Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.68 KB, 48 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
<b>KHOA QUẢN LÝ KINH DOANH</b>
<b>ĐẠI HỌC NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG</b>
Sinh viên thực hiện <b>: Lê Ngọc Anh</b>
Lớp, khóa, ngành <b>: 2019ĐHTCNH02, K14, Tài chính ngân hàngGiáo viên hướng dẫn : TS. Đỗ Thị Ngọc Lan</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>LỜI MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài</b>
Thị trường xây dựng Việt Nam đạt giá trị 57,52 tỷ USD vào năm 2020 và thị trường này dự kiến đạt 94,93 tỷ USD vào năm 2026 với tốc độ tăng trưởng hơn 8% trong giai đoạn dự báo (2021-2026).
Để làm được điều đó, trong chiến lược phát triển ngành xây dựng bên cạnh các chiến lược kinh doanh thì các chiến lược tài chính cũng đóng vai trị hết sức quan trọng. Trong xu thế hội nhập toàn cầu và thị trường tài chính diễn biến ngày càng phức tạp, các doanh nghiệp xây dựng còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro tài chính cao như cơ cấu nguồn vốn, sử dụng địn bẩy tài chính, khả năng cân đối dịng tiền đảm bảo khả năng thanh tốn, nợ phải thu khó địi cao, hoạt động đầu tư tài chính, … việc đưa ra những quyết định quản trị rủi ro tài chính để giảm thiểu những tổn thất tiềm ẩn là cần thiết, có ý nghĩa thiết thực đối với các doanh nghiệp xây dựng đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế tiềm ẩn nhiều yếu tố gây ra bất ổn trong hoạt động của doanh nghiệp như hiện nay.
Xuất phát từ những nhận định trên em nhận thấy tầm quan trọng của việc phân tích thực trạng quản trị rủi ro tài chính và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tài chính tại Cơng ty TNHH Me Hà Nội để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp này.
Chính vì vậy, em quyết định lựa chọn đề tài “ Quản trị rủi ro tài chính tại Cơng ty TNHH Me Hà Nội ” làm khóa luận tốt nghiệp với hi vọng đóng góp vào thực tiễn hoạt động quản trị rủi ro tài chính tại Cơng ty để cùng với các doanh nghiệp cùng ngành phát triển theo mục tiêu của Chính phủ đã đặt ra.
<b>2. Mục tiêu nghiên cứu</b>
<i><b>Mục tiêu chung</b></i>
Nhận diện và phân tích mức độ ảnh hưởng của những rủi ro tài chính đến hoạt động kinh doanh của Cơng ty TNHH Me Hà Nội, từ đó đề xuất một số giải
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">pháp nhằm hạn chế tác động của rủi ro tài chính và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tài chính tại Cơng ty TNHH Me Hà Nội.
<i><b>Mục tiêu cụ thể</b></i>
Thứ nhất, hệ thống hoá cơ sở lý luận cơ bản về rủi ro tài chính và quản trị rủi ro tài chính trong doanh nghiệp.
Thứ hai, thơng qua phân tích thực trạng quản trị rủi ro tài chính tại cơng ty TNHH Me Hà Nội: đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, làm rõ nguyên nhân của vấn đề.
Thứ ba, từ phân tích thực trạng của công ty TNHH Me Hà Nội đưa ra các giải pháp rõ ràng, cụ thể và thiết thực nhằm tăng cường quản trị rủi ro tài chính tại cơng ty TNHH Me Hà Nội nói riêng và các doanh nghiệp nói chung.
<b>3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu</b>
- Đối tượng nghiên cứu: quản trị rủi ro tài chính tại doanh nghiệp - Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Công ty TNHH Me Hà Nội
+ Phạm vi thời gian: Hoạt động của công ty trong ba năm 2020, 2021, 2022.
<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>
- Phương pháp thu thập dữ liệu: tìm hiểu những vấn đề cơ bản về rủi ro tài chính và quản trị rủi ro tài chính như khái niệm, vai trị, ý nghĩa,... Sử dụng mọi nguồn thơng tin liên quan đến hoạt động tài chính, hoạt động kinh doanh của công ty. Bao gồm các thông tin kế tốn, thơng tin về số lượng và giá trị cả bên trong và ngồi doanh nghiệp. Trong đó thơng tin kế tốn với báo cáo tài chính đặc biệt quan trọng.
- Phương pháp phân tích, đánh giá: sử dụng hệ thống cơng cụ tài chính để tính tốn, tiếp cận các chỉ số tài chính, những biến đổi tài chính nhằm đánh giá
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">- Phương pháp so sánh: để xác định được xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích, cần tiến hành so sánh với năm trước và với các doanh nghiệp trong ngành. Từ đó doanh nghiệp có cái nhìn khách quan hơn về tình hình kinh doanh của mình, đưa ra các phương án, lựa chọn phù hợp.
- Phương pháp thống kê mô tả: tổng hợp các phương pháp đo lường, mơ tả và trình bày số liệu rút ra kết luận dựa trên những số liệu và thông tin thu thập được. Dữ liệu được biểu diễn dưới dạng biểu đồ hoặc các bảng số liệu tóm tắt về dữ liệu.
<b>5. Kết cấu của khóa luận</b>
Về kết cấu luận văn, nội dung luận văn được trình bày thành 3 phần: Chương 1: Cơ sở lý luận về rủi ro tài chính và quản trị rủi ro tài chính trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tài chính tại Cơng ty TNHH Me Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tài chính tại Cơng ty TNHH Me Hà Nội.
