Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.6 MB, 392 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Giáo trình này đã được Hội đơng nghiệm thu giáo trình Trường Đại họcLuật Ha Nội (thành lập theo Quyết định số 1200/QD-DHLHNngày 11 tháng 4 năm 2017 của Hiệu trưởng Trường Dai học Luật Hà Nội)dong ý thông qua ngày 26 tháng 5 năm 2017 và được Hiệu trưởngTrường Đại học Luật Hà Nội cho phép xuất bản theo Quyết địnhsố 1191/QD-DHLHN ngày 30 tháng 3 năm 2018.</small>
<small>Mã số: TPG/K - 22 - 32</small>
<small>2720-2022/CXBIPH/03-269/TP</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">LỜI GIỚI THIỆU
<small>Xã hội học pháp luật là ngành xã hội học chuyên biệtnghiên cứu các quy luật xã hội, các quá trình xã hội của sự</small>
phát sinh, ton tại, hoạt động của pháp luật trong xã hội, trong moi liên hệ với cơ cấu xã hội, với các loại chuẩn mực xã hội khác; nguôn gốc, bản chất xã hội, các chức năng xã hội của
<small>pháp luật; các khía cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp</small>
luật, thực hiện pháp luật; các sự kiện, hiện tượng pháp lí thể hiện trong hoạt động của các chủ thể pháp luật.
Xã hội học pháp luật là một lĩnh vực khoa học li thu, bổ ích, nhưng cịn khá mới ở nước ta; được chú trọng tìm hiểu, nghiên
<small>cứu trong khoảng vài chục năm trở lại đáy với những cơng</small>
trình, bài viết phản ánh những mặt, khía cạnh khác nhau của
<small>khoa học này, đăng rải rác trên các sách, báo, tạp chí khoa học.</small>
Ngồi số lượng ít các sách, tài liệu dịch từ tiếng nước ngồi, hiện có rất it cuốn sách chuyên về xã hội học pháp luật được biên soạn một cách cơng phu, nghiêm túc và có hệ thống bởi
<small>các tác giả trong nước.</small>
Ở nước ta hiện nay, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyên xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã và đang thúc day mạnh mẽ nhu cẩu học tập, nghiên cứu xã
<small>hội học pháp luật cũng nhự ứng dụng cua nó vào việc giải</small>
quyết những van đề li luận và thực tiễn mà đời sống pháp luật
<small>dang dat ra. Xã hội học pháp luật đã trở thành môn học quan</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">trọng trong chương trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiễn sĩ tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành về xã hội học và luật học ở
<small>nước ngoài cũng như ở trong nước.</small>
Đối với Trường Đại học Luật Hà Nội, Xã hội học pháp luật là mơn học bắt buộc trong chương trình đào tao cứ nhân chuyên ngành Luật học; bởi vậy, nhu cẩu về tài liệu học tập, nghiên cứu xã hội học pháp luật trở nên cấp thiết. Với mục dich cung cap tài liệu hoc tập cho sinh viên cũng như ban doc có nhu câu tìm hiểu mơn khoa học này, Trường Đại học Luật Hà
<small>mơn khoa học này.</small>
Cuốn giáo trình có thể khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Các tác giả mong được bạn đọc góp ý đề có thể sửa chữa, bồ sung, hoàn chỉnh hơn cho lân xuất bản sau.
<small>Trán trọng giới thiệu cùng bạn đọc!</small>
<small>Hà Nội, tháng 7 năm 2022</small>
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>Chương |</small>
NHAP MON XÃ HỘI HỌC PHÁP LUAT
I. KHÁI QUÁT VE LICH SỬ HÌNH THÀNH, PHAT TRIEN CUA XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
1. Điều kiện xuất hiện xã hội học pháp luật
Vào cuối thé ki XVIII, ở Tây Âu biến đổi xã hội diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực khoa học, kinh tế, chính trị, xã
<small>hội... Khoa học tự nhiên đạt được những thành tựu lớn trong</small>
việc khám phá ra cấu trúc, thành phần của thế giới vật chất và phát triển các phương pháp nghiên cứu thế giới vật chất một cách hệ thống. Điều đó đã tác động đến các ngành khoa học xã hội. Phát minh của nhà vật lí học Newton khiến các nhà khoa học xã hội hi vọng sẽ tìm ra được một nguyên lí về một trật tự cân bang, những cơ chế về lực hấp dẫn tương tự trong xã hội. Nhà khai sang Montesquieu trong cuốn “Tinh than pháp luật” đưa ra các thuật ngữ có tính cơ học để lí giải về các hình thức nhà nước phụ thuộc vào các cơ chế vận hành và xem các hình thức đó có hoạt động theo đúng bản chất của nó khơng. Tinh thần pháp luật của một quốc gia có thê tạo ra một sự phục hưng và làm cho bộ máy nhà nước hoạt động trở lại dé có thé tiép tuc sự vận động đều đặn. Như vậy, tính chất khách quan của các quy luật nảy sinh từ bản chất của sự vật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Đồng thời với sự phát triển mạnh của khoa học, những biến đổi về chính tri ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội. Cuộc cách mạng tư sản đã làm thay đôi trật tự xã hội phong kiến đã tồn tại hàng trăm năm trước đó, thay thế vào đó là một trật tự xã hội
<small>mới. Dưới tác động của tự do hóa thương mại, thị trường mở</small>
rộng, hàng loạt các tập đồn kinh tế, nhà máy, xí nghiệp ra đời thu hút lao động từ nông thôn ra các đô thị. Nền sản xuất công
<small>nghiệp với quy mơ lớn địi hỏi mở rộng thị trường tiêu thụ sản</small>
phẩm va hàng hóa cơng nghiệp. Q trình đơ thị hóa đây mạnh cùng với sự tích tụ dân cư. Những biến đổi về kinh tế kéo theo những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội. Gia đình bị chia rẽ do các cá nhân rời bỏ cộng đồng ra khu vực đô thị làm việc va sinh sơng. Các giá trị văn hóa truyền thống thay đổi các cá nhân bị cuốn hút vào các hoạt động kinh tế với lỗi sống mang tính cạnh tranh, tình trạng thất nghiệp, tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng. Sự chuyên hóa cơ cấu kinh tế dựa trên cạnh tranh tự do thành độc quyền diễn ra nhanh, các quan hệ xã hội mới hình thành. Trong khi đó, pháp luật lại thay đổi một cách chậm chạp và vẫn còn phản ánh các quan hệ xã hội cũ khơng cịn thích hợp dé giải quyết các van dé xã hội mới nảy sinh.
Sự khủng hoảng bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, hệ tư tưởng, văn hóa. Nảy sinh nhu cầu làm cho cơ chế pháp luật thích nghi với những điều kiện xã hội mới. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến toàn bộ hệ thống pháp luật cũng như tư duy pháp lí truyền thống. Trường phái pháp luật thực chứng (legal positivism) hiện thời khơng thé lí giải được hết nội dung cũng như chức năng của pháp luật. Bởi pháp luật không chỉ là hệ thống quy tắc xử sự do nhà nước ban
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">hành hoặc thừa nhận đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước. Điều
<small>đó khơng có nghĩa là phủ nhận tính quy phạm hình thức của</small>
pháp luật, tuy nhiên, nếu chỉ hiểu pháp luật như vậy sẽ khơng phù hợp và khó có câu trả lời chính xác cho nhiều vấn đề hóc
búa đang hình thành trong xã hội như: những mâu thuẫn và
xung đột xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội, về mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, làm thé nào dé bảo đảm pháp ché, trật tự pháp luật, bằng phương pháp luận hình thức của pháp luật thực chứng thì khó có thể đưa ra những luận cứ cho sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của nhà nước pháp quyên... Pháp luật theo quan điểm thực chứng là pháp luật “chết”, “pháp luật trên giấy tờ”, tách rời khỏi xã hội, trừu tượng khó hiểu, khơng phản ánh được nhu cầu, ý nguyện và lợi ích của xã hội và như vậy pháp luật không thé hiện đúng chức năng vốn có của nó. Pháp luật phải được xem xét là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan mà con người có thé quan sát, nhận thức và mô tả được.
Như vậy, sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản đã làm xáo trộn đời sống kinh tế - xã hội của các giai cấp, tang lớp và các nhóm xã hội. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực tiễn phải thiết lập lại trật tự xã hội và nhu cầu nhận thức để giải quyết những van đề pháp lí nảy sinh. Xã hội học pháp luật ra đời vào cuối thé ki XIX đã góp phan giải quyết những van dé của thực tiễn pháp lí và phát triển mạnh vào đầu thế kỉ XX.
