Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Tiểu Luận - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới - Đề Tài - Nền Văn Minh Ấn Độ Cổ Đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.69 KB, 35 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI NỀN VĂN MINH </b>

<b>ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>2THỜI ĐIỂM </b>

<b>HÌNH THÀNH </b>

<b>1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ:</b>

Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngồi vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở tây-bắc Ấn. Đông nam và tây nam Ấn Độ giáp Ấn Độ Dương.Hàng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn. Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại gồm cả vùng đất ở các nước Ấn Độ, Pakixtan, Nêpan, Bănglađét ngày nay.

Về cư dân, người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn là những người Đraviđa. Ngày nay những người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến 1500 năm TCN có nhiều tộc người Aria tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo Ấn. Sau này, trong q trình lịch sử cịn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Arập, Mơng Cổ xâm nhập Ấn Độ do đó cư dân ở đây có sự pha trộn khá nhiều dịng máu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>Đây là thời kì người Đraviđa đã xây dựng nên những nền văn minh đầu tiên ở lưu vực sông Ấn. Trước kia người ta cũng không biết nhiều về giai đoạn lịch sử này. Mãi đến năm 1920, nhờ phát hiện ra dấu tích hai thành phố cổ ở Harappa và Mơhenjơ Đarơ người ta mới biết về nó. Ở đây, qua các di vật khảo cổ người ta có thể suy ra phần nào sự phát triển kinh tế, văn hoá, và đây là thời kì đã xuất hiện bộ máy nhà nước. Còn về lịch sử tương đối cụ thể của nó thì chưa biết. Người ta tạm đặt cho nó cái tên là nền văn hố Harappa-Mơhenjơ Đarơ . Có người gọi đây là nền văn minh sông Ấn. </small>

<small>Đây là thời kì những bộ lạc du mục người Aria từ Trung Á tràn vào xâm nhập Bắc Ấn. Thời kì này được phản ánh trong bộ kinh Vêđa cho nên được gọi là thời kì Vêđa. Đây là thời kì có hai vấn đề quan trọng ảnh hưởng lâu dài đến lịch sử Ấn Độ sau này: đó là vấn đề đẳng cấp ( Vacna ) và đạo Balamôn. </small>

<small>Thế kỉ VI TCN - thế kỉ XII </small>

<small>Từ thế kỉ VI TCN Ấn Độ mới có sử sách ghi chép. Lúc đó, ở miền Bắc Ấn có tới 16 nước trong đó vương quốc Mađaga ở hạ lưu sông Hằng là nước hùng mạnh nhất. Năm 327 TCN, Ấn Độ bị đội quân của Alêchxănđrơ xâm lược trong một thời gian ngắn. </small>

<small>Thế kỉ XIII - thế kỉ XIX </small>

<small>Trong giai đoạn này, Ấn Độ bị người Apganixtan theo đạo Hồi xâm nhập, sau đó, thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII lại bị người Mông Cổ xâm lược. Người Mông Cổ đã lập ra ở đây triều Môgôn. Đến giữa thế kỉ XIX, Ấn Độ bị Anh xâm lược tới năm 1950 mới giành độc lập. </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>4I. CHỮ VIẾT </b>

<b>VÀ VĂN HỌC </b>

<b><small>1. CHỮ VIẾT: </small></b>

Trước đây, trong một thời gian dài, người ta cho rằng Ấn Độ khơng có chữ viết cổ (vì khơng tìm thấy dấu hiệu của chữ viết). Đến năm 1921, các nhà khoa học đã phát hiện ra nền văn minh sơng Ấn với việc tìm ra di chỉ khảo cổ Harppa – Mohenjo-Daro. Qua đó, người ta mới biết nền văn minh Ấn Độ đã có chữ viết từ rất sớm (khoảng cuối thiên niên kỷ III tr.CN). Chữ viết này được gọi là chữ hình dấu (tìm thấy hơn 3000 con dấu bằng đồng, đất sét khắc chữ đồ họa). Sau khi nền văn minh sông Ấn sụp đổ, loại chữ viết này cũng biến mất và khơng cịn ai sử dụng được nữa. Sau đó, trong suốt thiên niên kỷ II tr.CN, người ta cho rằng Ấn Độ khơng có chữ viết.