Ngồi nội dung chính, khóa luận cịn có phần mở đầu, kết luận, danh mục viết tắt, danh mục bảng, danh mục hình và danh mục tài liệu tham khảo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TÀI CHÍNH VÀ QUẢN TRỊRỦI RO TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP</b>
<b>1.1. Rủi ro tài chính</b>
<i><b>1.1.1. Tổng quan về rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp </b></i>
<i>1.1.1.1.Khái niệm rủi ro</i>
Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng, nhưng tập trung lại có thể chia thành hai trường phái lớn:
<i><b>Thứ nhất: Khái niệm theo trường phái truyền thống</b></i>
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều khơng lành, điều khơng tốt, bất ngờ xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến. Rủi ro cịn được hiểu là những bất trắc ngồi ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều khơng chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
<i><b>Thứ hai: Khái niệm theo trường phái hiện đại</b></i>
Theo trường phái hiện đại, rủi ro (risk) là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.
Rủi ro bao gồm 3 yếu tố: xác suất xảy ra (Probability), khả năng ảnh hưởng đến đối tượng (Impacts on objectives) và thời lượng ảnh hưởng
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">(Duration). Bản chất rủi ro là sự khơng chắc chắn (uncertainty), do đó, nếu chắc chắn (xác suất bằng 0% hoặc 100%) thì khơng gọi là rủi ro.
Từ những điều trên, có thể hiểu rằng:
<i>“Rủi ro gắn với khả năng xảy ra một biến cố khơng lường trước, biến cốmà ta hồn tồn không biết chắc chắn”</i>
<i>“Rủi ro ứng với sự sai lệch giữa dự kiến và thực tế hay rủi ro là sự khơngthể đốn trước được ngun nhân dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dựđoán”.</i>
Cho dù khái niệm rủi ro theo quan niệm nào, về bản chất rủi ro vẫn có một số đặc trưng như sau:
- Rủi ro là sự không chắc chắn trong tương lai;
- Mức độ rủi ro là khác nhau; sai lệch càng lớn, rủi ro càng cao; - Rủi ro có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân gây ra.
<i>1.1.1.2.Phân loại rủi ro trong doanh nghiệp</i>
Nhằm hạn chế các tổn thất mà rủi ro có thể gây ra trong hoạt động kinh doanh của mình, các nhà đầu tư cần phải quản lý được rủi ro. Để việc quản lý rủi ro diễn dàng và hiệu quả, nhà đầu tư cần phân biệt được các loại rủi ro. Dưới đây là một số phương thức phân loại rủi ro trong kinh doanh.
<b> Phân loại rủi ro theo các giai đoạn của quyết định kinh doanh</b>
Theo phương thức này, rủi ro được phân thành ba loại:
<i><b>- Rủi ro trước khi ra quyết định</b></i>
Rủi ro trước khi ra quyết định hay còn gọi là rủi ro thông tin. Đây là loại rủi ro xảy ra khi thu thập các thông tin không đầy đủ, khơng chính xác dẫn đến nhận diện sai về bản chất của các yếu tố liên quan đến phương án kinh doanh, điều này dẫn đến các quyết định kinh doanh sai lầm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><i><b>- Rủi ro khi ra quyết định</b></i>
Rủi ro khi ra quyết định hay rủi ro cơ hội là loại rủi ro xảy ra khi nhà đầu tư lựa chọn phương án kinh doanh không tối ưu.
<i><b>- Rủi ro sau khi ra quyết định</b></i>
Rủi ro sau khi ra quyết định thể hiện sự sai lệch giữa dự kiến và thực tế xảy ra.
<b> Phân loại rủi ro theo phạm vi rủi ro</b>
Theo phương thức này, rủi ro được phân thành hai loại:
<i><b>- Rủi ro có hệ thống</b></i>
Rủi ro hệ thống là sự biến động lợi nhuận của chứng khoán hay của danh mục đầu tư do sự thay đổi lợi nhuận trên thị trường nói chung, được gây ra bởi các yếu tố như tình hình nền kinh tế, cải tổ chính sách thuế, thay đổi tình hình năng lượng thế giới... Nó chính là phần rủi ro chung cho tất cả các loại chứng khốn và do đó khơng thể giảm được bằng việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Loại rủi ro này còn được gọi là rủi ro thị trường và được đo lường bằng hệ số bê-ta.
<i><b>- Rủi ro không có hệ thống</b></i>
Rủi ro phi hệ thống chỉ ảnh hưởng đến một cơng ty hay một ngành nào đó. Chẳng hạn một cuộc đình cơng hay một đối thủ cạnh tranh phát triển sản phẩm mới hay một phát minh ra cơng nghệ tiên tiến của cơng ty nào đó làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của một công ty hay một ngành chứ khơng thể ảnh hưởng đến tồn bộ thị trường nói chung. Loại rủi ro phi hệ thống có thể giảm được bằng chiến lược đầu tư da dạng hố.
<b> Phân loại rủi ro theo tính chất tác động của rủi ro</b>
Theo phương thức này, rủi ro được phân thành hai loại:
<i><b>- Rủi ro suy đoán</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Rủi ro theo suy tính hay rủi ro mang tính chất đầu cơ (theo lý thuyết của A.M. Mowbray, Blanchad Williams) là loại rủi ro phụ thuộc vào mong muốn chủ quan của nhà đầu tư. Loại rủi ro này xảy ra trong trường hợp nhà đầu tư chủ động lựa chọn phương án kinh doanh cho dù biết rằng có thể có lợi hoặc bị thiệt hại. Ngồi ra, đây cịn là loại rủi ro tạo được động lực cho việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh.