<small>Xã hội học pháp luật là lĩnh vực nghiên cứu giáp ranh liênngành giữa xã hội học và luật học. Ngay từ khi ra đời, đã có</small>
những tranh luận về nguồn gốc của xã hội học pháp luật, đó là
<small>mơn khoa học pháp lí hay khoa học xã hội học? Có sự tranh</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">luận vì các nghiên cứu về xã hội học pháp luật đầu tiên gan với tên tuổi của các nhà luật học như Eugen Ehrlich, Leon Petrazycki, Roscoe Pound... Tuy nhiên, không thé nghiên cứu xã hội học pháp luật mà chỉ dựa trên nền tảng tri thức của một lĩnh vực xã
<small>hội học hay luật học vì xã hội học pháp luật nghiên cứu các</small>
<small>khía cạnh xã hội của pháp luật. Pháp luật ở đây được xem xét là</small>
một hiện tượng xã hội, có q trình phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ton tại và phát triển của xã hội, chịu sự tác động của xã hội. Xã hội học pháp luật tiếp cận nghiên cứu pháp luật trên nền tảng tri thức và phương pháp xã hội học, trên cơ sở đó phát triển các lí thuyết tổng qt giải thích q trình xã hội liên quan đến pháp luật và tiến hành nghiên cứu thực nghiệm,
<small>và xã hội. Từ đó tìm ra những nguyên nhân và tác động của các</small>
hiện tượng xã hội khác đến pháp luật. Mặt khác, pháp luật ra đời là dé điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, do đó pháp luật tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với cách tiếp cận trên, theo quan điểm của chúng tôi, xã hội học pháp luật được
<small>định nghĩa như sau:</small>
<small>Xã hội học pháp luật là ngành xã hội học chuyên biệtnghiên cứu các quy luật xã hội, các quả trình xã hội của qua</small>
trình phát sinh, ton tại, hoại động của pháp luật trong xã hội,
trong moi liên hệ với các loại chuẩn mực xã hội khác, nguồn gốc, bản chất, các chức năng xã hội của pháp luật; các khía
<small>cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp</small>
luật và các sự kiện, hiện tượng pháp lí thể hiện trong hoạt động của các chủ thể pháp luật.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">2. Quan điểm của một số trường phái xã hội học pháp luật tiêu biểu
2.1. Trường phái Xã hội học pháp luật châu Au
Mặc dù các nhà nghiên cứu đều khang định rang xã hội học pháp luật ra đời ở châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, nhưng những tiền đề về tư tưởng cho sự hình thành xã hội học pháp luật được bắt dau từ thé kỉ trước.
<small>De La Brède - Montesquieu (1689 - 1755) là nhà tư tưởng</small>
người Pháp. Tác phẩm “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu xuất bản năm 1748 là cơ sở cho các nghiên cứu xã hội học pháp
<small>luật. Theo ông, các luật lệ phải được xem xét như là các sự kiện.Từ việc nghiên cứu các sự kiện giúp chúng ta khám phá ra</small>
nguyên nhân của các sự kiện đó. Ơng muốn nghiên cứu hệ thống pháp luật một cách khách quan như sự tồn tại của các sự kiện xã hội khác. Ông cho răng “rước khi luật pháp được cau thành, đã có những mối tương quan có thé được về cơng lí”. “Luật, theo nghĩa rộng nhất, là những quan hệ tắt yếu từ trong bản chất của sự vật. Với nghĩa này thì mọi vật déu có quy luật
của nó ”.? Như vậy, trong phạm vi luật pháp cũng có một định
luật giống như định luật chi phối “bản chất của các sự vật”. Phương pháp thực nghiệm là phương pháp duy nhất đem lại kết
<small>quả chính xác.</small>
Ơng nghiên cứu pháp luật trong mối liên hệ với các hiện
<small>! Montesquieu, Tinh than pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường Dai hoc Khoa học</small>
<small>Xã hội và Nhân văn - Khoa Luật, Hà Nội, 1996, tr. 2.</small>
<small>2 Montesquieu, Tinh than pháp luật, Nxb. Giáo duc, Trường Dai hoc Khoa hoc</small>
<small>Xã hội va Nhân văn - Khoa Luật, Ha Nội, 1996, tr. 39.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>tượng xã hội khác như: chính trị, đạo đức, tơn giáo, phong tục,</small>
tập quán, truyền thống dân tộc, dân sé, tiền tệ và ngay cả các yếu tố vật chất như khí hậu, đất đai... cũng tham gia vào sự hình thành pháp luật, trong đó chính trị là yếu tố quyết định đến pháp luật. Ông phân chia xã hội Pháp thành ba tầng lớp: vua chúa, quý tộc và dân thường, quyền lực nhà nước chia thành hai loại là chuyên chế và hành chính. Quyền lực hành chính được chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này được phân lập, phụ thuộc vào nhau để ảnh hưởng sao cho khơng một quyền nào có thé vượt quá hai quyền còn lại và ba quyền này được giao cho ba cơ quan khác nhau nắm giữ. Đây là quan điểm cấp tiến vì đã hồn tồn loại bỏ ba đắng cấp thời bấy giờ là tăng lữ, quý tộc và những người dân còn lại được gọi là đăng cấp thứ ba, tức là đã loại bỏ tàn tích của chế độ phong kiến. Ơng chỉ ra có ba dạng nhà nước tồn tại dựa trên ba “nguyên tắc” xã hội là quân chủ (chính quyền được tự do do một người đứng đầu được thừa kế tức là vua hay nữ hoàng) dựa trên nguyên tắc danh dự; cộng hịa (chính quyền được tự do do người đứng đầu được bầu ra lãnh đạo) dựa trên nguyên tắc đức hạnh; và độc tài (chính quyên bị kiểm soát bởi các nhà độc tài) dựa trên nỗi sợ hãi. Ơng cũng phân tích những luật lệ nào là cần thiết trong ba loại chính thé dé khiến cho quốc gia bảo tồn được sức mạnh trước các quốc gia khác. Theo ông, pháp luật là phương tiện hữu hiệu duy trì trật tự xã hội và chế ước quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, nên dân chủ pháp trị ấy chỉ mang ý
<small>nghĩa tích cực và phát huy tác dụng của nó phải dựa trên</small>
nguyên tắc đạo đức và lòng khoan dung, của tinh thần trách nhiệm và sự hi sinh quyên lợi riêng tư cho mục dich chung.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Đánh giá về giá trị của tác phâm Tinh thần pháp luật: “Aron cho rằng chủ dé của Tinh than pháp luật là mục đích chính của xã hội học nó làm cho lịch sử có thé hiểu được... Aron coi
<small>Montesquieu là một nhà xã hội học còn hơn ca Comte và là một</small>
trong những nhà lí luận lớn nhất của bộ mơn. Durkheim nhận xét: trong khi xây dựng xã hội học, những thé hệ tiếp sau đã khơng làm gì nhiễu hơn ngồi việc đặt tên cho lĩnh vực nghiên
cứu mà Montesquieu đã mở đầu ”.!
<small>Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778) sinh tai Geneva, là</small>
nhà nghiên cứu thuộc trào lưu Khai sáng. Tac pham “Bàn về khế ước xã hội” ra đời năm 1762 lí giải về q trình hình thành xã hội và nhà nước trên quan điểm của thuyết quyền tự nhiên
<small>và thỏa thuận xã hội.</small>
Theo ông, trật tự xã hội là một thứ quyền thiêng liêng làm nên tảng cho mọi thứ quyền khác. Trật tự xã hội không phải tự
<small>nhiên mà có, nó được xác lập trên cơ sở các cơng ước. Cơng</small>
ước hình thành dựa trên nhu cầu tổn tại của con nguoi. Dé bảo
<small>vệ mình trước nguy cơ tha hóa của trang thai tự nhiên thành</small>
<small>trạng thái khơng cịn luật pháp hay đạo đức, các cá nhân khơng</small>
cịn cách nào khác là kết hợp lại với nhau tạo thành một lực chung, điều khiển bằng một động cơ chung, khiến cho mọi người đều hành động một cách hài hịa. “M6i người chúng ta đặt mình và quyên lực của mình dưới sự điều khiển tỗi cao của ý chí chung, và chúng ta tiếp nhận mọi thành viên như một bộ
<small>! Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng, Lịch sử xã hội học, Nxb. Lí luận chính trị,</small>
<small>Hà Nội, 2005, tr. 18.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">phận không thể tách rời của toàn thể”.! Trật tự xã hội do các quyết định của cá nhân tạo ra, cá nhân lại tự đặt mình dưới quyền của ý chí chung thê hiện trong khế ước.
