Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Thảo luận DÂN SỰ buổi 1+ buổi 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.97 KB, 31 trang )

1

THẢO LUẬN DÂN SỰ 2

BUỔI THỨ NHẤT: NGHĨA VỤ

Vấn đề 1: Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền

1. Thế nào là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền?

Căn cứ tại Điều 574 BLDS năm 2015 quy định: “Thực hiện cơng việc khơng có
ủy quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự
nguyện thực hiện cơng việc việc đó vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện
khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”.

2. Vì sao thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?

CSPL: Điều 274, khoản 3 Điều 275 BLDS năm 2015.

Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong
thực tế, được pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh
quan hệ nghĩa vụ dân sự. Do đó, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ làm
phát sinh nghĩa vụ dân sự là vì trong thực tế có các trường hợp thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền BLDS năm 2015 đã dự liệu điều này tại:

- Khoản 8 Điều 8 Bộ luật dân sự năm 2015: “Căn cứ làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ dân sự là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền”.

- Khoản 3 Điều 275 BLDS năm 2015: “Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là
thực hiện công việc không có ủy quyền”.



- Điều 574 đến Điều 578 BLDS năm 2015 về thực hiện công việc khơng có ủy
quyền.

Sự xuất hiện của các sự kiện pháp lý này chính là nguyên nhân khiến những
quan hệ pháp luật dân sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt, kéo theo đó là nghĩa vụ giữa

2

các bên chủ thể được hình thành. Vì vậy, có thể nói thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ.

Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện
cơng việc và người có cơng việc được thực hiện và nâng cao tinh thần trách nhiệm
đảm bảo quyền lợi của người thực hiện công việc cũng như đối với người có cơng
việc được thực hiện.

Ngoài ra, do người thực hiện công việc tự nguyện thực hiện và để đảm bảo lợi
ích từ phía người được thực hiện nên người thực hiện phải có nghĩa vụ. Dưới góc độ
của người được thực hiện, họ có lợi ích từ việc cơng việc được thực hiện nên họ có
nghĩa vụ thanh tốn đối với người thực hiện cơng việc đó.

3. Cho biết những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định
thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền.

Điểm mới đầu tiên khi so sánh Điều 574 BLDS 2015 với Điều 594 BLDS 2005
như sau:

Điều 594 BLDS 2005 quy định người thực hiện cơng việc “hồn tồn vì lợi
ích của người có cơng việc được thực hiện”. Tức là mục đích hồn tồn vì lợi ích

của người có cơng việc được thực hiện, khơng có mục đích khác.

Trong khi đó, Điều 574 BLDS 2015 quy định người thực hiện cơng việc “vì lợi
ích của người có cơng việc được thực hiện”. Tức là người thực hiện vì lợi ích của
người có cơng việc được thực hiện nhưng cũng có thể vì mục đích khác, tuy nhiên
khơng được làm trái với lợi ích của người có cơng việc được thực hiện và các chủ thể
khác liên quan.

Điều khoản này ở Luật 2005 có sự cứng nhắc về mặt câu chữ khi bắt buộc
người thực hiện công việc phải hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc được thực
hiện, dẫn việc việc thiếu công bằng trong thực tiễn giữa người thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền và người có cơng việc được thực hiện. Vì vậy nên BLDS 2015 đã
điều chỉnh bằng cách bỏ đi cụm từ “hoàn toàn” để khắc phục nhược điểm này.

3

Điểm mới thứ hai đó là giữa Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 và Khoản 4 Điều
595 BLDS 2005.

Khoản 4 Điều 595 BLDS 2005 “trong trường hợp người có cơng việc được
thực hiện chết thì người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền phải tiếp tục thực
hiện công việc cho đến khi người thừa kế hoặc người đại diện của người có cơng
việc được thực hiện đã tiếp nhận”. Tức là chủ thể chỉ có cá nhân.

Trong khi đó, Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 “trường hợp người có cơng việc
được thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì
người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền phải tiếp tục thực hiện cơng việc cho
đến khi người thừa kế hoặc người đại diện của người có cơng việc được thực hiện
đã tiếp nhận”. Tức là chủ thể có cả cá nhân, pháp nhân.


BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi của chủ thể. Sự bổ sung trên là hồn tồn hợp
lý vì chủ thể của luật dân sự khơng chỉ có cá nhân mà cịn bao gồm pháp nhân mà đối
với pháp nhân, khái niệm “chết” khơng tồn tại mà thay vào đó là “chấm dứt tồn tại”.

Sự mở rộng về phạm vi của chủ thể cũng dẫn đến sự bổ sung thêm cụm “trụ
sở” (nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân) ở Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 thay
vì chỉ ghi “khơng biết nơi cư trú” như ở Khoản 3 Điều 595 BLDS 2005.

4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.

Điều kiện thứ nhất là “người thực hiện công việc khơng có ủy quyền khơng
có nghĩa vụ thực hiện cơng việc đó”. Bởi nếu giữa hai bên có tồn tại hợp đồng thì
nghĩa vụ được xuất phát từ sự thỏa thuận và nội dung của hợp đồng, tuy nhiên giữa
hai bên khơng có hợp đồng ủy quyền nên họ khơng có nghĩa vụ, trách nhiệm phải làm.
Tức là phải khơng có cả nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và nghĩa vụ theo thỏa
thuận.

4

Điều kiện thứ hai là “người thực hiện công việc khơng có ủy quyền đã tự
nguyện thực hiện cơng việc đó”. Dù khơng có nghĩa vụ phải làm nhưng vẫn tự
nguyện thực hiện, tuy nhiên để xác định được sự tự nguyện thì người thực hiện cơng
việc khơng có ủy quyền phải nhận thức được hành vi của mình mà khơng có sự cưỡng
chế, ép buộc nào. Việc thực hiện một cách tự nguyện có thể được xuất phát trên tinh
thần tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn,
cấp bách.

Điều kiện thứ ba là “người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền vì lợi ích
của người có cơng việc được thực hiện”. Người thực hiện cơng việc khơng có ủy

quyền tự ý thức rằng nếu khơng có ai thực hiện cơng việc này thì người có cơng việc
bị thiệt hại một số lợi ích vật chất nhất định. Lợi ích này có thể là những lợi ích mà
người có cơng việc được thực hiện khơng thu được hoặc lợi ích của họ giảm đáng kể
hoặc ngăn chặn thiệt hại. Khi thực hiện người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền
xem đó như bổn phận của mình và phải thực hiện cơng việc nhằm mang lại lợi ích
hoặc ngăn chặn thiệt hại cho người có cơng việc.

(Phân biệt với “được lợi về TS khơng có CCPL” -> “lợi ích” trong
THCVKCUQ khác với việc có lợi trên thực tế)

Điều kiện thứ tư là “người có cơng việc khơng biết hoặc biết mà khơng phản
đối”. Thực hiện khơng có ủy quyền dựa trên tinh thần tự nguyện và đa phần khơng có
sự thỏa thuận giữa các bên nên người có cơng việc được thực hiện có thể biết hoặc
khơng biết hoặc biết nhưng không phản đối việc thực hiện cơng việc. Bởi nếu người
có cơng việc được thực hiện biết thì tự bản thân họ đã tự thực hiện cơng việc và người
thực hiện có cơng việc khơng có ủy quyền cũng sẽ khơng thực hiện nếu có sự hiện
diện của họ tại nơi có cơng việc được thực hiện. Tuy nhiên nếu họ phản đối người
khác thực hiện cơng việc của mình, thì người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền
cũng khơng được thực hiện. Nếu người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền cố tình
thực hiện sẽ bị coi là vi phạm và phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

5

5. Quy định về “thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền” của một hệ thống
pháp luật nước ngoài.

Điều 1372 của BLDS Cộng hoà Pháp: “Khi một người tự nguyện thực hiện
công việc của người khác, dù người có cơng việc đó có biết hay khơng biết về nó, thì
người tự nguyện đó sẽ ký hợp đồng ngầm để tiếp tục quản lý cơng việc mà mình đã
bắt đầu và hồn thành nó cho đến khi người có cơng việc có đủ điều kiện để tự mình

lo liệu; người tự nguyện cũng phải chịu trách nhiệm các phần phụ của cơng việc đó”1.

6. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy
định của chế định “thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền” trong BLDS
2015 khơng? Vì sao? Nêu CSPL khi trả lời.

CSPL: Đ.574 đến Đ.576 BLDS 2015.

Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C có thể yêu
cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực
hiện cơng việc khơng có uỷ quyền” trong BLDS 2015.

Để xác định được nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những
nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có uỷ
quyền” trong BLDS 2015 khơng, ta căn cứ vào các điều kiện tại Đ.574 như sau:

Điều kiện 1, “tự nguyện thực hiện cơng việc đó”. Vì B đã tự ký hợp đồng với
nhà thầu C mà không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng khơng có uỷ quyền
của A, có nghĩa là A khơng tham gia vào hợp đồng đó nên đây là hợp đồng phát sinh
giữa B và C. Nên dựa vào K.1 Đ.142 BLDS 2015 thì A khơng có nghĩa vụ gì đối với
hợp đồng trên. Nhưng vì nhà thầu C đã thực hiện cơng việc xây dựng cơng trình một

1 BLDS Cộng hịa Pháp, đăng tại
tham khảo ngày
08/09/2023.

6

cách tự nguyện mà không phải chịu sự ép buộc từ chủ đầu tư A (mà do ký hợp đồng

với B) nên C thỏa mãn điều kiện 1.

Điều kiện 2, “người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Trong q
trình xây dựng cơng trình, A có thể khơng hay biết gì về việc thực hiện của C. Tuy
nhiên, mục đích cuối cùng của A là hồn thành xong cơng trình đó, vậy nên trong q
trình C thực hiện và hồn thành cơng trình thì A có thể khơng biết hoặc biết mà không
phản đối đã thỏa mãn điều kiện 2.

Điều kiện 3, “vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện”. Trong BLDS
2015 đã bỏ đi cụm từ “hồn tồn” ở phần lợi ích nên có thể chấp nhận việc C thực
hiện là vì lợi ích của A. Mặc dù khi hồn thành xong cơng trình thì C vẫn được nhận
lợi ích về mình nhưng phần lớn lợi ích thuộc về A. Ở đây, ta cũng đã thỏa mãn được
điều kiện 3.

Do đó việc làm của C là “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” được quy
định tại Đ.574 của BLDS 2015. Căn cứ theo K1 Đ.576 thì chủ đầu tư A có nghĩa vụ
phải thanh tốn các chi phí hợp lý mà C đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trường
hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của A (trong điều kiện C đã làm
hết khả năng của mình để thực hiện công việc này). Và xét tại K2 Đ.576, nếu C thực
hiện cơng việc được xem là “chu đáo”, “có lợi"” cho A thì A phải trả cho C một khoản
thù lao hợp lý. Vậy nên nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa
vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền”
trong BLDS 2015.

7

Vấn đề 2: Thực hiện nghĩa vụ (thanh tốn một khoản tiền)

1. Thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?


Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh tốn như sau: Nếu
việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và trong
thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Tồ án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo
giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là “giá gạo”) tại thời điểm
gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo
tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh tốn và
chịu án phí theo số tiền đó.

Qua trung gian chính ở đây chính là gạo.

2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ơng Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?

Do việc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và đến nay giá
gạo đã tăng trên 20%. Quy đổi khoản tiền ông Quới phải trả bà Cô như sau: năm 1973
giá gạo là 137đ/kg => 50.000đ = 365 kg gạo. Đến nay giá gạo là 18.000đ/kg. Vậy
thực tế số tiền ông Quới phải trả bà Cô là 365kg x 18.000đ/ kg = 6.570.000đ

Cơ sở pháp lý: điểm a, khoản 1, phần I Thông tư liên tịch 01/TTLT (phạm vi
điều chỉnh của TT01).

3. Thơng tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không?
Vì sao?

Thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.


8

4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì,
theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh
toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?

Theo Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã
nhận định rằng: “Bà Hương phải thanh tốn cho cụ Bảng số tiền cịn nợ tương đương
với 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng
dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”.