<i><b>- Rủi ro thuần túy</b></i>
Rủi ro thuần túy tồn tại khi có một nguy cơ tổn thất nhưng khơng có cơ hội sinh lời. Nói cách khác, rủi ro thuần túy là rủi ro chỉ gây ra những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm, như: hỏa hoạn, mất cắp, tai nạn lao động,... làm phát sinh một khoản chi phí (để bù đắp các thiệt hại) cho nên phải có biện pháp phòng tránh hoặc hạn chế.
Đây là loại rủi ro mang tính khách quan, khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà đầu tư. Loại rủi ro này thường mang lại những thiệt hại cho phương án kinh doanh.
<b> Phân loại rủi ro theo bản chất của rủi ro</b>
Dựa vào bản chất rủi ro, có thể phân rủi ro thành các loại sau:
<i><b>- Rủi ro tự nhiên</b></i>
Rủi ro tự nhiên là những rủi ro do các hiện tượng thiên nhiên như: Bão, hạn hán, lũ lụt, động đất, sóng thần,... gây ra. Loại rủi ro này thường dẫn đến những thiệt hại to lớn về người và của khiến cho các doanh nghiệp nói riêng bị tổn thất nặng nề.
<i><b>- Rủi ro về công nghệ</b></i>
Môi trường công nghệ gồm những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều cơ hội và nguy cơ đối với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 với sự tiến bộ như vũ bạo của công nghệ làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Tầm ảnh hưởng của
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">công nghệ ngày càng rộng lớn, nhiều khi chỉ cần một sự cố nhỏ có thể gây hậu quả cho nhiều doanh nghiệp, thậm chí là cả khu vực kinh tế, cả quốc gia.
<i><b>- Rủi ro về kinh tế</b></i>
Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, mặc dù trong mỗi nước, môi trường kinh tế vận động theo môi trường chính trị, nhưng ảnh hưởng của mơi trường kinh tế chung của thế giới đến từng nước là rất lớn.
Mọi hiện tượng diễn ra trong môi trường kinh tế như: tốc độ phát triển kinh tế, khủng hoảng, suy thoái, lạm phát... đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế, và gây ra những rủi ro, bất ổn.
<i><b>- Rủi ro về chính trị - xã hội</b></i>
Loại rủi ro này do những bất ổn về chính trị hoặc bất ổn về xã hội gây ra. Mơi trường chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh. Một mơi trường chính trị ổn định sẽ giảm thiểu rất nhiều rủi ro cho nhà đầu tư, vì vậy các nhà đầu tư cần nắm bắt được và có các chiến lược phù hợp với mơi trường chính trị mới có thể thành cơng. Những bất ổn về chính trị liên quan đến chế độ chính trị, hành vi chính trị và hệ thống chính trị.
Rủi ro xã hội là tất cả các rủi ro tạo ra bởi các yếu tố không thuận lợi như: cấu trúc xã hội, chuẩn mực giá trị, tình hình an ninh trật tự, an tồn xã hội, tệ nạn xã hội, cơng ăn việc làm,... Các yếu tố này gây ra những thiệt hại, mất mát, mất cơ hội kinh doanh đối với nhà đầu tư.
<i><b>- Rủi ro về văn hóa</b></i>
Rủi ro về văn hóa là những rủi ro do sự thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lối sống, nghệ thuật, đạo đức... của quốc gia, dân tộc khác, từ đó dẫn tới những hành xử khơng phù hợp, gấy ra những thiệt hại, mất mát.
<b> Phân loại rủi ro theo môi trường tác động</b>
<i><b>- Rủi ro do môi trường bên trong gây ra</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, môi trường bên trong hay môi trường hoạt động nội tại của bản thân tổ chức có thể gây ra những rủi ro tác động đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đề nghiên cứu các rủi ro này, doanh nghiệp cần có phương pháp tiếp cận phù hợp.
<i><b>- Rủi ro do môi trường bên ngoài tác động lên dự án</b></i>
Rủi ro xảy ra bên ngoài là những yếu tố, lực lượng, thể chế,...xảy ra ở mơi trường bên ngồi có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp khơng thể kiểm sốt được. Mơi trường bên ngồi bao gồm môi trường vĩ mô và môi trường vi mô. Các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô, như: Kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hóa,... Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô, như: nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nhà phân phối,...
Bên cạnh các tiêu thức phân loại rủi ro nói trên, trong thực tế cịn có thể phân loại rủi ro theo mức độ khống chế rủi ro hoặc theo giai đoạn đầu tư. Theo mức độ khống chế rủi ro, các loại rủi ro bao gồm: Rủi ro có thể khống chế được và rủi ro không thể khống chế được (còn gọi là rủi ro bất khả kháng). Theo giai đoạn đầu tư, gồm có: Rủi ro giai đoạn chuẩn bị đầu tư, rủi ro giai đoạn thực hiện đầu tư, rủi ro giai đoạn khai thác dự án. Cho dù phân loại rủi ro theo tiêu thức nào, doanh nghiệp cũng cần phải tuân thủ qui trình quản lý rủi ro nhằm hạn chế tối đa các tổn thất mà rủi ro có thể gây ra đối với kết quả kinh doanh.
<i>1.1.1.3.Đo lường rủi ro</i>
Rủi ro tài chính được đánh giá thông qua mức độ biến động của hiệu quả tài chính, tức là khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) mà theo đó, sự biến động của ROE càng cao thì rủi ro tài chính càng lớn. Khi rủi ro được xem như một biến cố có thể xảy ra hoặc khơng xảy ra nên phân phối xác suất với hai tham số đo lường phổ biến là tỷ suất sinh lời kỳ vọng (gọi tắt là lợi nhuận kỳ vọng) và phương sai, độ lệch chuẩn được sử dụng để đo lường rủi ro.