Trật tự xã hội không thể phục tùng cái gì khác ngồi sự tự
<small>do của con người. Trên cơ sở đó hình thành nên con ngườicơng cộng và đó chính là “Nhà nước”. Các cá nhân riêng lẻ</small>
<small>được gọi là “công dân” khi phục tùng luật pháp. Nhà nước</small>
được tạo ra do sự đoàn kết của các thành viên trong xã hội. Nhà
nước tôn tại thì phải có một lực lượng chung mang tính cưỡng chế dé động viên, xếp đặt cho mỗi bộ phận đều được thỏa đáng với toàn bộ. Thiên nhiên đã ban cho con người cái quyền tuyệt đối sử dụng tứ chi, thì cơng ước xã hội cũng phải trao cho cơ thé chính trị cái quyền tuyệt đối với các thành viên của nó. Chính cái quyền tuyệt đối ấy được điều hành bằng ý chí chung, mang tên quyền lực tối cao. Các cá nhân trao quyên lực cho chính quyên - những người đại diện cho nguyện vọng và ý chí chung của quảng đại quần chúng. Tuy chính quyên chỉ là một phần nhỏ trong dân chúng nhưng là người nắm pháp luật, họ
<small>chính là các quan tòa - những người áp đặt việc thực hiện ý chí,nguyện vọng chung của nhân dân.</small>
<small>Trong xã hội, pháp luật khơng những có vai trị quan trọng</small>
đối với việc xác lập quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi người, mà còn là cơ sở để đo lường sự phải trái trong quan hệ giữa các
<small>thành viên xã hội và giữ cho xã hội trong vịng trật tự. Theo</small>
ơng, luật bao giờ cũng là tong quát chung cho mọi người và tat
<small>! J.J. Rousseau, Bàn về khé ước xã hội, Nxb. Lí luận chính trị, Hà Nội, 2006,</small>
<small>tr. 68.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">cả thần dân là một cơ thể, mà trừu tượng hóa các hành động. Y chí chung phan ánh lợi ich chung của cộng đồng va chính lợi ích chung của cộng đồng phải trở thành nền tảng của luật pháp. Thế nhưng muốn thật sự là ý chí chung thì phải là ý chí chung từ trong đối tượng và trong bản chất của nó, phải từ tất cả và ứng dụng cho tất cả. Ý chí chung sẽ mất đi sự đúng đắn tự nhiên khi nó thiên về một đối tượng riêng lẻ nhất định. Dân
<small>chúng là những người phải tuân theo luật và là những người</small>
làm ra luật. Luật bao gom ba loai: Luat co ban (luat chinh tri),
<small>luật dân su và luật hình sự, ngồi ba loại đó con một thứ quan</small>
<small>trọng hơn cả là phong tục, tập quán và dư luận xã hội, thứ luật</small>
này không khắc vào bảng đồng, bia đá mà khắc vào lòng dân tạo nên hiến pháp chân chính của quốc gia.
Rousseau muốn xây dựng một thiết chế chính trị dựa trên quyết định tự do của các cá nhân đó chính là khế ước xã hội. Theo ơng, cơ thé chính trị có quyền lực tối cao phải là một “con người tập thể” và “con người tập thể” này có quyên tuyệt đối đối với các thành viên của nó. Tuy nhiên, quyền lực tối cao không thể vượt qua giới hạn của công ước tổng quát, tức là không thể vi phạm những thoả thuận mà con người đã xác lập. Quyền lực tối cao là thống nhất khơng thé phân chia. Thống nhất vì nó là ý chí chung của nhân dân, đại diện và bảo vệ lợi ích chung của nhân dân. Mặc dù ông phủ nhận quan điểm của Montesquieu về việc phân chia quyền lực thành các nhánh độc lập, nhưng Rousseau vẫn chủ trương phân chia chức năng của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quyền lập pháp luôn được
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">thực hiện một cách trực tiếp bởi tồn thể nhân dân và khơng
<small>tách rời khỏi nhân dân.</small>
<small>Karl Marx (1818 - 1863). Khác với các nhà tư tưởng của</small>
trường phái pháp quyền tự nhiên, Marx cho răng pháp luật ra đời gắn liền với sự ra đời của nhà nước. Pháp luật không tồn tại vào thời kì nguyên thủy, vì trong thời kì này trình độ phát triển kinh tế cịn thấp kém, chỉ có các tập qn, tơn giáo và quy phạm đạo đức là phương tiện dé điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng khi chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành giai cấp, giữa các giai cấp có sự mâu thuẫn gay gắt khơng điều hịa được, các chn mực xã hội cũ khơng cịn khả năng duy trì được trật tự xã hội, cần có một loại chuẩn mực xã hội mới có tính cưỡng chế mạnh mẽ hon, thé hiện ý chí giai cấp đó là pháp luật. Theo Marx, pháp luật là một thành phần của kiến trúc thượng tầng của xã hội cùng với văn hóa, hệ tư tưởng... và được quyết định bởi điều kiện vật chất của xã hội. Pháp luật là những quy tắc phản ánh phương thức sản xuất của xã hội. Trong các xã hội có giai cấp, pháp luật luôn là công cụ thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, thể hiện trực tiếp ý chí của giai cấp thống trị. Luật pháp trong xã hội tư bản là không công bằng, do bản chất của xã hội là xung đột, vì xã hội được cấu thành bởi các giai cấp mâu thuẫn, đối lập với nhau về lợi ích. Xung đột sẽ dẫn đến các cuộc cách mang, giai cap vô sản sẽ đứng lên dau tranh chiếm giữ tư liệu sản xuất và thiết lập nên chuyên chính của giai cấp mình và cuối cùng được thay thế băng xã hội cộng sản - xã hội khơng có giai cấp, pháp luật cũng khơng cịn cần thiết bởi nó là phương tiện của sự áp bức giai
Kế tiếp những nghiên cứu nhằm tìm ra bản chất của pháp luật bằng cách quy chiếu tới những điều kiện xã hội mà trong đó nó vận hành, phải kế đến hai nhà xã hội học nổi tiếng đó là
<small>Emile Durkheim và Max Weber.</small>
<small>Emile Durkheim (1858 - 1917) là người khởi xướng xây</small>
dựng lí thuyết chức năng luận trong xã hội học, các cơng trình nghiên cứu của ơng có ý nghĩa rất lớn về lí thuyết và phương pháp đối với sự phát triển của xã hội học nói chung và xã hội học pháp luật nói riêng. Durkheim sống trong thời kì nước Pháp bị that bại trong cuộc chiến năm 1870, tiếp đó là cuộc nổi dậy và bị đàn áp đẫm máu cơng xã Paris năm 1871. Do đó, các tác phẩm của ông tập trung vào việc tim ra quy luật dé thiết
<small>khơng tan rã? Theo ơng, chính luật pháp có vai trị quan trọng</small>
trong việc thúc day và duy trì sự đồn kết xã hội (social solidarity). Ơng chỉ ra rằng, khi xã hội tiến hóa từ thần quyền đến chủ nghĩa thế quyên, từ chủ nghĩa tập thé đến chủ nghĩa cá nhân, luật pháp đã hướng tới sự bôi thường hon là chỉ trừng
<small>phạt. Tuy nhiên, sự trừng phạt đóng vai trị quan trọng trong</small>
việc thể hiện thái độ chung về đạo đức nhờ đó sự đồn kết xã
<small>hội được bảo tồn.</small>
Ơng dùng khái niệm đồn kết xã hội dé chỉ các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa các cá nhân với nhau. Nếu như khơng có sự đồn kết xã hội thì các cá nhân riêng lẻ, biệt lập không thé tạo thành xã hội với tư cách là một chỉnh thé. Có hai kiểu đoàn kết xã hội là “đoàn kết cơ học” (mechanical solidarity)
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">và “đoàn kết hữu co” (organic solidarity). Những hình thức của sự đồn kết xã hội này được phản ánh trong luật pháp: phân loại những luật pháp khác nhau, ta sẽ thay những kiêu đoàn kết
<small>xã hội tương ứng.</small>
Trong các xã hội cổ xưa, con người gắn bó với nhau bang sự đồn kết cơ học là kiểu đoàn kết xã hội dựa trên sự thuần nhất, đơn điệu của các giá trị và niềm tin. Các cá nhân gắn bó với nhau vì sự kiềm chế mạnh mẽ từ phía xã hội và vì lịng trung thành của cá nhân đối với truyền thống, tập tục và quan hệ gia đình. Sức mạnh của ý thức tập thé có khả năng chi phối và điều chỉnh suy nghĩ, tình cảm và hành động của các cá nhân. Trong xã hội kiểu cơ học, quyền tự do, tinh thần tự chủ và tính độc lập của các cá nhân rất thấp. Sự khác biệt và tính độc đáo của cá nhân là khơng quan trọng. Xã hội gắn kết kiểu cơ học thường có quy mô nhỏ, nhưng ý thức cộng đồng cao, các chuẩn mực, luật pháp mang tính chất trừng phạt. Ở xã hội hiện đại, con người gắn bó với nhau băng kiêu đoàn kết hữu cơ dựa trên
<small>cơ sở phân cơng lao động, tính đa dạng và sự khác biệt trong xã</small>
hội. Xã hội đồn kết hữu cơ thường có quy mơ lớn, ý thức cộng
<small>trái trong xã hội.</small>
LÍ giải về hiện tượng tội phạm, Durkheim cho rằng một sự kiện được coi là bình thường đối với một kiểu xã hội nhất định, trong một giai đoạn nhất định. Hiện tượng tội phạm cũng là
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">một hiện tượng bình thường của đời sống xã hội bởi nó có ở tất cả các kiểu xã hội và là bộ phận không thê thiếu trong cơ thể xã
<small>hội lành mạnh. Qua các thời kì khác nhau tội phạm cũng thay</small>
đổi hình thức. Hành vi được coi là tội phạm không giống nhau ở các quốc gia. Tội phạm là hành vi xâm phạm tới lương tâm tập thé, nó có tội vì nó gây căm phan cho lương tâm tập thé. Dé cho trong xã hội một hành vi được coi là tội phạm điển hình mất đi, thì tình cảm tập thé đã bị tốn thương phải được thấy trở lại trong tat cả ý thức của các cá nhân. Trong thực tế, nếu điều này xảy ra thì tội phạm khơng vi thế mà biến mất, nó chỉ thay đơi hình thức vì nguyên nhân làm cạn kiệt nguồn tạo ra tỘI phạm sẽ lập tức mở ra một nguồn gây ra tội phạm mới. Ông lập luận thêm, một số tội phạm đôi khi là cần thiết đối với sự tiến hoá của xã hội “theo luật pháp Aten, Socrat là kẻ phạm tội và sự kết tội ông chỉ có chính đáng thơi. Song tội của ơng, đó là sự độc lập tư duy của ơng, lại là có ích, chẳng những cho nhân loại, mà còn cho cả tổ quốc của ơng. Vì ơng phục vụ chuẩn bị cho một nên đạo đức và một lòng tin mới mà những người dân Aten khi đó cân đến vì các truyền thống mà họ đã sống cho đến lúc đó khơng cịn phù hợp với các điều kiện tơn
<small>tại của họ nữa. Song trường hợp của Socrat không phải là</small>
trường hợp đơn độc, trường hợp đó vẫn được tdi sinh một
cách định kì trong lich sử ”.!