Chữ viết đầu tiên ở Ấn được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa, tại các di chỉ thuộc nền văn minh lưu vực sông Ấn đã phát hiện hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa. Nên có thể khẳng định vào khoảng 3.500 năm TCN, ở nền văn minh sơng Ấn đã có chữ viết riêng của mình, người ta thường gọi đó là chữ hình dấu (hình chữ nhật, vuông, tam giác, thoi). Đến nay chữ hình dấu vẫn chưa được giải mã. Mãi đến cách đây vài chục năm, một nhà khảo cổ học Ấn là tiến sỹ

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

S.R.Rao đã khám phá được sự bí ẩn của loại chữ này. Theo ông, đây là loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần, trong số 3.000 con dấu đó có 22 dấu cơ bản, chủ yếu viết từ phải sang trái.Những con dấu đã phát hiện được là những con dấu dùng để đóng trên các kiện hàng để xác nhận hàng hóa và chỉ rõ xuất xứ của những hàng hóa đó.

Đến khoảng thé kỉ V TCN,ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ Kharosthi,sau đó lại xuất hiện chữ Brami (các văn bia của Ashoka đều viết bằng loại chữ này). Cả 2 chữ đều có nguồn gốc từ chữ viết của người Lưỡng Hà cổ đại (các thương nhân của người Lưỡng Hà mang đến nơi đây những loại chữ đó và sáng tạo chữ bằng đất sét - thư viện chữ bằng đất sét). Hai chữ viết này thường được dùng trong triều đình với các bản báo cáo về thuế khố, tình hình đất nước hoặc sự kiện trọng đại trong mỗi vương triều. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn lại đặt ra chữ Đêvanagari có cách viết đơn giản thuận tiện hơn - đó là thứ chữ mới để viết tiếng Xancrit. Đến nay ở Ấn Độ và Nêpan vẫn dùng loại chữ này.

<b>2. VĂN HỌC: </b>

Ấn Độ là một nước có nền văn học rất phát triển.Thời cổ đại văn học Ấn Độ gồm hai bộ phận quan trọng là Vêđa và sử thi.Nội dung thường gắn với quan điểm triết học, tôn giáo nhằm để giải thích nguồn gốc vũ trụ, con người và biểu lộ những ước vọng của con người trong cuộc sống.

<b>2.1. VÊĐA: </b>

Tác phẩm văn học xưa nhất của Ấn Độ và cả loài người, xuất hiện nửa sau thiên niên kỷ II TCN (1500). Ban đầu là tác phẩm vô danh truyền miệng của cư dân Aryan, bao gồm những bài thơ ca, ca dao… được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Về sau các tăng lữ đã cải biến thành những bài thánh ca, kinh cầu nguyện, nghi lễ, ma thuật… và được ghi thành tác phẩm bằng tiếng Phạn cổ, nên gọi là Bộ kinh Vêđa.

Vêđa (Vid): có nghĩa là hiểu biết, gồm 4 tập với khoảng 10.562 câu thơ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>- Rích Vêđa: gồm những bài kinh ca tụng thần thánh (1028 bài thơ), phản ánh phong </b>

tục tập quán, đời sống chính trị và kinh tế - xã hội của người Aryan thời kỳ xâm nhập vào Ấn Độ. Là tác phẩm cổ nhất của Vêđa, cung cấp nhiều tư liệu quý về văn minh Ấn Độ thời kỳ này.

<b>- Xama Vêđa: những bài kinh ca trong khi hành lễ, là một cuốn sách xướng kinh </b>

được rút từ những đoạn trong Rích Vêđa.

<b>- Yagiua Vêđa: những bài hát, công thức tế lễ bằng văn xuôi, dạy về cách hành lễ, </b>

cúng bái theo trật tự đẳng cấp của các thần linh, cách bày các đồ lễ, đồ thờ và cách dâng lễ…

<b>- Atácva Vêđa: những công thức mang tính ma thuật, phù thủy hay cách đọc thần </b>

chú trong các dịp cầu nguyện (cầu tài, giải hạn…). Nội dung chủ yếu lấy từ tín ngưỡng dị đoan của dân bản địa và một số rút từ Rích Vêđa.