- Tỷ suất sinh lời kỳ vọng
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Tỷ suất sinh lời kỳ vọng là giá trị trung bình tính theo phương pháp bình qn gia quyền của tỷ suất sinh lời có thể xảy ra với trọng số chính là xác suất xảy ra.
E (R) = ))
<i>Trong đó, E(R) là tỷ suất sinh lời kỳ vọng, là tỷ suất sinh lời trong tìnhhuống i, là xác suất tương ứng trong tình huống i, n là số tình huống có thể xảyra.</i>
Rủi ro được xem xét thông qua việc theo dõi phân bổ xác suất của tỷ suất sinh lời. Tỷ suất sinh lời càng phân tán, biến động càng lớn thì rủi ro càng cao. Để đo lường sự phân tán hay sai biệt, người ta dùng phương sai và độ lệch chuẩn.
- Phương sai và độ lệch chuẩn
Phương sai được xác định bằng tổng bình phương các mức chênh lệch giữa khả năng sinh lời so với tỷ suất sinh lời kỳ vọng.
=
Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phương sai, cho phép đo lường mức chênh lệch bình quân giữa các khả năng sinh lời và mức sinh lời kỳ vọng của khoản đầu tư.
- Hệ số biến thiên CV (Coefficient of Variation) là thước đo rủi ro trên mỗi đơn vị tỷ suất sinh lời kỳ vọng. Hệ số biến thiên càng cao, mức rủi ro càng lớn. CV được sử dụng khi hai tài sản có tỷ suất sinh lời kỳ vọng khác nhau.
CV =
<i><b>1.1.2. Tổng quan về rủi ro tài chính trong doanh nghiệp</b></i>
<i>1.1.2.1.Khái niệm rủi ro tài chính </i>
Rủi ro tài chính (Financial risk) là sự khơng chắc chắn về tổn thất, liên quan đến độ nhạy những của những nhân tố như lãi suất, giá cổ phiếu, giá cả
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">hàng hóa và tỷ giá tác động đến thu nhập của doanh nghiệp. Ngoài ra, rủi ro tài chính cịn là những rủi ro do doanh nghiệp sử dụng địn bẩy tài chính – sử dụng nguồn vốn vay trong kinh doanh.
“Rủi ro tài chính là biến cố rủi ro khi công ty huy động nợ phục vụ cho hoạt động kinh doanh tuy nhiên việc sử dụng nợ không đạt hiệu quả như mong đợi ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp”. Đây là quan điểm về rủi ro tài chính được rất nhiều đồng tỉnh đến từ các tác giả có thể kể đến như PGS.TS Nguyễn Đình Kiệm và TS. Bạch Đức Hiền (2008).
Xuất phát từ bản chất của rủi ro là sự khác biệt giữa giá trị thực tế và giá trị kỳ vọng. Vì thế, có thể nói rủi ro giảm giá tài chính là sự khác biệt giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận kỳ vọng gắn liền với sự biến động của yếu tố giá cả thị trường như lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hoá hoặc chứng khoán. Rủi ro giảm giá tài chính phản ánh sự nhạy cảm của lợi nhuận doanh nghiệp trước sự biến động, giá cả thị trường. Mức độ ảnh hưởng của rủi ro giảm giá tài chính được đo bằng sự biến động hay sự khác biệt của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp khi có sự tác động của việc giảm giá tài chính. Việc phịng ngừa rủi ro giảm giá tài chính thường gắn liền với việc sử dụng các cơng cụ tài chính phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn và hợp đồng hoán đổi. Khác với rủi ro giảm giá tài chính, rủi ro từ việc thực hiện các quyết định tài chính là sự khác biệt giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp gắn liền với các hoạt động tài chính như: huy động vốn, đầu tư sử dụng vốn kinh doanh hoặc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp...Vì vậy rủi ro tài chính là sự biến động hay sự khác biệt của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp phát sinh từ những biến động của giá cả thị trường như: lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hoá, chứng khoán và việc thực hiện các quyết định tài chính doanh nghiệp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><i>1.1.2.2.Các loại rủi ro tài chính</i>
Có nhiều cách để phân loại rủi ro tài chính của cơng ty trong đó có bốn loại chủ yếu: rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất
<b> Rủi ro thị trường</b>
Rủi ro thị trường là rủi ro liên quan đến sự thay đổi đáng kể trên thị trường mà công ty đang kinh doanh. Những thay đổi trong nền kinh tế, báo cáo thu nhập từ các công ty lớn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị của các khoản đầu tư và việc doanh nghiệp sở hữu cổ phiếu ngắn hạn hay dài hạn mà gặp phải rủi ro thị trường.
<b> Rủi ro tín dụng</b>
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro mà doanh nghiệp phải gánh chịu thông qua việc mở rộng tín dụng cho khách hàng. Đồng thời cũng ám chỉ đến rủi ro tín dụng của chính cơng ty đối với nhà cung cấp. Rủi ro tín dụng liên quan đến các khía cạnh sau:
Rủi ro khi cấp tín dụng, tài trợ mua hàng cho khách hàng, nhưng khách hàng lại khơng có khả năng chi trả
Rủi ro trong q trình nhận tín dụng của nhà cung cấp, những cơng ty khơng có khả năng thanh toán đúng hạn các khoản phải trả. Từ đó, nhà cung cấp có thể ngừng cấp tín dụng cho công ty hoặc ngừng kinh doanh với công ty đó.