Ơng khẳng định, nếu coi hiện tượng tội phạm là một căn bệnh của xã hội thì hình phạt chính là phương thuốc để chữa
<small>'E. Durkheim, Các quy tac của phương pháp xã hội học, Nxb. Khoa học xã</small>
<small>hội, Hà Nội, 1993, tr. 90 - 95.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">căn bệnh ấy, không thể khác được. Nhưng hình phạt phải được áp dụng như thế nào để hồn thành vai trị phương thuốc chữa căn bệnh đó của xã hội. Nếu tội phạm là hiện tượng bình thường của xã hội, thì hình phạt khơng phải đối tượng để chữa nó và chức năng thực sự của nó phải tìm kiếm ở nơi khác. Luật pháp hà khắc ở các xã hội kém phát triển, cịn trong xã hội hiện
<small>đại thì hình phạt trở nên bot tính tan bạo. Biện pháp trừng phạt</small>
chỉ là cách mà chính quyền củng cố lương tâm tập thể băng trừng phạt những ai xúc phạm đến chính quyền.
<small>Max Weber (1864 - 1920) là nhà xã hội học người Đức.</small>
Sinh ra trong một gia đình trí thức, ơng đã theo đuôi sự nghiệp qua rất nhiều lĩnh vực sử học, luật học, kinh tế học và xã hội
<small>học. Cùng với A. Comte, E. Durkheim, M. Weber được coi là</small>
<small>một trong những thành viên sáng lập ra ngành xã hội học.</small>
Trong khi E. Durkheim chịu sự ảnh hưởng lớn bởi quan điểm thực chứng luận thì Max Weber lại nhấn mạnh đến việc lí giải động cơ và ý nghĩa của hành động xã hội. Ông cho rằng: “nhiệm vu cua xã hội học là nghiên cứu các thiết chế xã hội như nhà nước, pháp luật, tổ chức, cộng đồng... với tư cách là
hành động cua cá nhân dang tương tác với nhau ”.!
Theo Weber, nhà nước là một tổ chức độc quyền, hợp pháp sử dụng sức mạnh bạo lực. Có ba loại hình thống tri: Loại hình mang tinh hợp li là loại hình thống tri được quy định bởi luật pháp; loại hình mang tính truyền thống: loại hình thống tri bằng uy tín. Thống trị băng uy tín hay sự sùng bái cá nhân
<small>! Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng, Lịch sử xã hội học, Nxb. Lí luận chính trị,</small>
<small>Hà Nội, 2005, tr. 113.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">không ổn định nên thường phải hành chính hóa dé trở thành một hình thức quyền lực có cau trúc vững chắc hơn. Hình thức thống trị hợp lí dựa trên cơ sở pháp luật, trong đó quyền lực được thê hiện thông qua bộ máy hành chính. Trong số ba loại hình lí tưởng về quyền lực nhà nước, Weber coi nhà nước có bộ máy hành chính là loại nhà nước phát triển nhất vì nó có một “trật tự pháp lí” bao gồm các quy phạm mang tính chất duy lí.
Ơng cho rang, sự phát triển của luật pháp là một quá trình tiền hóa từ tính phi duy lí sang tính duy li (tức là q trình duy lí hóa). Ở đây, tính duy lí pháp lí (/egal rationality) có nghĩa là một hệ thống các quy phạm mang tính chất nhất quán, logic cả quy tắc và quá trình ra phán quyết đều hợp lí. Sự tn thủ trình tự đó có được là nhờ trật tự pháp lí và hình thức chính quyền quan liêu, chuyên nghiệp. Dấu hiệu của quyên lực hợp pháp - duy lí
<small>là tính khơng thiên vi của nó va phi nhân cách hình thức: Như</small>
các nhà chức trách thi hành pháp luật không để sự căm ghét hoặc niềm say mê, sự yêu thích hay sự nhiệt tình... khơng dé những gi thuộc về cá nhân tác động đến cơng việc ma chi don thuần đó là bốn phận. Cịn tính phi duy lí pháp lí (/egai
<small>irrationalify) có nghĩa là sử dụng những phương tiện khác</small>
ngồi lơgic hay lí trí để đưa ra phán quyết trong các vụ án. Trong các xã hội thống trị bởi một nhà lãnh đạo có uy tín lơi cuốn, tư duy pháp lí bất hợp lí về cả hình thức lẫn nội dung. Cơng lí có nghĩa là sự lơi cuốn do uy tín, sự tuân thủ nhằm đáp
<small>lại nhà lãnh đạo, trong xã hội như vậy thì hồn tồn khơng có</small>
chính quyền. Theo Weber, loại hình hệ thống pháp luật ln
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">phù hợp và tương thích với loại hình tổ chức chính trị tổng qt
<small>của một xã hội.</small>
Ông khang định, pháp luật chịu ảnh hưởng gián tiếp bởi hồn cảnh kinh tế, sự chun đơi cơ cấu xã hội tư bản có ảnh hưởng đến sự phát triển của pháp luật. Khi phân tích về tinh thần của chủ nghĩa tư bản, ngoài những yếu tổ như thị trường,
<small>kĩ thuật thì vai trị của luật pháp và bộ máy hành chính có ý</small>
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Ông viết: “Cji
<small>nghĩa tư bản hiện đại doi hỏi phải có sự tiên liệu, có tính tốn,</small>
khơng chỉ về mặt kĩ thuật sản xuất, mà cả về mặt luật pháp cũng như một bộ máy hành chính với những quy tắc, hình thức rõ rang. Khơng có những yếu tơ này, thì chắc chắn sẽ chỉ có thể nảy sinh thứ chủ nghĩa tư bản phiêu lưu và thương mại đâu
Đối với Weber, pháp luật cơ bản gắn liền với nhân tố kinh tế, nhưng không được quyết định bởi nhân tổ kinh tế. Chính sách kinh tế hợp lí là trọng tâm của chế độ tư bản, nhưng chủ
<small>nghĩa duy lí này có được là nhờ sự phù hợp và khả năng dự báo</small>
của luật pháp. Một hệ thống các quy phạm mang tính chất nhất quán và logic là điều kiện tiên quyết của chủ nghĩa tư bản giúp các nhà buôn theo đuổi công việc kinh doanh và tạo ra lợi
<small>' Max Weber, Nén đạo đức tin lành và tinh than chủ nghĩa tư bản, Nxb. Tri</small>
<small>thức, Hà Nội, 2010, tr. 60.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">nhuận. Việc đạt được tính duy lí nào đó địi hỏi hệ thống hóa một trật tự pháp luật mà ơng thấy thiếu vắng một cách bất thường trong pháp luật Anh quốc. Vậy làm sao giải thích được sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản ở Anh. Câu trả lời của ông là: thứ nhất, mặc dù luật nước Anh thiếu trật tự có tính hệ thống của luật La Mã, nhưng nó lại là một hệ thong phap li co tinh hình thức cao (như trong tổ tung dân sự phải tuân theo những thủ tục đặc biệt và chính xác của những án lệ cụ thé dành cho
<small>đốn cao hơn trong môi trường kinh doanh; thứ hai, việc hành</small>
nghề luật sư ở Anh, trong thời kì phát triển của chủ nghĩa tư bản tập trung chủ yếu ở khu vực thương mai (The City). Các luật sư thường tư van cho các chuyên gia và tập đoàn lớn. Điều đó giúp họ đưa ra những yêu cầu sửa đổi pháp luật cho phù hợp
<small>với quan hệ kinh doanh; thứ ba, những luật sư ở Anh có tính</small>
chun nghiệp cao và hoạt động giống như những hội viên của phường hội thủ công, văn bản pháp luật ban hành nhằm ngăn ngừa việc kiện cáo sau này. M. Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp luật như là một u tố của q trình duy lí góp phân hình thành, phát triển xã hội hiện đại và chủ nghĩa tư bản
<small>ở phương Tây.</small>
Trên đây là những quan điểm làm nền tảng cho sự ra đời của xã hội học pháp luật. Các cơng trình nghiên cứu về xã hội học pháp luật hồn chỉnh gắn liền với đóng góp của các học giả tên tuổi như Eugen Ehrlich, Leon Petrazycki, Georges
<small>Gurvitch... Nghiên cứu xã hội học pháp luật mo rộng khái</small>
niệm pháp luật ra ngoài phạm vi cách tiếp cận nghiên cứu pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">luật thường thấy trong giới luật sư về lĩnh vực tô tụng được đưa ra từ phòng xử án. Các nhà nghiên cứu tiếp cận pháp luật theo hướng đa nguyên, phát triển phạm vi của xã hội học pháp luật theo nhiều hướng khác nhau.
