MỤC LỤC:
A - Mở đầu……………………………………………………………...1
I/ Lí do chọn đề tài.........................................................................................1
II/ Lịch sử nghiên cứu....................................................................................1
III/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................2
IV/ Phương pháp nghiên cứu..........................................................................2
B - Nội dung…………………………………………………………….3
I/ Điều kiện kinh tế xã hội để ra đời các tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã
cổ đại.................................................................................................................3
1.Tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại................................................3
2.Điều kiện kinh tế xã hội ra đời các tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ
đại......................................................................................................................3
II/ Đặc điểm của tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại........................12
1.Đặc điểm của tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại........................12
2.Một số chính trị gia tiêu biểu của tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ
đại...................................................................................................................16
III/ Giá trị của tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại............................21
C - Kết luận..................................................................................................22
Tài liệu tham khảo........................................................................................23
A – MỞ ĐẦU
I/ Lý do chọn đề tài
Nền văn minh Hy Lạp-La Mã cổ đại đã tạo tiền để hình thành và phát
triển khá sớm những tư tưởng chính trị của nhân loại. Những vấn đề căn bản
của chính trị, tư duy chính trị đã được đặt ra và luận giải trên những nét chính
yếu ngay ở thời kỳ này.
Những mâu thuẫn trong xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn giữa các tập đoàn
trong giai cấp chủ nô nhằm tranh giành quyền lực và mâu thuẫn giữa chủ nô
với nô lệ và tầng lớp thị dân tự do ngày càng gay gắt dẫn đến hình thành các
phe phái chính trị và xuất hiện những chính trị gia xuất sắc. Nhờ vậy, tư tưởng
chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại đã hình thành rất sớm ở phương Tây, là nền
tảng cho rất nhiều trường phái và xu hướng trong lịch sử tư tưởng chính trị
của nhân loại cho đến ngày nay.
Nhiều tác phẩm chính trị học của các nhà tư tưởng chính trị Hy Lạp -
La Mã cổ đại đã trở thành những tác phẩm kinh điển, cho đến ngày nay các
nhà tư tưởng vẫn ln tìm hiểu và áp dụng. Những di sản tư tưởng chính trị
Hy Lạp - La Mã cổ đại đã đạt đến độ phát triển phong phú và sâu sắc. Nghiên
cứu về tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại để chúng ta hiểu rõ về sự vận
động phát triển của chính trị, trong đó phải kể đến nền chính trị hiện đại. Đối
với tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại thì hệ tư tưởng chính trị này vẫn
cịn nhiều bí ẩn và là một kho tàng đồ sộ về tổ chức và sự vận hành của hệ
thống chính trị, những lí giải về thủ lĩnh chính trị... đáng để cho các nhà chính
trị gia, cũng như những người say mê với lĩnh vực chính trị như chúng ta đi
vào tìm tịi và phân tích. Với những lí do trên, em đã chọn đề tài: “Tư tưởng
chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại: điều kiện ra đời và đặc điểm của những tư
tưởng đó” để nghiên cứu và phân tích trong bài tiểu luận này.
II/ Lịch sử nghiên cứu
1
Tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại là một hệ tư tưởng đã hình
thành và phát triển từ lâu đời. Vì vậy, đây là một trong những đề tài được các
nhà chính trị gia, triết học, tư tưởng,… nghiên cứu tương đối nhiều. Có rất
nhiều đề tài, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, bài báo hay các sách chuyên về
chính trị đề cập đến vấn đề này bằng nhiều hình thức và khía cạnh khác nhau.
Có thể liệt kê một số cơng trình nghiên cứu có liên quan như:
Nguyễn Anh Tùng (2015) “Tư tưởng chính trị của Arixtot trong tác phẩm
chính trị luận” - Luận văn thạc sĩ.
Aristotle (2013) “Chính trị luận” Nxb Thế giới, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thanh Huyền (2017) “Tư tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ
đại”.
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
III/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng đề tài hướng đến để nghiên cứu là điều kiện kinh tế xã hội để
ra đời tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại và đặc điểm của tư tưởng
chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại.