<b> Rủi ro thanh khoản</b>
Rủi ro thanh khoản bao gồm rủi thanh khoản tài sản và rủi ro thanh khoản nguồn vốn hoạt động. Việc này để cập đến mức độ dễ dàng mà một cơng ty có thể chuyển đổi tài sản, nguồn vốn của mình thành tiền mặt khi xuất hiện nhu cầu đột ngột.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Với những trường hợp bất khả kháng hay các yếu tố từ môi trường vĩ mô thay đổi tiêu cực có thể dẫn đến tụt giảm doanh thu. Từ đó, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với rủi ro lớn nếu thấy mình khơng có đủ tiền mặt để thanh tốn các chi phí cần thiết để tiếp tục hoạt động.
<b> Rủi ro lãi suất</b>
Hiểu một cách đơn giản, rủi ro lãi suất là rủi ro biến động bất lợi của lãi suất trên thị trường đối với giá trị của giấy tờ có giá, cơng cụ tài chính có lãi suất, sản phẩm phái sinh lãi suất trên sổ kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đây là rủi ro thường gặp với các ngân hàng bởi họ nhận được số tiền cho vay thông qua giấy chứng nhận tài khoản tiền và gửi tiết kiệm.
<i>1.1.2.3.Phân tích rủi ro tài chính</i>
<b> Phân tích rủi ro tài chính thơng qua độ biến thiên ROE</b>
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này để đo lường mức độ sinh lời của đồng vốn chủ sở hữu, phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu bình quân được sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế (Return on Equity - ROE).
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu =
Các nhà đầu tư khi bỏ vốn để đầu tư vào doanh nghiệp luôn quan tâm tới thu nhập mà họ nhận được trong tương lai từ hoạt động đầu tư, do đó, ROE có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư (chủ sở hữu doanh nghiệp), ROE chính là thước đo quan trọng thể hiện hiệu quả việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nói chung và của nhà đầu tư nói riêng.
Bên cạnh đó việc phân tích ROE theo phương pháp Dupont sẽ giúp nhà phân tích thấy được chi tiết, cụ thể các yếu tố ảnh hưởng tới ROE, đồng thời thấy được sự tương quan giữa ROE và các chỉ tiêu tài chính quan trọng khác. Cụ thể, phân tích ROE theo phương pháp Dupont như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">ROE =
Hay
ROE = Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu * Vòng quay tổng tài sản *
Thêm vào đó mối quan hệ giữa độ biến thiên của ROE với độ biến thiên ROA cũng thể hiện được mức độ rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
Độ biến thiên ROE = Độ biến thiên ROA =
Căn cứ vào công thức ở trên ta có thể thấy khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu phụ thuộc một phần vào cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, vừa chịu tác động của dòng vốn chủ sở hữu vừa chịu sự chi phối của mức độ sử dụng nợ doanh nghiệp. Mức độ sử dụng nợ càng cao thì tỷ số càng lớn. Do đó, khi doanh nghiệp có lợi nhuận, nó sẽ làm khuếch đại khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu, hay nói cách khác, tỷ số nợ có tỷ lệ thuận với khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu. Điều đó đồng nghĩa với trường hợp doanh nghiệp vay nợ càng cao thì kỳ vọng làm khuếch đại khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên, khi tỷ số nợ của doanh nghiệp lớn thì các tỷ số thanh tốn có phần tiềm ẩn nhiều rủi ro tài chính cho doanh nghiệp.
<i>Để tính được độ biến thiên của ROE và ROA ở phía trên ta cần biết đếncơng thức phương sai và độ lệch chuẩn.</i>
- Phương sai là trung bình cộng của bình phương độ lệch các giá trị so với trung bình của tổng thể. Phương sai được tính bằng cơng thức sau:
=
<i>Trong đó: là phương sai của tổng thể, là trung bình của tổng thể, làthành phần thứ i của tổng thể, và N là số thành phần của tổng thể.</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">- Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phương sai. Do đó, cơng thức độ lệch chuẩn của tổng thể là:
Rủi ro tài chính của doanh nghiệp được biểu hiện bằng độ biến thiên khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu. Doanh nghiệp nào có độ biến thiên càng cao thì rủi ro tài chính càng lớn. Vì vậy khi phân tích rủi ro tài chính phải sử dụng độ biến thiên của chỉ tiêu này để đánh giá và làm sáng tỏ.
<b> Phân tích rủi ro tài chính thơng qua địn bẩy tài chính</b>
Rủi ro tài chính diễn ra cùng với mức độ sử dụng nợ. Nó gắn liền với cơ cấu tài chính của cơng ty. Rủi ro tài chính chỉ tính không chắc chắn tăng thêm trong thu nhập của những người góp vốn, hay thu nhập của cổ đơng trong công ty cổ phần (EPS) của một công ty do việc sử dụng địn bẩy tài chính. Và để đo lường nó, người ta sử dụng độ bẩy tài chính DFL.
Ảnh hưởng của vấn đề sử dụng nợ được thể hiện qua sự tác động của nó đến khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu. Để xem xét ảnh hưởng của nó, ta sử dụng chỉ tiêu địn bẩy tài chính. Độ lớn của địn bẩy tài chính thể hiện những đo lường ảnh hưởng của những thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) đối với lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (ROE). Điều đó được thể hiện qua cơng thức sau:
Độ lớn địn bẩy tài chính = Hoặc
Độ lớn địn bẩy tài chính =
Chỉ tiêu địn bẩy tài chính mang ý nghĩa nếu lợi nhuận trước thuế và lãi vay tăng 1% thì lợi nhuận trên một đồng vốn chủ của doanh nghiệp tăng G% (G là độ lớn địn bẩy tài chính). Như vậy, doanh nghiệp nào không sử dụng nợ mà chỉ sử dụng vốn chủ sở hữu tài trợ cho hoạt động của mình thì độ lớn của địn bẩy tài chính sẽ bằng 1. Những doanh nghiệp sử dụng nợ có độ lớn địn bẩy tài
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">chính lớn hơn 1 cho thấy chủ sở hữu muốn gia tăng lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu.
