TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MƠN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: Cạnh tranh là gì?
Vì sao trong nền kinh tế thị trường
cần phải duy trì sự cạnh tranh và hạn chế độc quyền?
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
Họ và tên SV: Đỗ Hồng Vy
Lớp chuyên ngành: TCDN CLC 62B
Mã SV: 11208510
.
HÀ NỘI, NĂM 2021
Mục lục
A/ Mở đầu 2
B/ Nội dung đề tài 3
I. Lí luận về cạnh tranh 3
1. Cạnh tranh là gì 3
2. Các loại cạnh tranh 34
3. Tác động của cạnh tranh
4
a. Tác động tích cực
4
b. Tác động tiêu cực
II. Duy trì sự cạnh tranh và hạn chế độc quyền trong nền kinh tế thị 5
trường 5
1. Cạnh tranh là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường
2. Trong nền kinh tế thị trường cần hạn chế độc quyền 5
III. Cạnh tranh và chống độc quyền ở Việt Nam 6
1. Thực trạng cạnh tranh 6
2. Thực trạng độc quyền 7
3. Giải pháp 7
C/ Kết luận 8
1
A. Phần mở đầu
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, thể
hiện năng lực phát triển của nền kinh tế thị trường và sự sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cạnh tranh tự do ắt dẫn tới độc quyền. Các doanh nghiệp đều có ước muốn
độc quyền hoặc khống chế thị trường để tránh đi sự cạnh tranh.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh và độc quyền luôn cùng tồn tại để giữ
cân bằng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, cạnh tranh quá gay gắt có thể dẫn tới cạnh tranh
không lành mạnh; tương tư, khi doanh nghiệp độc quyền quá lớn mạnh sẽ dẫn tới lũng
đoạn giá cả. Vì vậy, cần có những quy chế, điều kiện để đảm bảo sự cạnh tranh lành
mạnh và hạn chế độc quyền.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường. Nhiều
nước trên thế giới đã vận dụng tốt qui luật cạnh tranh vào phát triển kinh tế và đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Để được như vậy, chúng ta cần nghiên cứu, tìm hiểu rõ về vai trò
của sự cạnh tranh và hạn chế độc quyền. Nhờ vậy, áp dụng một cách hiệu quả vào nền
kinh tế nước nhà.
2
B. Nội dung đề tài
I/ Lí luận về cạnh tranh
1. Cạnh tranh là gì
Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Thị trường
chính là nơi diễn ra các hoạt đọng mua bán, trao đổi hàng hóa, bao gồm các yếu tố
đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Các doanh nghiệp luôn cố gắng đạt được các
điều kiện thuận lợi như chi phí nhân cơng rẻ, các yếu tố đầu ra tốt. Chính điều đó đã
dẫn đến sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh chỉ kết thúc khi nó
được đánh dấu bởi một bên chiến thắng và một bên thất bại. Tuy nhiên, cạnh tranh
không bao giờ mất đi trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự sống còn của
doanh nghiệp. Muốn tồn tại, các doanh nghiệp buộc phải nâng cao sức cạnh tranh.
Trong quá trình này, các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi kém hiệu
quả đến nơi hiệu quả hơn, tạo ra cơ hội phát triển cho kinh tế - xã hội, khoa học – kĩ
thuật. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng cho các sản phẩm và dịch vụ. Qua đó, các doanh
nghiệp có thể thu lại được các lợi ích về kinh tế, thương mại.
Có thể nói, cạnh tranh là sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng
hóa tư nhân nhằm giành giật lấy điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hóa thuận lợi nhất
để tiêu thụ tối đa.
2. Các loại cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực cho sự
phát triển kinh tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị
trường. Trong đó, cạnh tranh được chia làm hai loại: cạnh tranh trong nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong
cùng một ngành hàng hóa. Đây là một trong những phương thức để thực hiện lợi ích
của doanh nghiệp trong cùng một ngành sản xuất. Để đạt được lợi thế khi cạnh tranh
cùng ngành, các doanh nghiệp thường ra sức cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp
lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá trị cách biệt của hàng hóa, làm
cho giá trị của doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó. Kết
quả, hình thành giá trị thị trường của từng loại hàng hóa.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh
giữa các ngành khác nhau. Cạnh tranh giữa các ngành cũng chính là phương thức để
doanh nghiệp thực hiện lợi ích thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong điều kiện
kinh tế thị trường. Đó cũng là phương thức để các chủ thể sản xuất kinh doanh ở các
ngành sản xuất khác nhau tìm kiếm lợi ích của mình. Các doanh nghiệp khác ngành
với nhau để tìm ra nơi đầu tư có lợi nhất. Họ tự do di chuyển nguồn lực của mình từ
ngành này sang ngành khác, vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau.