<small>Eugen Ehrlich (1862 - 1922) là nhà xã hội học pháp luật</small>
người Áo. Ông đưa ra lập luận rằng, khái niệm pháp luật mà người ta dùng lâu nay là rất bó hẹp và có tính kĩ thuật, đó đơn thuần chỉ là khái niệm pháp luật trong thực tiễn xét xử. Cái này chưa đủ bởi vì trong thực tiễn lại có một thứ pháp luật khác
<small>chứ không phải do quan tịa, vì vậy cịn có một loại pháp luật</small>
rộng hơn nhiều đang tồn tại trong mỗi cộng đồng xã hội. Chỉ pháp luật ấy mới sinh động và giúp con người giải quyết tat cả các mâu thuẫn phat sinh trong đời sông xã hội. Ehrlich gọi thứ
<small>pháp luật được ban hành bởi nhà nước trên cơ sở của hoạt động</small>
xét xử và hoạt động của các cơ quan thi hành, xét cho đến cùng chỉ là pháp luật của một thiêu số dân chúng. Từ đó ơng đưa ra kết luận: “Trọng tâm phát triển pháp luật nằm ở ngay trong xã hội chứ không phải ở pháp chế, luật học hay các quyết định của tòa án. Các chuẩn mực pháp luật do các cơ quan thi hành pháp luật dùng chỉ là các chuẩn mực dùng để ra các quyết định vì thé thực tiễn pháp lí không thé hiện cuộc sống”.! “Đối với xã
<small>! Kulcsar Kalman (Đức Uy biên dịch), Cơ sở xã hội học pháp luật, Nxb. Giáo dục,</small>
<small>Hà Nội, 1999, tr. 71.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">hội học pháp luật, bản thân chuẩn mực pháp luật chẳng nói lên cái gì cả. Nếu xã hội học muốn phát hiện ra tính quy luật của đời sống pháp luật thì nó can nghiên cứu cả các hiện tượng xã hội và kinh tế, bởi vì chỉ có thể hiểu đúng sự phát triển của pháp luật nếu gắn liên nó với sự phát triển xã hội và kinh tế”.!
<small>Nhà làm luật không làm ra luật mà chỉ phát hiện ra luật mà thơi.</small>
Do đó nhiệm vụ của xã hội học pháp luật là đi tìm nguồn gốc
<small>và sự ảnh hưởng của pháp luật chứ không chỉ nghiên cứu thực</small>
tiễn áp dụng pháp luật và lí giải chuân mực.
Ehrlich khăng định tính xã hội và tính đa ngun của pháp luật, ơng cho rằng có hai loại pháp luật: pháp luật của nhà nước và pháp luật từ thực tiễn cuộc sống. Tòa án và cơ quan hành chính cũng cần có được cái tự do lập pháp. Mặt khác, trong mỗi tô chức hay sự liên kết của con người (bộ lạc, gia đình, cơng ti, hội đồn, cơng xã...) đều tồn tại một trật tự tự thân, cái trật tự do họ tự làm được gọi là các thỏa thuận, hợp đồng hay quy chế
<small>hoặc là các tên gọi khác. Nhưng nó khác quy định trong luật nhà</small>
nước ở chỗ nó do các liên minh của con người tự làm nên và ln có một trật tự khiến người ta tự nguyện tuân thủ. Vì vậy,
nền tảng và bản chất của pháp luật nên tìm trong chính xã hội.
Phương pháp tìm kiếm tốt nhất đó là thực nghiệm: quan sát cuộc sông, hành vi của con người, nghiên cứu tập quán, các tư liệu pháp luật, biên bản của việc thực thi pháp luật... Nguồn tư liệu pháp luật quan trọng nhất mang tính điển hình là các quyết định của tịa án, cịn một yếu tơ quan trọng khác đó chính là các văn
<small>! Kulcsar Kalman (Đức Uy biên dịch), Cơ sở xã hội học pháp luật, Nxb. Giáo dục,</small>
<small>Hà Nội, 1999, tr. 73.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">bản trong đời sống kinh doanh, hợp đồng mua bán, tín dụng, điều lệ cơng ti, di chúc, giấy đăng kí kết hơn... Những văn bản này mang tính cá nhân, cá biệt trong đời sống kinh doanh, hàm chứa những nội dung điển hình, lặp đi lặp lại nhiều lần và có những lĩnh vực mà chuẩn mực pháp luật chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh một phân. Như vậy, Ehrlich đã đưa ra những luận cứ khoa học nhằm xác lập lĩnh vực đối tượng nghiên cứu và
<small>phương pháp nghiên cứu của xã hội học pháp luật.</small>
<small>Leon Petrazycki (1867 - 1931) nhà xã hội học pháp luật</small>
người Ba Lan lại đưa ra hướng tiếp cận tâm lí về pháp luật. Ơng phân biệt giữa hình thức “pháp luật thực định” được ban
<small>hành và đảm bảo bởi nhà nước và “pháp luật trực quan”</small>
(intuitive legal rules). Pháp luật trực quan bao gồm những kinh
<small>nghiệm pháp lí hình thành qua một quá trình phức tạp từ xúc</small>
<small>cảm trong tâm trí của các cá nhân (xúc cảm là một hình thức</small>
trải nghiệm cơ bản của con người về thái độ của chính mình đối
<small>với sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, người khác và</small>
với bản thân) thúc đây cá nhân hành động. Pháp luật trực quan
cùng với đạo đức giúp cho cá nhân thực hiện hoặc kiềm chế
thực hiện hành động. Theo ơng, phương pháp thích hợp nhất cho việc nghiên cứu thu thập những thông tin, kiến thức về kinh nghiệm pháp lí là quan sát nội tâm bên trong và thế giới bên ngoài. Quan sát bên ngồi liên quan đến những thơng tin về ý nghĩa của một hành động hoặc biểu tượng từ quan sát ngay lập tức mà không cần tham chiếu đến bất kì bối cảnh rộng lớn hơn. Cịn quan sát nội tâm là đặt các hành động cụ thê trong một bối cảnh rộng hơn về ý nghĩa sự kiện liên quan mà không xuất phát từ một hành động hoặc biểu hiện cụ thé.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Petrazycki cho rằng, pháp luật tồn tại dưới nhiều hình thức, trong đó bao gồm cả các quy chế hoạt động của các nhóm, tiền lệ pháp, tập tục.... Luật pháp nam trong kinh nghiệm thuộc về ý thức như một sự cưỡng chế hay sự thôi thúc cá nhân phải thực hiện nhiệm vụ nào đó tương ứng với một quyền hạn nhất định. Mỗi người tham gia vào q trình thực hiện pháp luật đã có những kì vọng trước về những gi pháp luật yêu cầu trong từng tình huỗng nhất định. Nguồn gốc của mệnh lệnh và kì vọng như vậy khơng nằm ngồi các nguồn của pháp luật như quy chế, tiền lệ pháp. tập tục... thống trị trong một xã hội cụ thể. Điều đó là cần thiết dé có thé tiếp cận nghiên cứu hiện tượng pháp luật trong lương tâm và trực giác. Muốn khám phá quá trình của pháp luật như cách thức nó ton tại phải dựa vào sự phân tích các yếu tố mang tính mệnh lệnh và kì vọng bên trong ý thức cá nhân đó là pham chat tâm lí đặc biệt, có trong quy tắc đạo đức.