Địn bẩy tài chính là cơng cụ đặt trọng tâm lên tỷ số nợ. Điều này mang ý nghĩa doanh nghiệp nào có tỷ lệ nợ vay càng cao thì khuếch đại của địn bẩy tài chính càng lớn, ngược lại doanh nghiệp có tỷ lệ nợ vay nhỏ thì ảnh hưởng của địn bẩy tài chính khơng rõ ràng. Khi địn bẩy tài chính lớn, lợi nhuận trước thuế và lãi vay chỉ cần thay đổi với một tỷ lệ nhỏ cũng sẽ có những tác động lớn đến lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, có nghĩa là tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu vô cùng nhạy cảm biến động của lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT).
Tóm lại, hệ số địn bẩy tài chính càng lớn, doanh nghiệp càng có khả năng cao về huy động vốn từ bên ngoài nhằm tài trợ cho họat động kinh doanh và ngược lại. Tuy nhiên, khi đưa ra những nhận định về hệ số này cần tính đến tác động khuếch đại của địn bẩy tài chính với chỉ tiêu lợi nhuận nhằm có những phân tích rủi ro tài chính rõ ràng hơn.
<b> Phân tích rủi ro tài chính thơng qua khả năng thanh tốn</b>
Khả năng thanh toán là một trong các chỉ báo ban đầu về dấu hiệu cho biết khả năng tồn tại của doanh nghiệp. Bên cạnh khả năng sinh lời, khả năng thanh tốn cho biết dấu hiệu sống của doanh nghiệp thơng qua khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính đối với các bên liên quan trọng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ báo này được kiểm tra chủ yếu thơng qua các hệ số tài chính được tính tốn từ các dữ liệu thu thập trên các báo cáo tài chính, bao gồm khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán dài hạn.
<b> Phân tích rủi ro thanh tốn ngắn hạn</b>
<i><b>Hệ số khả năng thanh tốn hiện thời</b></i>
- Cơng thức tính:
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời =
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Hệ số này cần được đánh giá dựa vào tỷ số trung bình của các doanh nghiệp trong cùng ngành. Ngoài ra, căn cứ quan trọng để đánh giá là so sánh với hệ số khả năng thanh tốn hiện thời ở các thời điểm trước đó của doanh nghiệp.
- Hệ số khả năng thanh toán hiện thời (Hht) thể hiện:
Hht thấp, đặc biệt <1: Thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp yếu, là dấu hiệu báo trước những khó khăn tiềm ẩn về tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong việc trả các khoản nợ ngắn hạn. Khi Hht càng dần về 0, doanh nghiệp càng mất khả năng chi trả, gia tăng nguy cơ phá sản. Hht cao (>1): Cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn sàng
thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tỷ số càng cao càng đảm bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp, tính thanh khoản ở mức cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tỷ số quá cao chưa chắc phản ánh khả năng thanh khoản của doanh nghiệp là tốt. Bởi có thể nguồn tài chính khơng được sử dụng hợp lý, hay hàng tồn kho quá lớn dẫn đến việc khi có biến động trên thị trường, lượng hàng tồn kho không thể bán ra để chuyển hoá thành tiền.
<i><b>Hệ số khả năng thanh toán nhanh</b></i>
Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, các nhà quản trị cũng cần biết được hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp đó. Hệ số này cịn được gọi là tỷ lệ thanh toán nhanh... . Trong tỷ số này, hàng tồn kho sẽ bị loại bỏ, bởi lẽ trong tài sản lưu động, hàng tồn kho được coi là loại tài sản có tính thanh khoản thấp hơn. Tỷ số thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà không cần thực hiện thanh lý gấp hàng tồn kho.
- Cơng thức tính:
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = - Tỷ số thanh khoản nhanh (Hnh) thể hiện:
Hnh < 0,5: Phản ánh doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc chi trả, tính thanh khoản thấp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"> 0,5<Hnh<1: Phản ánh doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt, tính thanh khoản cao.
<i><b>Hệ số khả năng thanh tốn tức thời</b></i>
Hay cịn gọi là tỷ lệ thanh tốn bằng tiền, chỉ số thanh toán tiền mặt,... Tỷ số này nhằm đánh giá sát hơn tình hình thanh tốn của doanh nghiệp
- Cơng thức tính:
Tỷ số khả năng thanh tốn tức thời =
Tiền và các khoản tương đương tiền ở đây bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn và các khoản đầu tư ngắn hạn khác có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền trong thời hạn 3 tháng mà không gặp rủi ro lớn.
Hệ số này đặc biệt hữu ích khi đánh giá tính thanh khoản của một doanh nghiệp trong giai đoạn nền kinh tế đang gặp khủng hoảng (khi mà hàng tồn kho không tiêu thụ được, các khoản phải thu khó thu hồi). Tuy nhiên, trong nền kinh tế ổn định, dùng tỷ số khả năng thanh tốn tức thời đánh giá tính thanh khoản của một doanh nghiệp có thể xảy ra sai sót. Bởi lẽ, một doanh nghiệp có một lượng lớn nguồn tài chính khơng được sử dụng đồng nghĩa do doanh nghiệp đó sử dụng khơng hiệu quả nguồn vốn.
<b> Phân tích rủi ro thanh tốn dài hạn</b>
<i><b>Khả năng thanh toán tổng quát</b></i>
Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ta cần chú ý đến hệ số khả năng thanh tốn tổng qt. Hay cịn gọi là hệ số khả năng thanh toán hiện hành. Chỉ số này phản ánh tổng quát nhất năng lực thanh toán của doanh nghiệp trong ngắn và dài hạn.