Do đó, nếu giá trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ
thẩm đã làm thì khoản tiền mà bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng là 1/5 x
1.697.760.000 = 339.552.000đ

5. Hướng như trên của Tòa án nhân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?

Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ, cụ thể là
Quyết định 741/2011/DS-GĐT ngày 26/09/2011 của Tòa án nhân dân tối cao. Tóm tắt
nội dung bản án như sau: “Ơng Hoanh và ơng An ký hợp đồng chuyển nhượng
1.230m2 đất có giá trị 500.000.000đ. Ơng An đã trả cho ơng Hoanh 265.000.000đ,
cịn nợ 235.000.000đ; nhưng ơng An đã nhận đất và được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng mảnh đất trên. Tuy nhiên sau đó, ơng An đã bán thửa đất mà ơng nhận chuyển
nhượng từ ơng Hoanh. Tịa án cấp sơ thẩm buộc ông An trả ông Hoanh số tiền gốc
chưa thanh tốn và lãi suất. Tịa án cấp phúc thẩm chỉ buộc ơng An trả ngun tiền
gốc. Tịa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc các bên tiếp tục thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng đất. Sau cùng, Tòa án nhân dân tối cao cho rằng ông An đã vi

phạm hợp đồng, không thực hiện nghĩa vụ trả tiền đúng thời hạn, nên đã ra quyết định
buộc ơng An phải thanh tốn cho ơng Hoanh số tiền nhận chuyển nhượng đất còn
thiếu theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm”.

9

Vấn đề 3: Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận
1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?

Tiêu chí Chuyển giao Chuyển giao nghĩa vụ
quyền yêu cầu theo thỏa thuận

Điểm giống Thứ nhất, việc chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận đều không đi kèm với
nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường thiệt
hại do xâm phạm tới tính mạng... và khơng được
chuyển giao khi pháp luật đã quy định. (CSPL: Khoản
1 Điều 365 BLDS 2015; Khoản 1 Điều 370 BLDS
2015);

Thứ hai, khi người thế quyền/người thế nghĩa vụ được
chuyển giao quyền yêu cầu/chuyển giao nghĩa vụ thì sẽ
trở thành bên có quyền yêu cầu/bên có nghĩa vụ.
(CSPL: Khoản 2 Điều 365 BLDS 2015; Khoản 2 Điều
370 BLDS 2015).

Điểm Biện pháp Nếu quyền yêu cầu có Nếu nghĩa vụ có biện
khác bảo đảm biện pháp bảo đảm thì pháp bảo đảm thì biện
biện pháp bảo đảm đó sẽ pháp bảo đảm đó sẽ chấm

đi kèm chung với quyền dứt khi chuyển giao nghĩa
yêu cầu khi chuyển giao. vụ. (CSPL: Điều 371
(CSPL: Điều 368 BLDS BLDS 2015).
2015).

10

Chuyển giao Bên có quyền có thể Bên có nghĩa vụ chỉ được
nghĩa vụ chuyển giao quyền yêu chuyển giao nghĩa vụ cho
cầu cho người thế quyền người thế nghĩa vụ khi có
mà không cần sự đồng ý sự đồng ý của bên có
của bên có nghĩa vụ. quyền. (CSPL: Khoản 1
(CSPL: Khoản 2 Điều 365 Điều 370 BLDS 2015).
BLDS 2015).

Trách nhiệm Điều 367 Không quy định
với người

được chuyển
giao

2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Tú?

Thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là
“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp… người xác lập quan hệ vay tiền với
bà Tú.” (Đoạn 2 trang 3). Bởi vì thơng tin trên khơng đề cập đến việc bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ cho người khác và có sự đồng ý của bà Tú nên khi
này bà Phượng là người có nghĩa vụ thanh tốn cho bà Tú.


3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?

Thông tin của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là “Tuy nhiên, bà Tú đã chấp nhận… theo
hợp đồng vay tiền đã ký.” (từ câu 2 Đoạn 4 trang 3). Bởi vì theo thơng tin trên của bản

11

án cho thấy bà Tú đã đồng ý cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ cho
bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh; nên việc chuyển giao nghĩa vụ của bà Phượng cho bên
thế nghĩa vụ là có căn cứ chấp nhận. (CSPL: Khoản 1 Điều 370 BLDS 2015).