<small>Georges Gurvitch (1894 - 1965) là nhà xã hội học pháp luật</small>
người Pháp, người đặt nền móng cho sự hình thành lí thuyết xã hội học pháp luật một cách hệ thống. Ơng cho răng, pháp luật mang tính thống nhất thông qua những biểu hiện đồng thời trong các hình thức và các cấp độ khác nhau của sự tương tác xã hội. Mục tiêu của ông là nhăm xây dựng khái niệm “pháp
<small>luật xã hội” (social Jaw) như một định luật cua sự tương tac và</small>
hợp nhất. Giống như các nhà nghiên cứu khác, ông nhắn mạnh pháp luật không chỉ là các quy tắc được ban hành và thực thi bởi các cơ quan của nhà nước, chăng hạn như cơ quan lập pháp, tòa án và cảnh sát. Các nhóm xã hội, các cộng đồng xã hội khác
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">nhau, cho dù được thành lập và tổ chức chính thức hay khơng ln tạo ra các quy tắc riêng để kiểm soát và điều chỉnh quan hệ với các nhóm xã hội, cộng đồng xã hội khác. Theo quan điểm xã hội học pháp luật cách thức đó cũng được coi là pháp luật. Tư tưởng đa nguyên pháp lí! thể hiện trong tác phẩm
<small>Sociology of Law, trong đó Gurvitch đã xác lập một cách chính</small>
xác, căn bản nhất lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học pháp luật và mở rộng các nghiên cứu của mình ở hầu hết các lĩnh vực trong thực tiễn đời sống pháp lí.
<small>Theo ơng, xã hội học pháp luật là một lĩnh vực xã hội học</small>
nghiên cứu về tinh thần con người (Auman spirit), xuất phat từ việc nghiên cứu tâm lí tập thé hay lí trí tập thé. Tinh than tập thé thé hiện thông qua hành động tập thé ở cách thức tổ chức thực hiện pháp luật, cách thức xử sự đến các biéu hiện ở cơ cấu không gian, cơ sở vật chất hình thành nên các chế định pháp luật. Xã hội học pháp luật là cầu nối trung gian giữa những biểu hiện về mặt vật chất của pháp luật phù hợp với ý nghĩa bên trong dé thúc đây và đưa pháp luật vào thực tiễn, đồng thời là cơ sở sửa đổi pháp luật cho phù hợp. Xã hội học pháp luật đi từ những biểu hiện thành văn như các quy phạm mang tính chuẩn mực, thủ tục, sắc lệnh cho đến những biểu hiện đặc biệt của pháp luật như các quy định tùy nghỉ và pháp luật tiềm ẩn; từ pháp luật tiềm ân chuyền sang giá trị pháp luật và các lí tưởng pháp luật và cuối cùng là khảo sát ý kiến của tập thé về các chế
<small>định pháp luật.</small>
<small>! Đa nguyên pháp lí là khái niệm dùng dé mơ tả tình huống mà trong đó hai hay</small>
<small>nhiều hệ thống pháp luật cùng tồn tại điều chỉnh cùng một lĩnh vực xã hội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Gurvitch chỉ ra đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật bao gồm ba lĩnh vực: Thứ nhất, nghiên cứu các lĩnh vực vi mô, bao gồm tiếp cận theo chiều ngang, đó là các quy tắc pháp lí có tính tổ chức được đảm bảo bằng sự trừng phạt và cưỡng chế bên ngoài, ngoài ra nó cịn nghiên cứu cả những quy tắc pháp lí hình thành một cách tự phát và lan truyền trong các cộng đồng xã hội; tiếp cận theo chiều dọc, đó là các hình thức pháp luật hoạt động trên cơ sở một hệ thống phân cấp phụ thuộc lẫn nhau với từng quan hệ xã hội cụ thể. Thứ hai, nghiên cứu lĩnh vực vĩ mô là nghiên cứu mối liên hệ giữa thực tại xã hội với các lĩnh vực của pháp luật. Lĩnh vực cuối cùng là nghiên cứu về nguồn gốc của pháp luật, bao gồm những quy tắc mang tính định hướng cua bat kì hệ thơng pháp luật nào và các yếu tố tác động đến hệ thống pháp luật như kinh tế, chính trị, văn hóa...
Gurvitch là người đã mở rộng lĩnh vực đối tượng nghiên
<small>cứu của chuyên ngành theo hướng đa ngun pháp lí. Theo ơng,</small>
pháp luật là một phần khơng thể tách rời và cấu thành của các tô chức xã hội, các nhóm và cộng đồng xã hội. Xã hội học pháp luật có nhiệm vụ phân tích các quy tắc của hệ thống pháp luật trong sự tương tác với các nhóm xã hội, tầng lớp xã hội với các đặc trưng giới tính, chủng tộc, tơn giáo và các đặc điểm xã hội khác. Ngồi ra, nó còn nghiên cứu các quy tắc trong nội bộ của các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội như luật sư, doanh nhân,
<small>các nhà khoa học, các thành viên của các đảng chính tri...</small>
<small>2.2. Trường phái Xã hội học pháp luật Hoa Kỳ</small>
Tại Hoa Kỳ, các nghiên cứu xã hội học pháp luật phát triển vào đầu thế kỉ XX, các trung tâm nghiên cứu được tải trợ thành
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">lập tại một số trường đại học đã thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm. Ban đầu xã hội học pháp luật chưa phải đã là một lĩnh
<small>vực nghiên cứu độc lập mà là một lĩnh vực nghiên cứu liên</small>
ngành. Nhưng nhu cầu nghiên cứu xã hội học pháp luật là kết quả của một quá trình tự nhiên khi thực tế đòi hỏi các nghiên cứu phải mở rộng mối quan tâm đối với hiện thực pháp luật. Tư
<small>tưởng của chủ nghĩa hiện thực pháp lí trong nghiên cứu pháp</small>
luật bắt đầu trở nên phổ biến tại Hoa Kỳ, nhiều học giả nhân mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu hành vi pháp luật của các chủ thé, đặc biệt là nghiên cứu về hành vi ra quyết định của thấm phán.
Roscoe Pound (1870 - 1964) là một nhà cải cách hang đầu về tư tưởng pháp lí của thế ki XX. Nam 1901, ơng được bé nhiệm làm ủy viên hội đồng phúc thâm Tịa án Tối cao Nebraska. Được tiếp xúc với mơi trường thực tế kiểm nghiệm được tính hiệu quả của pháp luật, ơng đã giúp tịa án giảm số lượng lớn các án tồn đọng. Từ năm 1916 đến năm 1936, R. Pound giữ
<small>chức hiệu trưởng Trường Luật thuộc Đại học Harvard, đây là</small>
giai đoạn mà quan điểm của Pound có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tư duy luật học Mỹ. Ơng góp phan phơ biến cái gọi là “pháp luật trong hành động” và cố găng liên kết pháp luật và xã hội thông qua xã hội học (sociological jurisprudence) đề nâng cao hiệu quả quản lí của hệ thống tư pháp.