- Công thức tính:
Hệ số khả năng thanh tốn tổng qt = - Hệ số khả năng thanh toán tổng quát (Htq) thể hiện:
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"> Htq >2: Phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp rất tốt, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn có thể khơng cao và địn bẩy tài chính thấp. Doanh nghiệp sẽ khó có bước tăng trưởng vượt bậc.
1≤ Htq <2: Phản ánh về cơ bản, với lượng tổng tài sản hiện có, doanh nghiệp hồn tồn đáp ứng được các khoản nợ tới hạn.
0 ≤ Htq<1: Thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp thấp, khi chỉ số càng tiến dần về 0, doanh nghiệp sẽ mất dần khả năng thanh tốn, việc phá sản có thể xảy ra nếu doanh nghiệp khơng có giải pháp thực sự phù hợp.
<i><b>Khả năng tự tài trợ</b></i>
Hệ số tự tài trợ cho biết mức độ sử dụng vốn chủ sở hữu để tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp. Hệ số này càng cao cho thấy khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp càng lớn, hay mức độ phụ thuộc nợ bên ngoài để trang trải cho các khoản đầu tư của doanh nghiệp thấp. Khi đó, rủi ro tài chính đối với các chủ nợ cũng thấp hơn, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Khả năng tự tài trợ =
<i><b>Khả năng thanh toán lãi vay</b></i>
Để đánh giá khả năng thanh toán số tiền lãi đối với các khoản cấp tín dụng cho doanh nghiệp, các chủ nợ so sánh liệu giữa thu nhập được tạo ra có thể trang trải cho chi phí lãi vay ở mức độ nào.
Khả năng thanh toán lãi vay =
Tỷ số khả năng chi trả lãi vay được tính theo cơng thức cho thấy rủi ro thanh tốn lãi vay có thể xảy ra nếu doanh nghiệp khơng tạo đủ lợi nhuận trước thuế và lãi vay cần thiết để trang trải cho số tiền lãi phải trả. Hơn nữa, khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) quá thấp cũng là một chỉ báo cho thấy rủi ro của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh khi sử dụng địn bẩy nợ vay dẫn đến chi phí trả lãi làm xói mịn lợi nhuận. Nói cách khác, bằng việc xác định thu
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">nhập trả lãi là thu nhập trước thuế và lãi vay, mà không phải là thu nhập ròng, đã đo lường chi tiết đến giới hạn nào thì thu nhập hoạt động có thể giảm xuống tới mức mà công ty không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán lãi vay khi đến hạn.
Khi xem xét đối với chỉ tiêu này, các nhà cung cấp tín dụng thường đưa ra tiêu chuẩn cho với tỷ số trên tại ngưỡng 1.5. Nếu EBIT thấp hơn 1.5 lần so với số tiền lãi phải trả, các nhà cấp tín dụng sẽ cân nhắc về những rủi ro khơng chỉ đối với khả năng thanh tốn lãi vay mà còn đối với cả khả năng trả nợ gốc.
<b>Kết luận</b>
Hệ số thanh tốn cịn phản ánh rõ nhất mức độ rủi ro tài chính, cho biết mức độ thiệt hại của các chủ nợ khi mất khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho biết năng lực tài chính trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán cao cho thấy năng lực tài chính của doanh nghiệp lớn, an ninh tài chính vững chắc, ngược lại doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro tài chính.
<b> Phân tích rủi ro tài chính thơng qua độ nhạy cảm với lãi suất, biếnđộng tỷ giá</b>
<i>1.1.2.4.Tác động của rủi ro tài chính đối với doanh nghiệp</i>
Trên thực tế, phần lớn các DN kinh doanh trên thị trường đều ngại rủi ro, vì thế khi xem xét tác động của rủi ro tài chính, mặt tác động tiêu cực của rủi ro thường được các DN quan tâm xem xét, đánh giá đầy đủ hơn. Những tác động của rủi ro tài chính đối với DN có thể được xem xét trên các khía cạnh cơ bản sau:
<b> Tác động rủi ro tài chính đến chi phí của doanh nghiệp</b>
Tác động rủi ro tài chính đến chi phí của DN thể hiện ở 3 khía cạnh: Chi phí huy động vốn (hay chi phí sử dụng vốn), chi phí kinh doanh và chi phí khó khăn tài chính của DN. Đối với chi phí huy động vốn, nếu DN có rủi ro tài chính
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">cao, các nhà tài trợ hay đầu tư vốn vào DN bao giờ cũng tính tốn phần bù đắp rủi ro. Điều này sẽ làm tăng chi phí sử dụng vốn kinh doanh của DN.
Đối với chi phí kinh doanh, khi rủi ro xảy ra dẫn tới việc gia tăng các khoản chi phí kinh doanh của DN. Những khoản chi phí kinh doanh phát sinh do có rủi ro tài chính như: Chi phí tăng thêm từ giá cả nguyên vật liệu, lãi vay, từ chênh lệch tỷ giá hối đối trong kinh doanh; các chi phí thiệt hại về tài sản có rủi ro; các chi phí để khắc phục, bồi thường hay xử lý những tổn thất do rủi ro mang lại.
Đặc biệt, nếu DN lâm vào tình trạng suy thối, phá sản cịn xuất hiện các chi phí khó khăn tài chính, bao gồm: Các chi phí khó khăn tài chính trực tiếp liên quan đến thực hiện phá sản DN và các chi phí khó khăn tài chính gián tiếp như mất thị trường, mất khách hàng, chảy máu chất xám, mất thương hiệu… làm cho giá trị DN sẽ bị sụt giảm.