4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?

Từ những đánh giá của Tòa án, theo nhóm em là hợp lý theo căn cứ BLDS
2015, đảm bảo được quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên. Bởi lẽ:

Thứ nhất, “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả
nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú lập hợp đồng cho bà
Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền
150.000.000 vào ngày 12/05/2005” (Đoạn 4 trang 3).

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015, khi được chuyển giao nghĩa vụ thì
người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ. Như vậy, nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng
(bên có nghĩa vụ) đã được chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh (bên thế
nghĩa vụ) có sự xác nhận của bà Tú (bên có quyền). Kể từ thời điểm bà Tú chấp thuận
hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà
Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh đối với bà Tú và theo hợp đồng vay tiền đã ký.


Thứ hai, “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thoả
thuận. Phía bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại
cho bà Phượng giấy chứng minh Hải quan” (Đoạn 4 trang 4).

Đây là hệ quả pháp lý của việc xác định được nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng và
bà Tú chấm dứt. Bà Tú khơng có quyền giữ giấy tờ của người không liên quan nữa.

Vì vậy, đánh giá của Toà án là đúng theo căn cứ luật định, thể hiện được sự
cơng minh, sáng suốt, hợp lý của Tịa.

12

5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách nhiệm đối
với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa
vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo quy định của Điều 370 về chuyển giao nghĩa vụ trong BLDS 2015:

“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ
nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của
bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định khơng được chuyển giao nghĩa vụ.

2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa
vụ”.

Và chiếu theo quy định của Điều 283 BLDS 2015 về việc thực hiện nghĩa vụ
thông qua người thứ ba: “Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy
quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách
nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba khơng thực hiện hoặc thực hiện không

đúng nghĩa vụ”.

Có thể nhận xét rằng, nhìn từ góc độ văn bản, để tránh có sự nhầm lẫn cho
người đọc giữa 2 điều về thực hiện nghĩa vụ (Đ.283) và chuyển giao nghĩa vụ (Đ.370)
thì ta nên theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu khơng cần có trách nhiệm đối với
người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao. Tương
tự như trong Bản án số 148/2007/DS-ST, Tòa nhận định “kể từ thời điểm bà Tú (bên
có quyền) xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh (bên thế nghĩa
vụ) thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng (bên có nghĩa vụ ban đầu) với bà Tú đã
chấm dứt”. Như vậy, người có nghĩa vụ ban đầu là bà Phượng khơng cịn nghĩa vụ khi
chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý.

6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn
trách nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ khơng

13

thực hiện các nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của tác giả
mà anh/ chị biết.

Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả Chế Phương Mỹ Đài: người có nghĩa vụ
khơng cịn trách nhiệm đối với với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện các nghĩa vụ được giao2.

- Theo quan điểm của tác giả Đỗ Văn Đại: Chuyển giao nghĩa vụ dân sự là một
thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ nhằm thực
hiện một nghĩa vụ đang tồn tại vì lợi ích của người có quyền và làm chấm dứt
trách nhiệm của người có nghĩa vụ ban đầu với người có quyền3.

- Từ đó, tác giả Đỗ Văn Đại đã giải thích thêm: …để chuyển giao nghĩa vụ là

một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba,
cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

- Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả Nguyễn Ngọc Điện4: Luật chỉ nói rằng
sau khi chuyển giao nghĩa vụ, thì người thế nghĩa vụ là bên có nghĩa vụ, nhưng
lại khơng nói gì về tình trạng pháp lý của người chuyển giao, đồng thời là bên
có nghĩa vụ ban đầu.

- Tác giả Nguyễn Ngọc Điện giải thích thêm: Thơng thường, các bên trong giao
dịch sẽ yêu cầu bên có quyền chấp nhận giải phóng bên có nghĩa vụ ban đầu,
nghĩa là chỉ còn bên thế nghĩa vụ là bên có nghĩa vụ. Nhưng nếu khơng có
quyền u cầu đó hoặc có nhưng bên có quyền khơng chấp nhận, thì sau khi
nghĩa vụ được chuyển giao, các bên trong giao dịch chuyển giao sẽ phải liên
đới thực hiện nghĩa vụ cho bên có quyền.