3
Các mối quan hệ cạnh tranh này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình kinh doanh
của các doanh nghiệp. Sự cạnh tranh này cho ta biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi
hoặc khơng có hiệu quả. Từ đó sẽ có những thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng
suất lao động, cũng như biết được lợi nhuận của các nhà tư bản sẽ là như nhau cho dù
đầu tư vào những ngành khác nhau với lượng tư bản như nhau.
3. Tác động của cạnh tranh
Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung.
Tuy nhiên, trong cạnh tranh ln có hai phía. Có thể nói, cạnh tranh đem lại lợi ích
cho người này và thiệt hại cho người khác.
a. Tác động tích cực
Cạnh tranh là động lực thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ khoa học và sự phát triển lực
lượng sản xuất. Trong kinh doanh, doanh nghiệp nào có sản phẩm phù hợp với nhu
cầu của thị trường với giá phải chăng thì nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và thu lợi
nhuận cao. Điều này khiến các đối thủ cạnh tranh về sản phẩm cùng loại phải quan
tâm đến cải tiến về hình thức và chất lượng sản phẩm bằng cách áp dụng công nghệ
mới, tiến bộ khoa học kĩ thuật. Vì vậy, cạnh tranh cũng là cơ hội bắt buộc các doanh
nghiệp phải nghiên cứu tiếp cận với công nghệ mới, tiến bộ khoa học kĩ thuật để có
thể trợ giúp hữu hiệu cho sản xuất, kinh doanh giảm giá thành sản phẩm, tăng tính
năng và chất lượng sản phẩm. Như vậy, cạnh tranh còn là nguồn gốc, động lực để
phát triển khoa học kĩ thuật và công nghệ cao.
Cạnh tranh là sự chạy đua kinh tế, mà muốn thắng trong bất kì cuộc chạy đua nào
cũng địi hỏi phải có sức mạnh và kĩ năng. Cạnh tranh ln có mục tiêu lâu dài là thu
hút về mình ngày càng nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản xuất và kinh doanh
hàng hố, dịch vụ phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao với giá
thành ngày càng thấp. Bởi vậy, cạnh tranh là liều thuốc thần kì tạo động lực cho sự
phát triển kinh tế-xã hội.
Cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến
kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, thay đổi phương thức tổ chức quản lý hiệu quả hơn,
đổi mới sản phẩm… để đáp ứng nhu cầu thị trường và xã hội tốt hơn. Ở đâu có độc
quyền, thiếu cạnh tranh thì ở đó trì trệ bảo thủ, kém hiệu quả vì mất đi cơ chế có tác
dụng đào thải lạc hậu, bình tuyển tiến bộ.
b. Tác động tiêu cực
Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm cho hoạt động sản xuất kinh
doanh bình thường của doanh nghiệp chân chính bị đình trệ, hủy hoại, thiệt hại tài
chính, thị phần suy giảm, lớn hơn nữa là có thể đi đến tình trạng phá sản hoặc bị thâu
tóm, mua lại. Hơn nữa, khi các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động cạnh tranh
không lành mạnh, gây thiệt hại lớn đến bản thân doanh nghiệp, nguồn thu doanh
nghiệp giảm, Nhà nước thất thu các khoản về thuế, từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế
nhà nước.
4
Mặt khác, hoạt động cạnh tranh không lành mạnh ở trong nước tạo tâm lý không
tốt đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn đầu tư vào thị trường Việt Nam, từ đó
ảnh hưởng tới thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó cịn có các thủ đoạn
phi đạo đức, vi phạm luật pháp để thu lợi cá nhân, gây tổn hại lợi ích tập thể và xã
hội.
Cạnh tranh lành mạnh có thể đem lại sự phát triển cho xã hội. Điều này đòi hỏi
nhà nước phải hạn chế, ngăn chặn mặt trái của cạnh tranh, đồng thời, duy trì sự cạnh
tranh ở mức ổn định để thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
II/ Duy trì sự cạnh tranh và hạn chế độc quyền trong nền kinh tế thị trường
1. Cạnh tranh là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường
Sự cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới về công
nghệ, kĩ thuật, tìm ra các yếu tố đầu vào, đầu ra để đạt được lợi nhuận tối đa. Quá
trình ấy sẽ sản sinh ra các lợi ích cho xã hội, tạo ra đa dạng sản phẩm và dịch vụ.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệpphải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất
kinh doanh,phải triệt để khơng ngừng sáng tạo, tìm tịi. Các doanh nghiệp phải khơng
ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nắm bắt thông tin kịp thời. Cạnh
tranh quy định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường thông qua những lợi thế
mà doanh nghiệp đạt được nhiều hơn đối thủ cạnh tranh. Đồng thời cạnh tranh cũng là
yếu tố làm tăng hoặc giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển bình đẳng mọi thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát
triển lực lượng sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao vào sản xuất,
hiện đại hoá nền kinh tế xã hội. Cạnh tranh góp phần xố bỏ những độc quyền bất hợp
lý, xoá bỏ những bất bình đẳng trong kinh doanh.