<b> Tác động của rủi ro tài chính đến lợi nhuận của doanh nghiệp</b>
Xét về lý thuyết, với những dự án mang lại lợi nhuận cao thì rủi ro càng lớn, do đó khi đưa ra quyết định đầu tư thì DN thường xem xét lợi nhuận mà dự án mang lại có tương xứng với những rủi ro mà DN có thể gặp phải.
Tuy nhiên, khi xét trong dài hạn, những tác động theo chiều hướng xấu của rủi ro tài chính sẽ dẫn tới việc xói mịn lợi nhuận, nếu DN không đưa ra được các biện pháp quản trị rủi ro tài chính hiệu quả. Do đó, khi rủi ro xảy ra sẽ dẫn tới việc gia tăng các khoản chi phí cho DN, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Tác động của rủi ro tài chính đến lợi nhuận của DN có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, những rủi ro về giảm giá hàng hóa, dịch vụ đầu ra của DN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận thực hiện của DN. Nếu giá bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ biến động bất lợi, giảm thấp dưới giá thành sẽ làm giảm lợi nhuận của DN, thậm chí thua lỗ và ngược lại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Tác động của rủi ro tài chính đến lợi nhuận DN cịn có thể xem xét từ góc độ tác động của đòn bẩy kinh doanh, đòn bẩy tài chính đến lợi nhuận trước thuế, lãi vay và lợi nhuận vốn chủ sở hữu của DN. Lý thuyết tài chính đã chỉ ra rằng, nếu DN có địn bẩy kinh doanh, địn bẩy tài chính cao nhưng quản lý sử dụng chi phí kinh doanh, vốn kinh doanh kém hiệu quả sẽ khơng tận dụng được tác động tích cực của địn bẩy kinh doanh, địn bẩy tài chính trong việc gia tăng lợi nhuận, ngược lại làm cho lợi nhuận DN, lợi nhuận vốn chủ sở hữu ngày càng giảm sút. Đây chính là những tác động tiêu cực của rủi ro đòn bẩy kinh doanh, đòn bẩy tài chính đến lợi nhuận DN và lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Rủi ro tài chính cũng tác động đến lợi nhuận DN từ góc độ rủi ro tín dụng thương mại, rủi ro thanh khoản của DN. Nếu DN để khách hàng chiếm dụng vốn quá hạn từ bán chịu hàng hóa, hoặc quản trị dịng tiền khơng tốt sẽ gây nên tình trạng thiếu vốn kinh doanh, vốn ln chuyển chậm, khơng bảo tồn được vốn, mất khả năng thanh toán nợ… Điều này cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời của DN.
<b> Tác động của rủi ro tài chính đến hiệu quả kinh doanh và năng lựccạnh tranh của doanh nghiệp</b>
Tác động của rủi ro tài chính đến chi phí kinh doanh, lợi nhuận của DN suy cho cùng là tác động tới hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của DN. DN kinh doanh có hiệu quả cao thì tình hình tài chính DN sẽ càng lành mạnh, năng lực cạnh tranh của DN sẽ càng cao. Điều này giúp DN tránh được các rủi ro trong thanh toán nợ phải trả đến hạn, ngăn ngừa nguy cơ vỡ nợ và rủi ro phá sản trong kinh doanh.
<b> Tác động của rủi ro tài chính đến giá trị doanh nghiệp</b>
Rủi ro tài chính theo chiều hướng xấu sẽ kéo theo sự sụt giảm dòng tiền mà DN nhận được trong tương lai, trong khi đó do rủi ro gia tăng nên tỷ suất
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư sẽ lớn để bù đắp. Từ đó dẫn tới sự sụt giảm của giá trị DN.
Rủi ro tài chính đã tăng lên đáng kể những năm gần đây. Kết quả của nền kinh tế tồn cầu hố là rủi ro có thể bắt nguồn từ những sự kiện xảy ra tại các nước cách xa hàng ngàn dặm sang phản ứng của thị trường lại cập nhật và xảy ra hết sức nhanh nhạy. Tình hình kinh tế thị trường có thể bị ảnh hưởng nhanh chóng bởi những thay đổi trong tỷ giá hối đoái, lãi suất, giá cả hàng hoá... Do đó, điều quan trọng là rủi ro tài chính phải được nhận diện, xác định và quản trị thích hợp.
<b>1.2. Quản trị rủi ro tài chính</b>
<i><b>1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tài chính</b></i>
Theo Merna & F. Al-Thani (2005), quản trị rủi ro là một quy trình cho phép xác định, đánh giá, hoạch định và quản lý các loại rủi ro.
Theo quan niệm này, quản trị rủi ro hướng tới ba mục tiêu: Phải xác định được rủi ro, thực hiện phân tích khách quan về các loại rủi ro đặc thù đối với tổ chức, và ứng phó với những rủi ro đó theo một phương cách hữu hiệu và phù hợp.
Theo Rorbert J. Chapman (2011), quản trị rủi ro doanh nghiệp là một quá trình tích hợp và tồn diện nhằm quản trị mọi loại rủi ro trong tồn doanh nghiệp nhằm tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp đó.
Như vậy, với quan điểm này, quản trị rủi ro là một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược phát triển doanh nghiệp.
Ủng hộ quan điểm về quản trị rủi ro toàn diện của Rorbert J. Chapman và tán đồng khái niệm về quản trị rủi ro của Kloman, Haimes và một số tác giả,
<i>Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự cho rằng “Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cậnrủi ro một cách khoa học, tồn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát,</i>
</div>