Cũng giống như E. Ehrlich, R. Pound cho răng muốn nghiên cứu sự phát sinh, tồn tại, phát triển hay hiệu quả của pháp luật cần phải đặt trong mối liên hệ với các hiện tượng xã hội khác. R. Pound chi ra sự mâu thuẫn giữa tính 6n định của
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">trật tự pháp luật với việc cần thiết thay đổi trong pháp luật, mà chính lí thuyết pháp luật phải giải quyết van đề này. Tuy nhiên, ở mức độ nhất định điều này lại mâu thuẫn với các nhu cầu chung nhất của thời đại và của xã hội, đặc biệt là nhu cầu xây dựng pháp luật một cách có chủ định. Dé giải quyết van dé này, R. Pound đưa ra ý tưởng “luật tự nhiên tương đối”. Quan điểm của ông là kết hợp cách tiếp cận thực dụng với cách tiếp cận chức năng. “Xu hướng là dem phân tích xem các chuẩn mực pháp luật vận hành ra sao va làm thé nào để xây dựng các chuẩn mực ay dé đạt được kết quả còn hơn là ngơi dé phân tích nội dung trừu tượng của nó. Vì lẽ đó can thiết phải nghiên cứu mục tiêu của pháp luật. Chức năng là nhằm đạt mục tiêu”. “Chúng tôi kêu gọi sự hỗ trợ của triết học, đạo đức học, chính trị học, xã hội học giúp chúng tôi giải quyết các van dé mà ching tôi xem là các vấn dé của luật học. Can phải nghiên cứu pháp luật trong tất cả các quan hệ của nó như một
<small>giai đoạn chuyên biệt của cai theo chủ nghĩa rộng là khoa học</small>
về xã hội ”.ˆ
<small>Theo quan niệm của R. Pound, pháp luật không phải chỉ là</small>
những gì năm trên giấy tờ. Từ ý tưởng “luật tự nhiên tương đối” với hàm ý luật có tính chất tự nhiên tương đối bởi nó là các định đề xuất phát từ nhu cầu, lợi ích cụ thể của xã hội trong từng thời kì nhất định. Thực chất, nền móng của các định đề cần xây dựng cho pháp luật nam ở các nhu cầu, lợi ích thực sự
<small>! Kulcsar Kalman (Đức Uy biên dịch), Cơ sở xã hội học pháp luật, Nxb. Giáo</small>
<small>dục, Hà Nội, 1999, tr. 40.</small>
<small>? Kulcsar Kalman (Đức Uy biên dịch), Cơ sở xã hội học pháp luật, Nxb. Giáo</small>
<small>dục, Hà Nội, 1999, tr. 42.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">của con người trong xã hội. Theo ông, các nhà luật học cần
<small>xen vào nhau. Nhưng trong xã hội hiện đại, pháp luật trở thành</small>
công cụ quan trọng nhất của sự kiểm soát xã hội và được đảm bảo bởi sức mạnh của tổ chức chính trị, trong đó quy định hành vi con người và đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế. Vì vậy, ơng cũng dành phan nhiều thời gian để nghiên cứu cái gọi là các “van đề về lợi ích trong pháp luật” bởi ông cho rang vấn đề này là sự đảm bảo hữu hiệu và an toàn nhất cho tất cả các nhu cầu của cá nhân cũng như xã hội.
Trong các cơng trình của mình, R. Pound cũng chỉ ra răng van đề kiểm soát xã hội dù thé này hay thế khác có liên quan mật thiết đến sự điều tiết, phối hợp hành vi ứng xử hay mối
<small>tương tác xã hội của công dân, vì vậy trong luật học ơng đưa ra</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">thuật ngữ mà ơng cho rằng hồn tồn phù hợp mà ông gọi là “Kĩ sư xã hội ” (social engineering). Ơng gọi những người thực
<small>hiện pháp luật chính là các “kĩ sư xã hội” bởi họ là nhữngngười đảm bảo sự thỏa hiệp và hài hòa các lợi ích xã hội. Ngoài</small>
ra, “kĩ sư xã hội” là một phạm trù mà theo ơng có thể loại trừ
<small>được sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực tư nhân cũng như</small>
lợi ich tư. Vì trong xã hội văn minh, con người phải tin rang họ không bị tấn công và có thé tự điều khiển và đạt được mục tiêu của minh bằng các giá trị do lao động ban thân mà có, phù hợp với chế độ xã hội và điều kiện kinh tế hiện hành. Khi tham gia
<small>vào các quan hệ xã hội, họ sẽ xử sự một cách trung thực và phù</small>
hợp với sự mong đợi của xã hội, với các chuẩn mực xã hội. Và chúng ta phải tin tưởng rằng, mỗi người biểu thị trong hành động của mình tính trung thực cần thiết và phải bồi thường thiệt
<small>hại cho hành động của mình gây ra.</small>
Sau chiến tranh thé giới lần thứ II, các nhà xã hội học pháp luật Hoa Kỳ tập trung vào việc nghiên cứu về vai trò của pháp luật trong xã hội, tiêu biểu nhất là Talcott Parsons (1902 - 1979), nhà nghiên cứu thuộc trường phái chức năng luận. Quan điểm
<small>hiệu quả sẽ càng lớn mạnh.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Hệ thống xã hội bao gồm bốn chức năng cơ bản (được khái quát thành sơ đồ lí thuyết hệ thống AGIL của Talcott Parsons):
<small>A - thích ứng với mơi trường tự nhiên; G - đạt mục đích (huy</small>
động các nguồn lực nhằm vào các mục đích đã xác định); I - liên kết (phối hợp các hoạt động, điều chỉnh và giải quyết các xung đột, mâu thuẫn); L - duy trì khuôn mẫu (tạo ra sự 6n định, trật tự).! Trong bốn chức năng kê trên thì pháp luật được hình thành như là một thiết chế quan trọng trong việc gắn kết các cá nhân, các nhóm xã hội, các tổ chức xã hội, đồng thời kiểm soát, điều chỉnh các quan hệ xã hội để giải quyết các mâu thuẫn nham duy trì trật tự xã hội. Trong xã hội, pháp luật kiểm soát hầu hết các lĩnh vực xã hội từ yếu tô đầu vào của hệ thống như các nguồn lực (kinh tế) đến việc tạo ra những khuôn mẫu hành vi buộc mọi người tuân thủ bằng các biện pháp cưỡng chế và khả năng dự báo. Pháp luật cịn có chức năng liên kết với các hệ thống xã hội khác. Bản thân pháp luật cũng là một hệ thống hồn chỉnh và nó đáp ứng đầy đủ bốn chức năng của hệ thống.
Lí thuyết hành động của Talcott Parsons cũng là một nội dung quan trọng để lí giải về hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể. Theo Parsons, mỗi hành động của con người đều
<small>! Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng, Lịch sử xã hội học, Nxb. Lí luận chính trị,</small>
<small>Hà Nội, 2005, tr. 180.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">hệ thống. Tuy nhiên, về mặt bản chat tự nhiên, các chủ thé luôn tim cách dung hòa dé giữ hệ thống xã hội ở thế cân bằng. Sở di con người sẵn lòng đáp ứng yêu cầu của hệ thống trước nhu cầu của cá nhân là do bản năng họ muốn tránh những đau đớn về thé xác cũng như các chế tài của xã hội.
Ở Hoa Kỳ tồn tại nhiều quan điểm lí thuyết khác nhau, có quan điểm đưa ra những lập luận chống lại thuyết chức năng và cho rằng pháp luật là một công cụ của quyền lực. Cịn nhà lí thuyết xã hội học pháp luật Philip Selznick cho rằng luật pháp hiện đại ngày càng đáp ứng nhu cầu của xã hội và cần phải được tiếp cận về mặt đạo đức. Rolanld Dworkin lại khang định pháp luật không chỉ bao gồm những quy tắc pháp lí mà cịn cả những tiêu chuẩn khơng quy tắc. Như khi tòa án giải quyết một vụ án khó, họ sẽ dựa vào những tiêu chuẩn như đạo đức, chính trị dé đi tới một phán quyết. Kết luận này của ông được rút ra từ kết quả phân tích một vụ án khó. Do là phán quyết của tòa án New York về vụ Rigg đối đầu với Palmer vào năm 1889 (Elmer Palmer đã giết ông nội bằng hình thức đầu độc). Di chúc để lại có lợi cho việc thừa kế tài sản của Elmer Palmer. Vấn đề đặt ra là một tên sát nhân liệu có được thừa kế hay khơng thì pháp luật về thừa kế theo di chúc hiện thời không quy định. Vì vậy tên sát nhân có thể được quyền thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, thâm phán tòa án New York cho răng việc áp dụng pháp luật phải dựa trên nguyên tắc “Không người nào
<small>được hưởng lợi từ hành vi sai trái của mình”. Một tên sát nhân</small>
khơng thé được thừa kế từ nạn nhân của chính minh và tòa án đã ra phán quyết tước quyên thừa kế của Elmer Palmer.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Dworkin lập luận răng đối với những vụ án khó, gây tranh cãi, thâm phán cần cân nhắc xem có nên vượt ra ngoài quy tắc của luật pháp. Trong trường hợp này thẩm phán tham gia vào
quá trình diễn giải mà trong đó những luận cứ là những địi hỏi
về đạo đức. Tham phán luôn phải đặt ra những van đề như
“Phan quyết của tơi liệu có thé là một bộ phận của lí thuyết tot nhất về đạo đức dé biện minh cho tồn bộ hệ thống pháp lí và chính trị”.' Chỉ có một đáp án đúng cho mỗi van đề pháp lí, nhiệm vụ của tham phan là phải tìm ra nó. Đúng ở đây có nghĩa là phù hợp với lịch sử thể chế lập hiến của xã hội và dựa trên nên tang đạo đức. Theo ơng, đạo lí chính trị có ba thành phan: “cơng lí” bao gồm quyên tự do cá nhân và mục tiêu chung mà chúng sẽ được thừa nhận bởi nhà lập pháp lí tưởng, quyết tâm đối xử với cơng dân bằng sự quan tâm và tôn trọng; “công băng” đề cập những thủ tục mà chúng trao cho mọi công dân cái ảnh hưởng gần ngang bằng trong những quyết định có tác động đến họ; “thủ tục pháp lí” liên quan đến những nguyên tắc nhằm xác định xem một cơng dân có vi phạm pháp luật khơng. Mục tiêu của Dworkin là nhằm xác định và bảo vệ một lí thuyết tự do về luật pháp.