Sự cạnh tranh dần tạo nên các thay đổi trong xã hội, giúp xã hội ngày một tốt đẹp
hơn. Nó chính là yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường.
2. Trong nền kinh tế thị trường cần hạn chế độc quyền
Trong nền kinh tế thị trường không thể thiếu đi sự cạnh tranh. Tuy nhiên, khi sự
cạnh tranh đạt đến một mức nào đó sẽ làm cho doanh nghiệp trở thành độc quyền.
Độc quyền làm tê liệt cạnh tranh lành mạnh, kìm hãm sự phát triển kinh tế, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng, tác động xấu đến công bằng xã hội,
tạo sức ì đối với chính bản thân các doanh nghiệp độc quyền.
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, năm trong tay phần lớn
việc sản xuất và tiêu thụ một loại hang hóa, định ra giá cả độc quyền và thu lợi nhuận
độc quyền cao. Như vậy độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do nhưng độc quyền
không thủ tiêu được cạnh tranh tự do mà trái lại còn làm cho cạnh tranh gay gắt hơn.
Hay có thể nói trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và độc quyền tồn tại xen kẽ
lẫn nhau. Độc quyền làm tê liệt cạnh tranh lành mạnh, kìm hãm sự phát triển kinh tế,
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng, tác động xấu đến công bằng xã
hội, tạo sức ì đối với chính bản thân các doanh nghiệp độc quyền.
Độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt
động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Độc quyền có thể làm tăng
5
năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân các tổ chức độc
quyền. Độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển theo hướng sản xuất lớn, hiện đại.
Tuy nhiên, độc quyền cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với nền kinh tế
thị trường. Độc quyền làm cho cạnh tranh khơng hồn hảo gây thiệt hại cho người
tiêu dung và xã hội. Độc quyền có thể kìm hàm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm
sự phát triển kinh tế- xã hội. Độc quyền chi phối các quan hệ kinh tế- xã hội, làm
tăng sự phân hóa giàu nghèo.
Độc quyền trong kinh doanh vừa là động lực, vừa kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế. Vì những tác động nêu trên, chúng ta không cần thiết cấm độc quyền nhưng
cần hạn chế độc quyền để đảm bảo sự cân bằng cho nền kinh tế.
Có thể nói, trong nền kinh tế thị trường khơng thể thiếu cạnh tranh và hạn chế độc
quyền để nền kinh tế có thể phát triển một cách ổn định.
III/ Cạnh tranh và chống độc quyền ở Việt Nam
1. Thực trạng cạnh tranh
a. Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh nghiệp trong
nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Các doanh nghiệp nhà nước
được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, vị trí
địa lý, thị trường tiêu thụ,… Ngoài ra các doanh nghiệp này còn tập trung trong tay
một lượng lớn các ngành nghề quan trọng: điện, nước, than, dầu lửa, bưu chính viễn
thơng, giao thông vận tải…, các doanh nghiệp tư nhân không được coi trọng. Các
doanh nghiệp nước ngồi hoạt động theo một qui chế riêng, khơng được ưu đãi từ
nhà nước.
b. Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn muốn tối đa hố lợi nhuận của mình
mà khơng vấp phải những khó khăn cản trở nào. Do đó mà gây nên những hành vi
hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp thông đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong hội, để từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó,
một số cơng ty lợi dụng ưu thế của mình để chi phối thị trường. Các công ty này dựa
vào thế mạnh của mình mà sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để
loại trừ đối thủ cạnh tranh, thao túng thị trường. Với sức mạnh độc quyền các công ty
áp đặt giá cả độc quyền, độc quyền mua thì mua với giá thấp, độc quyền bán thì bán
với giá cao để thu lợi nhuận siêu ngạch, hoặc để loại trừ đối thủ cạnh tranh họ có thể
hạ giá bán xuống thấp hơn so với chi phí sản xuất.
Hiện nay nước ta chưa có khung pháp lí hồn chỉnh cho cạnh tranh nên việc xác
định, xử phạt các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh là khó khăn. Điều đó tạo điều
kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng phát triển mạnh. Một số
hành vi cạnh tranh khong lành mạnh như: nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất
lượng được tung ra thị trường.