-Kế tiếp theo 4 tập Vêđa và có liên quan đến Vêđa cịn có các tác phẩm:Bramana(Phạn

Được xem là bộ sử thi vĩ đại nhất thế giới.Có sau Vêđa, được ghi chép bằng thổ ngữ, chỉ đến đầu CN mới dịch ra tiếng Xanxcrit. Là bộ sử thi dài nhất thế giới gồm 18 chương và 1 chương bổ sung tài liệu,gồm 220.000 câu,dài hơn tám lần Iliat và Ôđixê của Hy Lạp. Được xem như cuốn Đại bách khoa tồn thư về nền văn hóa truyền thống, về các truyền thuyết và các thể chế chính trị - xã hội của Ấn Độ cổ xưa; là tấm gương phản chiếu toàn bộ đời sống con người Ấn Độ truyền thống.Chủ thể của tác phẩm này là cuộc đấu tranh

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ.Bởi vậy tập thơ lấy tên là Mahabharata nghĩa là “Cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata”

Có 7 chương,gồm 48000 câu.Tương truyền tác giả là Vanmiki.Chủ đề của tác phẩm này là câu chuyện tình dun giữa hồng tử Rama và người vợ thủy chung Sita.Trong sử thi Ramayana có sự xuất hiện của các con vật thiêng, như: Chim thần, rắn thần Naga, bò thần, khỉ thần Hanuman… Nội dung xoay quanh chuyện tình của hồng tử Rama và Sita, ca ngợi sự dũng cảm, nghị lực, sức mạnh của con người trước thử thách; ca ngợi lòng chung thủy, sự hy sinh của người phụ nữ; sự nghi ngờ, ghen tuông và sự hối hận....

Hai bộ sử thi này không chỉ là tác phẩm văn học mà còn là nguồn sử liệu để nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ cổ đại, đồng thời là kho đề tài trong sáng tác văn học, nghệ thuật Ấn Độ cổ đại.Mahabharata và Ramayana được phổ biến rộng ở Ấn Độ, là nguồn cảm hứng vô tận cho văn, thơ, nghệ thuật…

<b>2.3. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA CALIĐAXA: </b>

Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỷ V). Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là vở kịch Sơcuntla.Vở kịch Sơcuntla vốn phỏng theo một câu chuyện dân gian chép trong sử thi Mahabharata, nhưng đã được tác giả cải biên và thêm nhiều tình tiết. Nội dung của vở kịch miêu tả câu chuyện tình duyên giữa nàng Sơcuntla và vua Đusơnta, trải qua nhiều éo le trắc trở, cuối cùng hai người được đoàn tụ và được hạnh phúc đời đời.

Tuy là một nhà soạn kịch cung đình, lại chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối, lừa gạt, không chung thủy của giai cấp thống trị và trên chừng mực nhất định đã chống quan niệm về đẳng cấp.

Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ. Suốt 15 thế kỷ nay, Sơcuntla

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Độ như kịch, điện ảnh, họa, nhạc, vũ v.v... Không những ở Ấn Độ mà đối với thế giới, tác phẩm Sơcuntla cũng có một tiếng vang rất lớn.Ngày nay Caliđaxa được xếp vào loại các nhà văn lớn của thế giới và năm 1957 ơng đã được Hội đồng hịa bình thế giới tổ chức kỷ niệm.

<b>2.4. CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIẾT BẰNG CÁC PHƯƠNG NGỮ </b>

Từ cuối thế kỷ X về sau, ngồi văn học tiếng Xanxcrít đã xuất hiện nhiều tác phẩm văn học viết bằng các loại phương ngữ khác nhau.

Vào thế kỷ XIII, nhà thơ Tichcala đã dịch 15 chương trong bộ sử thi Mahabharata ra tiếng Têlugu, làm cho nền văn học cổ điển càng được phổ cập rộng rãi.

Đến thế kỷ XVI, XVII, dưới triều Mơgơn, có một số nhà thơ đã sáng tác bằng tiếng Ba Tư. Tuy nhiên phong phú nhất vẫn là nền văn học bằng tiếng Inđi và các loại ngôn ngữ địa phương khác. Thiên trường ca Ramayana do Tunxi Đát viết bằng tiếng Inđi là một tác phẩm nổi tiếng được nhân dân rất ưa thích..