2 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, NXB. Hồng Đức, tr. 64
3 Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, NXB. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.
424,425,433.
4 Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Giáo trình Luật Dân sự tập 2, Nguyễn Ngọc Điện, NXB
Đại học quốc gia TP. HCM, tr. 344, 345.

14

Trong trường hợp người thế nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì
người này phải tự mình chịu trách nhiệm trước người có quyền. Thơng thường,
khi giao dịch chuyển giao nghĩa vụ được xác lập, người có quyền yêu cầu sẽ
đòi hỏi người chuyển giao tiếp tục liên đới chịu trách nhiệm về việc thực hiện
nghĩa vụ.


7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tịa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền?

“Các bên thống nhất xác định tổng số tiền vay là 615.000.000đ, lãi suất là
1,8%/ tháng, thời hạn vay là 12 tháng, phía bà Tú đã nhận tiền lãi đầy đủ theo thỏa
thuận. Đến tháng 4 năm 2005 thì bà Tú giảm lãi suất xuống cịn 1,3%/ tháng. Bà Tú
tiếp tục nhận tiền lãi đến tháng 5/2005 thì bên vay khơng trả lãi như đã thỏa thuận.

Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm
nghĩa vụ thanh tốn nợ vay, khơng trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có
trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã
lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông
Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú
xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của
bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú u cầu bà Phượng
có trách nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận”.

8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.

Thứ nhất, về vấn đề chấm dứt nghĩa vụ của người có nghĩa vụ ban đầu sau khi
chuyển giao theo Điều 9.2.5 của Bộ nguyên tắc UNIDROIT: “Người có quyền yêu

15

cầu được phép chấm dứt quan hệ nghĩa vụ với người có nghĩa vụ ban đầu. Người có
quyền yêu cầu cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là người có

nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới khơng thực hiện đúng nghĩa vụ của
mình”5.

Đối với BLDS năm 2015 của Việt Nam, Luật chỉ nói rằng sau khi chuyển giao
nghĩa vụ, người thế nghĩa vụ là bên có nghĩa vụ, nhưng lại khơng nói gì về tình trạng
pháp lý (cịn hay chấm dứt sự ràng buộc giữa bên chuyển nghĩa vụ và bên có quyền)
của người chuyển giao, đồng thời là bên có nghĩa vụ ban đầu. Tức BLDS năm 2015
vẫn có những quy định rất sơ sài về vấn đề này, không cho biết rằng bên có nghĩa vụ
ban đầu có cịn sự ràng buộc về trách nhiệm đối với bên có quyền và bên thế nghĩa vụ
hay không.

Thứ hai, Bộ nguyên tắc UNIDROIT còn quy định: “Trong mọi trường hợp
khác người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải liên đới chịu trách
nhiệm”6.

Quy định này cũng chính là giải pháp, là kinh nghiệm pháp luật nước ngoài để
tạo nên sự ràng buộc giữa người có nghĩa vụ ban đầu với người có quyền khi người có
nghĩa vụ mới khơng thực hiện được nghĩa vụ được chuyển giao, nếu bên có nghĩa vụ
mới khơng thực hiện được nghĩa vụ được chuyển giao thì bên có nghĩa vụ ban đầu sẽ
trách nhiệm liên đới với bên có quyền. Đây cũng chính là giải pháp để bảo vệ cho
quyền và lợi ích hợp pháp khi xuất hiện những tranh chấp, mâu thuẫn trong quá trình
thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao cho bên có quyền. Ví dụ: A chuyển nghĩa vụ trả
nợ 100 triệu trong 1 năm của mình đối với anh B cho C. Trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ của C lúc này là trả nợ cho anh B nhưng chỉ mới 6 tháng khơng cịn khả năng

5 Unidroit (International Institute for the Unification of Private Law) (2010), Unidroit Principles of International
Commercial Contract, Chapter 9, Section 2, Article 9.2.5 tại
tham
khảo ngày 07/09/2023.
Nguyên văn như sau:

“Article 9.2.5 (Discharge of original obligor)
(1) The obligee may discharge the original obligor.
(2) The obligee may also retain the original obligor as an obligor in case the new obligor does not perform
properly.
(3) Otherwise the original obligor and the new obligor are jointly and severally liable”.
6 Unidroit (International Institute for the Unification of Private Law) (2010), sđd (5), Clause 3.