2. Thực trạng độc quyền
6
Một số tổng công ty với thế mạnh về kinh tế của mình đã kiến nghị với chính phủ
thực hiện chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao cấp, lãi suất ưu đãi
để duy trì vị thế độc quyền của mình. Nhiều tổng cơng ty đã thể chế hố những ưu
đãi đặc quyền của mình và đưa ra những quy định bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh
nhằm loại bỏ các đối thủ cạnh tranh. Với ưu thế độc quyền, nhiều công ty đã định ra
những sản phẩm mà họ sản xuất tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người kinh
doanh với nhau trên thị trường.
Độc quyền tự nhiên tồn tại trong những ngành kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư
lớn mà lợi nhuận đem lại chậm và khơng đáng kể. Ngồi ra độc quyền tự nhiên còn
tồn tại trong những ngành kinh tế quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến chiến lược
phát triển kinh tế của đất nước như: Điện, nước, dầu khí, đặc biệt này chỉ có một
hoặc một vài doanh nghiệp Nhà nước được phép hoạt động. Do hình thức hoạt động
như vậy nên hạn chế cạnh tranh hay dường như không có đối thủ cạnh tranh trên thị
trường. Do vậy các tổng cơng ty có thể đưa ra những mức giá chung cao hơn so với
mức giá thực tế của sản phẩm để thu được lợi nhuận siêu ngạch cao.
3. Giải pháp
Nhà nước ta chưa có những quy định cụ thể và chưa có một cơ quan chuyên trách
nào theo dõi, giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Chưa có
những hiệp hội người tiêu dùng đủ mạnh dể hỗ trợ cho việc giám sát cạnh tranh và
độc quyền.
Cần nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về cạnh tranh, chính sách cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường theo hướng: Cạnh tranh là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
khoa học - công nghệ, sáng tạo, đổi mới, đem lại tiến bộ cho quá trình phát triển,
nâng cao năng suất, chất lượng, thúc đẩy tốc độ tính năng động, đem lại tiến bộ và
lợi ích cho xã hội; Cạnh tranh cơng bằng, bình đẳng phải được xác định là cốt lõi của
kinh tế thị trường. Khi quyết định ban hành bất kỳ quy định, chính sách hay biện
pháp quản lý/can thiệp nào, phải trả lời câu hỏi các quy định, chính sách hay biện
pháp này khuyến khích hay hạn chế thị trường cạnh tranh.
Cần xác định đúng vai trò của Nhà nước, kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế nhằm giảm thiểu sự tham gia của nhà nước trong các hoạt
động kinh tế, cơ cấu lại độc quyền nhà nước, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy
sự phát triển của khu vực tư nhân.
Nhà nước cần thiết lập và giám sát cơ chế đánh giá tác động cạnh tranh của các
chính sách, pháp luật, đặc biệt cơ chế đánh giá, quản lý chất lượng các quy định về
kinh doanh. Theo đó, cần quy định rõ làm rõ trách nhiệm của các bộ, ngành và thẩm
quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh về đánh giá tác động cạnh tranh khi xây dựng,
ban hành các chính sách và quy định pháp luật mới.
7
C. Kết luận
Cạnh tranh và độc quyền luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Chúng thúc
đẩy xã hội phát triển về cả kinh tế, khoa học – kĩ thuật. Nó là động lực để các doanh
nghiệp khơng ngừng thay đổi, mang đến lợi ích cho bản thân, người tiêu dùng và
đấy nước. Tuy nhiên, cạnh tranh và độc quyền cũng có mặt trái. Khi chúng ị lạm
dụng để các doanh nghiệp trục lợi, nền kinh tế sẽ mất ổn định, tạo ra chênh lệch về
sản phẩm, giá cả.
Cần thiết có các pháp chế, chính sách về cạnh tranh và độc quyền để có nền kinh
tế lành mạnh. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn xây dựng kinh tế thị trường nên
cần có những giải pháp kịp thời, quyết liệt để nền kinh tế phát triển ổn định.
Để giải bài toán cạnh tranh và độc quyền ở nước ta không thể chỉ là một sớm, một
chiều mà cịn cần phải có một lộ trình và quyết tâm thực hiện. Lộ trình đó xuất phát
từ nhận thức của các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp có liên quan và cả xã hội nói
chung về sự hài hịa giữa lợi ích cơng cộng và lợi ích bộ phận và rồi đi đến áp dụng
các quy định đang tồn tại như thế nào một cách hợp pháp, minh bạch và công khai.
8