong đó, BLHS quy định những van dé chung về

<small>tội phạm và hình phạt cũng như quy định những tội danh thơng</small>

<small>thường; còn các luật quy định các tội danh thuộc những lĩnh</small>

<small>vực riêng biệt như lĩnh vực môi trường, lĩnh vực tải chính haylinh vực cơng nghệ thơng tin v.v..</small>

Ở Việt Nam, nguồn của ngành luật hình sự được thể hiện

<small>như sau:</small>

- Trước năm 1986 - Thời điểm trước khi BLHS Việt Nam đầu tiên có hiệu lực, ngành luật hình sự Việt Nam khơng có cả

BLHS lẫn luật hình sự. Văn bản quy phạm pháp luật được coi là

ngu6n của ngành luật hình sự trong giai đoạn nay chi bao gồm những văn bản dưới luật, trong đó chủ yếu là pháp lệnh. Các

<small>pháp lệnh được áp dụng trong giai đoạn này là Pháp lệnh Trừng</small>

<small>(1). Hệ thống các luật này được gọi ở Cộng hòa Liên bang Đức là luật hình sự phụ</small>

<small>(Nebenstrafrecht), xem: Claus Roxin, Strafrecht Allgemeiner Teil, Band I, VerlagC.H.Beck, Miinchen, 1997, tr. 4.</small>

<small>a7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

<small>trị các tội phan cách mạng (năm 1967), Pháp lệnh Trừng tri cáctội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh Trừng trị các tội xâmphạm tài sản riêng của công dân (năm 1970), Pháp lệnh Trừng trị</small>

tội hối lộ (năm 1981), Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn

<small>lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (năm 1982) v.v.. Văn bản</small>

quy phạm pháp luật quy định được nhiều nhóm tội nhất trong giai đoạn này là Sắc luật số 03 năm 1976. Trong đó, các nhóm tội phạm được quy định bao gồm: Các tội phản cách mạng, các tội xâm phạm tai sản công cộng, các tội xâm phạm thân thé, nhân phẩm, sức khoẻ, tài sản riêng của công dân, các tội kinh tế, các tội chức vụ, hối lộ và các tội xâm phạm trật tự, an tồn cơng

<small>cộng. Trong giai đoạn nay có thời gian dài chung ta cịn coi cả</small>

thơng tư và án lệ là nguồn của ngành luật hình su.

- Từ năm 1986 đến nay, ngành luật hình sự Việt Nam coi nguồn duy nhất của ngành luật này là BLHS.?) Điều này được khẳng định rõ trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 cũng

<small>như trong BLHS năm 2015. Cả ba bộ luật này, khi định nghĩa</small>

khái niệm tội phạm tại Điều 8 đều khang định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội “được quy định trong BLHS”. Day là van đề vẫn luôn được tranh luận. Câu hỏi tranh luận được đặt

<small>(1). Xem: Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ vềviệc trừng trị một số tội phạm; Chỉ thị số 772-TATC ngày 10/7/1959 của Tồán nhân dân tối cao về van đề đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của dé quốc vàphong kiến.</small>

<small>(2). Nhiều quốc gia khác, trong đó có Cộng hịa nhân dân Trung Hoa, Cộnghòa Liên bang Đức, Vương quốc Thụy Điền v.v. không quan niệm như vậy màcoi BLHS chỉ là một nguồn chính. Xem: Điều 3 và Điều 13 BLHS Cộng hòanhân dân Trung Hoa, Điều 1 BLHS Cộng hòa Liên bang Đức, Điều 1 BLHSVương quốc Thụy Điền.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

ra là: Có nên chỉ coi BLHS là nguồn duy nhất của ngành luật hình sự? Xu hướng chung cho rằng cần cho phép các luật khác cũng được quy định tội phạm thuộc lĩnh vực luật đó điều chỉnh khi tội phạm này chưa được quy định trong BLHS để tránh phải bố sung thường xuyên BLHS khi phát sinh tội phạm mới

<small>trong những lĩnh vực khác nhau. Khi cho phép như vậy sẽ có</small>

sự thống nhất giữa quy định về tội phạm với quy định về vi

<small>phạm và với hoạt động của lĩnh vực mà vi phạm cũng như tội</small>

phạm phát sinh. Đó là cơ sở giúp hiểu quy định về tội phạm được rõ và đầy đủ hon.“

II. HIỆU LỰC CỦA LUẬT HÌNH SỰ - NHỮNG NGUYÊN TÁC CHUNG

<small>Hiệu lực của luật hình sự là giá trị thi hành của luật hình sự</small>

đối với tội phạm nên nó phải gắn với hành vi phạm tội. Nói đến hiệu lực của luật hình sự là nói đến hiệu lực của luật đối với hành vi phạm tội xảy ra khi nào (hiệu lực về thời gian) và đối với hành vi phạm tội xảy ra ở đâu (hiệu lực về không gian).

1. Hiệu lực về thời gian của luật hình sự

Khi đã chấp nhận nguyên tắc pháp chế mà trước hết là nguyên tac “Nullum crimen sine lege” (Khơng có tội khi khơng có luật) thì vấn đề hiệu lực về thời gian phải được xác định

<small>(1). Xem thêm: Nguyễn Ngọc Hoà, Nguồn của pháp luật hình sự - Những yêucầu được đặt ra cho pháp luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 7/201 1;Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên), Sửa đổi Bộ luật Hình sự - Những nhận thức can</small>

<small>thay đổi?, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015; Nguyễn Ngọc Hòa, Nguồn của phápluật hình sự và van dé mở rộng ngn của pháp luật hình sự Việt Nam, Tạp chíLuật học, số 4/2022.</small>

<small>39</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

theo nguyên tắc: Luật hình sự chỉ có hiệu lực để truy cứu TNHS đối với hành vi được thực hiện sau khi luật được ban hành và có hiệu lực thi hành. Nguyên tắc chung này được hiểu

<small>với hai nội dung sau:</small>

- Nếu việc áp dụng luật mà khơng có lợi cho chủ thể bị áp dụng thì luật hình sự khơng có hiệu lực trở về írước. Cu thé: Luật hình sự khơng có hiệu lực trở về trước trong các trường

- Nếu việc áp dụng luật mà có lợi cho chủ thé bị áp dụng thì luật hình sự có hiệu lực trở vé trước.

Ở đây có hai điểm can chú ý:

+ Khi nói khơng có hay có hiệu luc trở về trước thì có thé là đối với tồn bộ các quy định hoặc chỉ đối với một hoặc một

số quy định của luật hình sự. Điều này phụ thuộc vào nội dung

của quy định cũng như vào thời điểm có hiệu lực thi hành của quy định trong trường hợp được bồ sung, sửa đổi.

+ Trong trường hợp giữa thời điểm bắt đầu thực hiện tội

phạm với thời điểm tội phạm kết thúc là khoảng thời gian dài

<small>và luật hình sự có hiệu lực thi hành trong khoảng thời gian đó</small>

thì van đề hiệu lực theo thời gian được giải quyết theo nguyên tắc: Thời điểm thực hiện tội phạm được tinh là thời điểm bat

</div>

×