16

chi trả thì anh A lúc này sẽ vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới đối với anh B theo Bộ
nguyên tắc UNIDROIT.

Ngược lại, đối lập với quy định về sự ràng buộc giữa các bên sau khi chuyển
giao nghĩa vụ của Bộ nguyên tắc UNIDROIT, Bộ nguyên tắc Luật Hợp đồng châu Âu
lại có quy định khác, căn cứ theo Điều 12:101: “Người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn
sự ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ”7. Đây cũng chính là cách hiểu của đại đa số tác
giả trong vấn đề chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận của nước ta. Với cách hiểu này
sẽ tạo ra những ưu, nhược điểm cho các bên. Ưu điểm lớn nhất chính là đối với bên
chuyển giao nghĩa vụ vì sẽ khơng cịn sự ràng buộc về trách nhiệm đối với bên thế
nghĩa vụ và bên có quyền. Tuy nhiên, điều này lại là rào cản lớn nhất đối với bên có
quyền, vì nếu nghĩa vụ được chuyển giao trong quá trình thực hiện bên có nghĩa vụ
mới khơng cịn khả năng thực hiện nữa thì bất lợi hồn tồn thuộc về bên có quyền
nếu như thời hiệu khởi kiện ra Tịa án kết thúc. Tuy nhiên, để khắc phục được nhược
điểm này, thông thường khi chuyển giao nghĩa vụ sẽ chuyển giao kèm theo biện pháp
bảo đảm như thế chấp giấy tờ nhà, tài sản có giá trị tương đương... nếu có (Điều 371
BLDS năm 2015).

9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, vì:


Tịa án đã đưa ra những căn cứ chứng minh “phía bà Tú đã chấp nhận cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh”, đó là nhận
định được:

7 European Contract Law Commission, The Principles of European Contract Law (PECL) (2002), tại
tham khảo ngày 08/09/2023.
Nguyên văn như sau:
“Article 12:101: Substitution: General Rules:
(1) A third person may undertake with the agreement of the debtor and the creditor to be sub-sti-tuted as debtor,
with the effect that the original debtor is discharged.
(2) A creditor may agree in advance to a future substitution. In such a case the substitution takes effect only
when the creditor is given notice by the new debtor of the agreement between the new and the original debtor”.

17

Thứ nhất, Bà Ngọc thừa nhận có lập hợp đồng vay với bà Tú với số tiền
465.000.000đ và tài sản thế chấp là phần diện tích đất tại tổ 34, khóm Châu Long 6,
phường Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc vào ngày 12/05/2005 (Đoạn 1 trang 2);

Thứ hai, Bà Tú cũng lập hợp đồng vay với bà Loan và ông Thạnh với số tiền
150.000.000đ vào ngày 12/05/2005 (Đoạn 1 trang 2).

Cùng lúc đó, Tịa án cũng khẳng định bà Phượng (người có nghĩa vụ ban đầu)
đã chấm dứt nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, cụ thể là ở Đoạn 4 trang 3, “Như vậy, kể từ
thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, và Loan và ơng Thạnh thì nghĩa
vụ trả nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà
Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp
nhận”.


Ngồi ra, Tịa án cịn u cầu bà Tú hồn trả giấy chứng minh Hải quan vì
“phía bà Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú” (Đoạn 4 trang 4).

Vì vậy, khi Tịa án quyết định “buộc bà Phùng Thị Bích Ngọc có trách nhiệm
trả cho bà Trần Thị Cẩm Tú số tiền [...]” là hoàn toàn hợp lý và đúng luật, vì khơng
chỉ bảo vệ được quyền lợi của bà Phượng, mà đồng thời còn khẳng định quan điểm
của Tịa Án về vấn đề liệu người có nghĩa vụ ban đầu có chấm dứt nghĩa vụ của mình
sau khi thực hiện chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ. Theo đó, Tịa Án đã
thể hiện quan điểm của Chế Mỹ Phương Đài trong “Giáo trình Pháp luật về hợp đồng
và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, cụ thể là “chuyển giao nghĩa vụ là một chế
định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba”.