Tập thơ Xuốc của nhà thơ mù Xuốc Đát viết bằng một loại phương ngữ khác trong tiếng Inđi mà chủ đề chính là chủ nghĩa anh hùng và tình yêu cũng là một tác phẩm có giá trị.

Những bài ca du dương, gợi cảm ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Ấn Độ của ca sĩ kiêm nhà thơ Tanxen cũng rất nổi tiếng. Ngồi ra, trong thời kỳ này cịn có nhiều nhà thơ khác.

Đặc trưng chung của nền thi ca giai đoạn này là dùng ngôn ngữ dân gian chứ không dùng ngơn ngữ cung đình, đồng thời cịn sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dân gian, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nên được nhân dân rất thích thú.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>II. KHOA HỌC TỰ NHIÊN: </b>

<b>1. THIÊN VĂN: </b>

Trong bộ Kinh Vệ Đà ra đời cách đây trên 3.000 năm, người Ấn Độ quan niệm rằng khởi thuỷ của vũ trụ là trạng thái hỗn độn, rồi nước được sinh ra đầu tiên, tiếp đến là lửa. Hơi nóng chứa đựng sức mạnh vơ biên của lửa sinh ra "quả trứng trời đất", nửa trên là bầu trời, nửa dưới là mặt đất còn ở giữa là khoảng không phân cách. Bộ kinh này cũng cho rằng hoàng đạo là con đường của thần Surya (thần Mặt Trời) và người Ấn Độ cổ xưa chia hồng đạo ra làm 28 chịm sao, đó là những "trạm nghỉ của Mặt Trăng" (Mặt Trăng đi trọn một vịng hồng đạo hết 27,3 ngày đêm)

Người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận.

<b>2. TOÁN HỌC: </b>

Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toá học.) Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác. Pi = 3,1416.

Người Ấn không thành công mấy về hình học. Để đo và xây cất các đền thờ, các tu sĩ Ấn đã biết định lí Pythagore (bình phương của đường huyền một tam giác thẳng góc bằng tổng số các bình phương của hai cạnh kia) từ mấy trăm năm trước Công nguyên. Có lẽ do ảnh hưởng của Hi Lạp, Aryabhata tìm được diện tích hình tam giác, hình thang và hình trịn và tính được trị số của π là 3,1416, mà ở châu Âu, mãi tới thời Purbach (1423-1461) mới tính ra được một trị số đúng hơn. Bhaskara đã lờ mờ thấy những qui tắc đại cương của mơn tính vi phân (calcul différentiel); Aryabhata lập một bảng kê các khoa học, và

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

cuốn Surya Siddhanta chứa nhiều khái niệm về phép lượng giác (trigonométrie) tiến bộ hơn của người Hi Lạp.

<b>3. VẬT LÍ: </b>

Trong hai hệ thống tư tưởng Ấn Độ cĩ nhiều lí thuyết vật lí giống các hệ thống Hi Lạp một cách lạ lùng. Kanada, nhà sáng lập ra triết lí Vaisheshika, cho rằng thế giới gồm các nguyên tử, mỗi hành (như ngũ hành của Trung Hoa: lửa, nước, đất…) cĩ một thứ nguyên tử khác nhau. Các triết gia Jạn trái lại, nghĩ như Democrite (triết gia Hi Lạp khoảng 400 trước Cơng nguyên) rằng nguyên tử nào cũng như nhau cả, chỉ do cách tổ hợp khác nhau mà tác động khác nhau. Kanada cho rằng ánh sáng và nhiệt (sức nĩng) là những biến thể của cùng một bản thể; Udayana bảo mọi sức nĩng đều do mặt trời phát ra cả và Vachaspati, cũng như Newton, nghĩ rằng ánh sáng gồm những phần tử li ti từ các vật phát ra và đập vào mắt ta. Các nốt nhạc (âm nhạc hiệu) và âm trình (intervalle) đã được phân tích và tính một cách khoa học trong các sách cổ Ấn Độ về âm nhạc, trong đĩ cĩ chép cả luật chúng ta gọi là luật Pythagore: dây đờn, đo từ chỗ cột tới chỗ cĩ phím đàn, mà càng ngắn thì số rung càng nhiều, mà nốt nhạc càng cao. Sau cùng chúng ta cĩ lí do để tin rằng các nhà hàng hải Ấn ở đầu Cơng nguyên đã dùng một la bàn gồm một mãnh sắt mỏng nổi trên mặt một bình đầy dầu để biết hướng Bắc.