<small>Các trường phái xã hội học pháp luật được hình thành ở</small>
Hoa Kỳ sau này phát triển quan điểm giống như Lawrence Friedman khang định: Xã hội học pháp luật nghiên cứu về pháp luật và thiết chế pháp luật như một lĩnh vực học thuật liên
<small>ngành và với phương pháp nghiên cứu đa ngành. Các nghiên</small>
<small>' Raymond Wacks (Phạm Kiều Tùng dịch), Triét học luật pháp, Nxb. Tri thức,</small>
<small>Hà Nội, 2011, tr. 87.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">cứu không tự giới hạn về mặt lí thuyết hoặc phương pháp luận mà cơ gang chứa đựng những hiểu biết từ tất cả các ngành khoa hoc xã hội, nhưng nên tảng van là các phương pháp, lí thuyết
<small>2.3. Tình hình nghiên cứu xã hội học pháp luật ở Việt Nam</small>
Ở Việt Nam, xã hội học pháp luật là một lĩnh vực nghiên
<small>cứu mới, đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu này là các nhà</small>
luật học. Trước những đòi hỏi của thực tiễn đời sống pháp lí đặt ra: vi tri và vai trị của pháp luật trong xã hội hiện đại như thế nào? Làm thế nào dé xây dựng được những văn bản pháp luật phù hợp để điều chỉnh quan hệ xã hội? Làm thế nào để hoạt động áp dụng pháp luật có hiệu quả? Làm thế nào để những quy định của pháp luật được nhân dân đồng tình và biến thành hành vi hiện thực, thành thói quen và lỗi sống tuân theo pháp luật? Vào đầu những năm 90 của thế kỉ trước, Phịng Nghiên
<small>cứu Lí luận và Xã hội học pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp</small>
<small>luật thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn được</small>
thành lập để ứng dụng xã hội học trong q trình giải quyết những vấn đề pháp lí đặt ra. Các lí luận về xã hội học pháp luật đầu tiên được tiếp cận nghiên cứu bởi nhà luật học Đào Trí Úc, là Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật cùng các
<small>cộng sự đã đưa Xã hội học pháp luật vào chương trình dao tạo</small>
sau đại học của chun ngành Luật học. Các cơng trình đầu tiên được nghiên cứu bởi nhà luật học Đào Trí Úc có thé ké đến: Vai trị của xã hội học lập pháp ở nước ta trong giai đoạn
<small>hiện nay; Xã hội học thực hiện pháp luật - những khía cạnhnhận thức cơ bản...</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Một trong những nhà luật học có nhiều đóng góp cho xã hội
<small>học pháp luật là giáo sư Võ Khánh Vinh. Các cơng trình nghiên</small>
cứu của ông về lĩnh vực này đã được công bố: Giáo trình xã hội học pháp luật, xuất bản năm 2011; Xã hội học pháp luật -Những vấn đề cơ bản, xuất bản năm 2015. -Những vấn đề xã hội học pháp luật cũng được đề cập trong các cơng trình nghiên
<small>cứu của các nhà luật học khác, như Lê Vương Long với “Xây</small>
dựng lối sống theo pháp luật - Những vấn đề cần quan tâm” đăng trên Tạp chí Luật học số 4/1997; Nguyễn Minh Đoan với “Cần đây mạnh nghiên cứu dư luận phục vụ các hoạt động pháp luật” đăng trên Tạp chí Luật học số 6/2004; Nguyễn Văn Động với “Về sự cần thiết phải nghiên cứu giá trị xã hội của pháp luật trong điều kiện đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập ở nước ta hiện nay” đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2009:... Ngồi ra, trong các nghiên cứu thực nghiệm các đề
<small>pháp luật, các khía cạnh xã hội của pháp luật, hiệu quả của</small>
<small>pháp luật.</small>
<small>Xã hội học pháp luật cũng được các nhà xã hội học ở ViệtNam nghiên cứu và đưa vào chương trình giảng dạy từ những</small>
năm 90 của thế kỉ trước. Ban đầu các nhà nghiên cứu chú trọng hơn đến việc nghiên cứu các hành vi sai lệch như tội phạm và các tệ nạn xã hội. Trong chương trình giảng dạy đối với hệ cử
<small>nhân và sau đại học chuyên ngành xã hội học với tên môn học</small>
Xã hội học tội phạm và pháp luật, Xã hội học pháp quyền và Xã hội học pháp luật... Từ sau năm 2000, nhiều cơng trình
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">nghiên cứu về xã hội học pháp luật đã được công bố. Trước tiên phải kế đến các tác giả Thanh Lê với cuốn “Xã hội học chuyên biệt”, xuất bản năm 2000, trong đó có đề cập một số nội dung cơ bản của xã hội học pháp luật và cuốn “Xã hội học tội phạm”, xuất bản năm 2002; Tác giả Lê Tiêu La với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về xã hội học pháp luật” đăng trên Tạp chí Xã hội học số 1/2005; Tác giả Mai Quỳnh Nam với
“Nghiên cứu dư luận xã hội về hoạt động của Quốc hội”
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1/2006 và “Xã hội
<small>học với hoạt động lập pháp” đăng trên Tạp chí Nhà nước và</small>
Pháp luật số 1/2009 đã phân tích vai trò quan trọng của việc
<small>nghiên cứu dư luận xã hội nói riêng và xã hội học nói chung</small>
đối với việc xây dựng và hồn thiện hệ thơng pháp luật ở nước
<small>ta. Lĩnh vực xã hội học pháp luật hiện nay cũng được các học</small>
viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành xã hội học lựa chọn dé
<small>nghiên cứu.</small>
Từ năm 2010, nhiều cuốn sách về xã hội học pháp luật được xuất bản là nguôn tài liệu đa dang, phục vụ việc học tập và
<small>nghiên cứu xã hội học pháp luật như: Xã hội học pháp luật của</small>
TS. Ngọ Văn Nhân, xuất bản năm 2010; Xã hội học pháp luật của tác giả Trần Đức Châm, xuất bản năm 2013... Các cơng
<small>trình nghiên cứu xã hội học pháp luật của các nhà luật học và xã</small>
hội học thời gian qua đã góp phần mở ra khả năng nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn về bản chất của pháp luật, về sự tác động qua lại của pháp luật đối với thực tiễn xã hội. Nghiên cứu vai trò và ý nghĩa của các nhân tố xã hội tác động tới quá trình
<small>hình thành và hoạt động của pháp luật.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">I. ĐÓI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
<small>1. Nội dung nghiên cứu của xã hội học pháp luật</small>
<small>Xã hội học pháp luật là lĩnh vực liên ngành giữa xã hội học</small>
và luật học, do đó việc xác định một cách rõ ràng đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật là van đề khơng hề don giản. Bởi vì, mỗi trường phái xã hội học pháp luật đều có quan điểm và cách tiếp cận riêng của mình. Trong xã hội học pháp luật phương Tây truyền thống, một trong những vấn đề quan trọng đối với xã hội học pháp luật là vấn đề tính quy định xã hội của pháp luật. Đồng thời cách quan niệm về tính quy định xã hội của pháp luật cũng đối lập với cách tiếp cận chủ quan, coi pháp luật là công cụ giải quyết bat cứ vấn dé xã hội nào. Bên cạnh đó, xã hội học pháp luật cịn đề cập các giới hạn của sự điều tiết pháp luật, về tác động ngược lại của pháp luật đối
<small>với các quan hệ xã hội. Xã hội học pháp luật nghiên cứu khía</small>
cạnh xã hội của pháp luật, điều đó có nghĩa là nghiên cứu tính xã hội của pháp luật, trong những điều kiện xã hội, ở hoàn cảnh nhất định vai trò của pháp luật như thế nào. Từ việc xem xét bản chất của pháp luật, xã hội học pháp luật đi sâu vào việc khảo sát mục tiêu, thực tiễn vận hành của pháp luật. Các chuẩn mực pháp luật và các nguyên tắc, định chế pháp luật phải được
<small>đánh giá trên cơ sở chúng tham gia vào việc đạt mục tiêu của</small>
<small>pháp luật. Pháp luật được nghiên cứu trong sự hợp tác với các</small>