10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt khơng? Nêu rõ cơ sở pháp lý.

18

CSPL: Điều 335, điểm a khoản 1 Điều 343, điều 371 BLDS 2015.

Khoản 1 điều 335 BLDS 2015 quy định “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau
đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh)
sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh),
nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ”.

Khoản 1 điều 343 quy định nếu nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt thì biện pháp
bảo lãnh cũng chấm dứt.


Điều 371 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển
giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Từ đó có thể suy ra, theo khoản 1 Điều 335, có thể xem bảo lãnh như một trong
các biện pháp bảo đảm. Vì vậy, theo điều 371, trong trường hợp nghĩa vụ có biện pháp
bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, tức biện pháp bảo
lãnh cũng chấm dứt.

Như vậy, trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh chấm
dứt.

19

BUỔI THỨ 2: VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG

Vấn đề 1: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Tòa án đã xét rằng:

(1) Bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy
định của Điều 400 BLDS 2015;

(2) Chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của Điều
394 BLDS 2015;

(3) Chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.

1. Bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo
quy định của Điều 400 BLDS 2015
CSPL: Khoản 1 Điều 400 BLDS 2015

Trong tình huống trên, bên đề nghị giao kết hợp đồng là cả A, B, C và hình

thức giao kết hợp đồng là bằng văn bản và có chữ ký của cả 3 chủ thể.
Do đó, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 400 BLDS 2015: “Hợp đồng được

giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết”, nếu D chấp nhận
giao kết hợp đồng thì phải gửi thông báo đến cả 3 chủ thể là A, B và C. Trong khi đó,
chỉ có A và B được nhận thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của D cịn C
thì khơng nhận được. Vậy, đề nghị giao kết hợp đồng này không thành công.

2. Chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của
Điều 394 BLDS 2015
CSPL: Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015
Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 quy định: “Bên đề nghị có ấn định thời hạn trả

lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó”

20

hoặc khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì “việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý”.

Trong đề nghị giao kết này, cả A, B và C là bên đề nghị không quy định thời
hạn trả lời và các bên cũng không đưa ra thỏa thuận về khoảng thời gian hợp lý nên
việc trả lời của D đến A, B vẫn có hiệu lực và D có thể gửi đến C chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng của mình sau đó để hợp đồng có hiệu lực.

Do đó, vào thời điểm này, đề nghị giao kết hợp đồng giữa A, B, C và D vẫn chưa
thành công.


3. Chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới

Căn cứ theo khoản 1 Điều 393 BLDS 2015 quy định về việc chấp nhận đề nghị
giao kết tức là “sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung
của đề nghị”. Theo đó, hợp đồng dân sự được chính thức giao kết khi bên nhận được
bên cịn lại chấp nhận toàn bộ và trọn vẹn các nội dung của bên đề nghị giao kết.
Đồng thời, bên nhận đề nghị không đưa ra bất cứ sửa đổi hay bổ sung nào khác nữa.

Tuy nhiên, xét tình huống trên, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng của mình nhưng D khơng gửi cho C. Vì vậy, có thể xem như D khơng chấp
nhận tồn bộ nội dung của hợp đồng mà chỉ chấp nhận một phần nội dung hợp đồng
của hai chủ thể A và B, nên việc chấp nhận này có thể xem như là một lời đề nghị mới
của D. Lời đề nghị mới này sẽ phụ thuộc vào ý chí hợp tác của bên đề nghị ban đầu (là
A và B); lúc này, quyền chấp nhận hay không lại thuộc về bên đưa ra đề nghị là A và
B.

Do đó, có thể xem lời chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.

Vấn đề 2: Sự ưng thuận trong quá trình giao kết hợp đồng

1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong
giao kết hợp đồng?


×