Người Ấn Độ cổ đại cũng đã cĩ thuyết nguyên tử. Thế kỉ 5 TCN, cĩ một nhà thơng thái ở Ấn Độ đã viết “...trái đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nĩ”.

<b>4. Y HỌC: </b>

Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mơ tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “Y học tốt yếu” và “Luận khảo về trị liệu”

Y học Ấn phát triển rất mau ở thời Veda và thời Phật giáo sau đĩ, luơn mấy thế kỉ, tiến rất chậm, rất rụt rè. Atreya, Dhanwantari và Sushruta học được của Hi Lạp những gì và Hi Lạp học lại của người Ấn những gì? Điều đĩ chúng ta khơng biết được. Garrison bảo:

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

“Ở thời đại Alexandre, các y sĩ và giải phẫu gia Ấn nổi tiếng là biết rộng, trị bệnh giỏi, quả là danh bất hư truyền”; nên nói thêm rằng theo vài nhà bác học thì Aristote học được của người Ấn rất nhiều. Các y sĩ Ả Rập và Ba Tư cũng vậy, nhưng cũng khó mà biết được các y sĩ Ấn Độ đã mang ơn các y sĩ Bagdad và các y sĩ Babylone bao nhiêu, do các y sĩ Bagdad làm trung gian. Một mặt, vài vị thuốc như nha phiến, thuỷ ngân và vài phương pháp chẩn bệnh như cách coi mạch, hình như từ Ba Tư truyền qua Ấn Độ; mặt khác chúng ta thấy ở thế kỉ VIII sau Công nguyên, người Ả Rập và Ba Tư dịch các sách thuốc mà Sushruta và Charaka đã viết từ ngàn năm trước. Đại vương Hồi giáo Harun-al-Rashid nhận rằng Ấn Độ tấn bộ hơn Ả Rập về khoa học và y học nên mời các danh y Ấn lại Bagdad dựng nhà thương và trường y khoa. Huân tước Ampthill kết luận rằng y học Âu châu thời Trung cổ và cả thời Cận đại tấn bộ nhờ người Ả Rập mà Ả Rập lại mang ơn của Ấn Độ. Có thể tin rằng y học, môn học cao thượng nhất mà cũng ít chắc chắn nhất đó, đã xuất hiện từ thời Thượng cổ ở Sumérie, Ai Cập và Ấn Độ và đã phát triển nhờba xứ đó trao đổi kiến thức với nhau, ảnh hưởng lẫn tới nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>12III. NGHỆ THUẬT: </b>

Thời cổ trung đại,Ấn Độ đã có một nền nghệ thuật phong phú đặc sắc bao gồm nhiều mặt,trong đó nổi bật nhất là các ngành kiến trúc,điêu khắc.

Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Ấn Độ giáo,Phật Giáo,Hồi Giáo.

<b>1. KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO: </b>

Có rất nhiều chùa tháp Phật Giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vng và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp. Nổi tiếng là hang số 18,tả một người phụ nữ và một đứa trẻ, miêu tả sự giải thoát. Đây là một di sản thế giới nổi tiếng được UNESSCO công nhận vào năm 1983.

Cũng không thể không kể đến Tháp Xansi (Sanchi) là một trong những khu phức hợp kiến trúc Phật giáo khơng có giá đỡ ở Nam Á được bảo tồn tốt nhất. Sự đa dạng của các tháp, đền, tu viện và cột chống đều quy tụ ở đây. Tháp được xây bằng gạch,hình nửa quả cầu, trên đỉnh một dãy sa thạch biệt lập ở miền trung Ấn Độ, từ thế kỷ 3 TCN. Nhưng nổi bật hơn cả là Tháp lớn cao hơn 16 m.

Trụ đá cũng là một loại cơng trình kiến trúc để thờ Phật. Trong số các trụ còn lại,nổi tiếng nhật là trụ đá ở Xacna. Trên đỉnh trụ này có chạm hình 4 con sư tử chụm đuôi vào nhau,mặt nhìn ra 4 hướng trong tư thế tự vệ. Dưới sư tử có hình bánh xe ln hồi. Hinh tượng này được vẽ thành quốc huy của nước Ấn Độ

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>13</b>

<b>2. KIẾN TRÚC ẤN ĐỘ GIÁO: </b>

Các cơng trình kiến trúc Ấn Độ giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ 7-11. Tiêu biểu cho các cơng trình Ấn Độ giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng. Đó là ngôi đền Khajuraho lại mang phong cách kiến trúc của miền Bắc Ấn. Nhìn bên ngồi trơng ngơi đền khá lộn xộn , điều này lại tương phản với kiến trúc của người Hồi giáo. Nhưng nhìn kỹ bạn sẽ cảm nhận được vẻ đẹp đằng sau những cái lộn xộn đó. Bề mặt kiến trúc được bao phủ bằng những bức tượng tinh xảo đến phức tạp. Giống như nhiều ngôi đền nổi tiếng ở Ấn Độ, Khajuraho nằm ở nơi cách xa làng xóm. Bao quanh hàng trăm mét vuông là rừng rậm hoặc thảo nguyên. Chùa chính của Khajuraho được xây dựng tại khu vực trung tâm, hơn 20 ngôi đền lớn nhỏ nằm rải rác trên bình ngun trong phạm vi 6km2. Vốn nơi đây có hơn 80 ngơi chùa nhưng trải qua bào mịn của thiên nhiên, hơn 50 ngôi chùa đã bị sụp đổ. Những quần thể kiến trúc còn tồn tại được chọn làm di sản văn hoá thế giới.

<b>3. KIẾN TRÚC HỒI GIÁO: </b>

Những cơng trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ 13 và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ 17, là một lăng mộ nằm tại Agra,Ấn Độ. Shah Jahan đã ra lệnh xây nó cho người vợ yêu dấu của mình là Mumtaz Mahal. Cơng việc xây dựng bắt đầu năm 1632 và hoàn thành năm 1648.

Taj Mahal nói chung được coi là hình mẫu tuyệt vời nhất của Kiến trúc Mongon, một phong cách tổng hợp các yếu tố của các phong cách kiến trúc Ba Tư, Thổ Nhĩ Kì, Ấn Độ, và Hồi giáo. Tuy phần mái vòm bằng đá cẩm thạch trắng của lăng là phần nổi bật nhất, thực tế Taj Mahal là một tổng hợp các phong cách kiến trúc. Nó được được liệt vào danh sách các Địa điểm Di sản Thế giới của UNESSCO năm 1983 và được miêu tả là một "kiệt tác được cả thế giới chiêm ngưỡng trong số các di sản thế giới."

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>14</b>

<b>4. ĐIÊU KHẮC: </b>

Về nghệ thuật tạo hình,vì đạo Phật ban đầu phản đối việc thờ thần tượng và hình ảnh nên nghệ thuật tac tượng bị hạn chế trong một thời gjan dài,từ thế kỉ I về sau tượng phật mới được tạo nên ngày một nhiều,trong đó tiêu biểu nhất là pho tượng bằng đá ở Ganđara. Ngoài tượng Phật cịn có các tượng thần đạo Hinđu như tượng thần Visnu (thần nhân ái làm cho ruộng đồng xanh tốt), thần Siva (thần ác,làm phá hoại mọi lực lượng tự nhiên)…..

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>15IV. TÔN GIÁO: </b>

<b>1. ẤN ĐỘ GIÁO: </b>

Ấn Độ giáo là một tơn giáo khơng có người sáng lập, khơng có giáo chủ, tín lý, giáo điều được hình thành và hồn thiện dần theo suốt chiều dài lịch sử của Ấn Độ.

Nguồn cội của tôn giáo này nằm trong truyền thống của các cư dân sinh sống sớm nhất

<i><b>tại Ấn Độ: là nền văn hóa Dravidian hiện cịn tồn tại trong những người Tamil tại miền </b></i>

Nam Ấn Độ; Và là tôn giáo của những người Aryan, những người xâm chiếm Tây Bắc Ấn Độ từ năm 1500 TCN trở về sau. Tôn giáo Aryan dẫn đến tôn giáo Vệ Đà, dựa trên sự hiến tế và các kinh sách truyền miệng có tên là Vệ Đà mà người Hindu xem là chứa đựng

<i><b>chân lý vĩnh cửu. Về mặt lịch sử thì Ấn Độ giáo có ba giai đoạn lớn: giai đoạn Veda (Vệ </b></i>

<i><b>Đà), giai đoạn Bà La Môn và giai đoạn Ấn Độ giáo. Ấn độ giáo giáo trải qua các giai </b></i>

đoạn với các thời kỳ nối tiếp nhau như tiền Vệ Đà, Vệ Đà, Anh hùng ca (purana), Áo Nghĩa thư (Upanishad), trung cổ và hiện đại. Nhưng như thế có thể là khơng đúng bởi vì một số các dạng ban đầu vẫn cịn tồn tại và có thể ít chịu ảnh hưởng của những sự đổi mới về sau này.

<b>1.1. ĐẠO BÀ LÀ MÔN: </b>

a. Nguồn gốc:

Đạo Bà-La-Mơn hình thành trên cơ sở Vệ-Đà giáo, khoảng 800 năm trước Tây lịch, tức là một thời gian không dài lắm trước khi Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ. Đạo Bà-La-Môn đưa ra những kinh sách giải thích và bình luận Kinh Véda như : Kinh Brahmana, Kinh Upanishad, Giải thích về Maya (tức là Thế giới ảo ảnh) và về Niết bàn. Đạo Bà-La-Môn thờ Đấng Brahma là Đấng tối cao tối linh, là linh hồn của vũ trụ.

b. Đặc điểm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Đạo Bà-La-Môn phân chia xã hội Ấn Độ làm 5 giai cấp. Ai sanh ra trong giai cấp nào thì phải ở mãi trong giai cấp đó suốt đời.

Họ tự cho rằng họ được sinh ra từ miệng của Đấng Phạm Thiên (Brahma), nên họ được quyền giữ địa vị tối cao trong xã hội, độc quyền cúng tế Thượng Đế và các Thần linh.

Họ được sinh ra từ vai của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp nầy gồm các bậc vua chúa, quý tộc, trưởng giả, công hầu khanh tướng. Họ nắm quyền cai trị và thưởng phạt dân chúng.

Họ được sanh ra từ hông của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp nầy gồm các nhà thương mãi, các trại chủ giàu có. Họ nắm kinh tế, chuyên môn mua bán làm ăn với các từng lớp dân chúng trong xã hội.

Họ được sanh ra từ chân của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp nầy gồm các nông dân và công nhân nghèo khổ.

Đây là giai cấp thấp kém nhứt trong xã hội Ấn Độ, gồm các người làm các nghề hèn hạ như : Ở đợ, làm mướn, chèo ghe, giết súc vật, vv …

Giai cấp Tăng lữ Bà-La-Môn dựa vào thế lực tôn giáo để củng cố địa vị và quyền lợi của họ. Họ tìm đủ phương pháp để bảo hộ và duy trì chế độ giai cấp, nương theo thần thoại, chế ra Luật pháp Manu, kỳ thị giai cấp, không cho gả cưới giữa 2 giai cấp khác nhau.

Giới Tăng lữ Bà-La-Môn được chia làm 3 bậc : Sơ khởi, Trung và Thượng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Sơ khởi là những vị sư cúng lễ thường và những vị phục sự nơi đền chùa. Họ tụng 3 Bộ Kinh Véda đầu, gồm : Rig Véda, Yayur Véda, Sama Véda. Họ hành lễ, chứng lễ các cuộc cúng tế, nên thường trực tiếp với dân chúng.

Bậc trung là những vị sư bói tốn, tiên tri, thỉnh Quỉ Thần, thỉnh thoảng họ làm vài phép linh cho dân chúng phục. Hạng này đọc và giảng giải Bộ Kinh Véda thứ tư là Atharva Véda. Bộ Kinh thứ tư này có nội dung cao hơn 3 Bộ Kinh trước và có những câu Thần chú.

Bậc thượng là bậc cao hơn hết, gồm các vị sư khơng cịn trực tiếp với dân chúng. Hạng này chuyên nghiên cứu các lực vơ hình trong vũ trụ.

Hạng Bà-La-Mơn sơ khởi phải tu học 20 năm mới lên hạng trung. Hạng trung tu học 20 năm mới lên hạng thượng.

Trên hết là một vị sư chưởng quản tôn giáo làm Giáo Chủ. Vị Giáo Chủ nầy có 70 vị sư

</div>

×