2.Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: Hy Lạp - La Mã
Phạm vi về thời gian: Thời cổ đại
IV/ Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Phương pháp logic - lịch sử, tổng hợp, phân tích,...để có thể tìm hiểu một
cách cụ thể về tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại.
2
B - NỘI DUNG
I/ Điều kiện kinh tế xã hội để ra đời tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã
cổ đại.
1. Tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại
Các quan điểm, tư tưởng, học thuyết chính trị với tư cách là một hình
thái ý thức xã hội, trước hết nó là sự phản ánh hiện thực lịch sử xã hội với
những đặc điểm và tính quy định của nó. Mặc dù, khơng ít những học thuyết
mà nội dung của nó hàm chứa những khái quát vượt ra khỏi thời gian và
không gian của hiện thực lịch sử trực tiếp nó phản ánh những quy luật phát
triển cuả loài người. Trong lịch sử tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại
có khơng ít những tư tưởng, học thuyết như vậy. Các học thuyết này là kết
quả của sự đúc kết, sự khái quát từ chính hiện thực lịch sự phát triển đương
thời.
2. Điều kiện kinh tế xã hội ra đời tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ
đại
2.1. Điều kiện địa lý tự nhiên và dân cư
Điều kiện địa lý tự nhiên và dân cư của Hy Lạp: Hy Lạp cổ đại là một
quốc gia ở khu vực Địa Trung Hải, có vị trí địa lý rất quan trọng trong việc
giao thương giữa phương Đông và phương Tây. Lãnh thổ Hy Lạp cổ đại bao
gồm ba phần: phần Hy Lạp lục địa, Hy Lạp quần đảo và Hy Lạp Tiểu Á. Hy
Lạp lục địa tương ứng với lãnh thổ Hy Lạp ngày nay, là vùng đất ở nam bán
đảo Bancăng, giống như một cái đinh ba từ đất liền chĩa ra Địa Trung Hải.
Đây là vùng đất giữ vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử Hy Lạp. Toàn bộ
vùng lục địa Hy Lạp được chia làm ba miền: miền Bắc, miền Trung và miền
Nam.
3
Cư dân bản địa Hy Lạp cổ đại đã là một khối thống nhất, có cùng
chung một nền văn hóa, sử dụng chung một loại ngôn ngữ. Ngay cả khi các
tộc người từ phía bắc di cư đến vùng lãnh thổ Hy Lạp, chính họ cũng đã đồng
hóa với khối cư dân bản địa trước đó. Cho đến khoảng nửa cuối của thiên niên
kỷ II tr. CN, người ta khó có thể phân biệt được cư dân bản địa với cư dân di
cư. Họ đều coi mình là con cháu của thần Hêlen và tự gọi mình là Hellad
(theo phiên âm tiếng Trung Quốc là Hy Lạp). Hy Lạp cổ đại là một quốc gia
đa dân tộc, nhưng ngay từ buổi đầu, giữa các vùng cư dân và các tộc người có
cuộc sống khá bình đẳng cả về chính trị và khinh tế. Và có lẽ, đó chính là một
trong những tiền đề cho việc hình thành một thiết chế nhà nước dân chủ của
người Hy Lạp cổ đại sau này.
Điều kiện địa lý tự nhiên và dân cư của La Mã: Bán đảo Ý là nơi quần
cư khá sớm của người Châu Âu. Trước thiên niên kỷ II TCN, người Ligures
đã sinh sống ở đây. Đến đầu thiên niên kỷ II TCN, nhiều bộ lạc ở phía Bắc đã
vượt dãy Alpes tràn xuống định cư ở các vùng Campanium, Latium,
Britium… Cuối thiên niên kỷ II TCN, một đợt thiên di mới của người Châu
Au từ phía bắc xuống tạo thành một cộng đồng người Châu Âu định cư tại
đây và được gọi chung là người Italiotes. Bộ phận Italiotes sống ở đồng bằng
Latium được gọi là người Latin; sau đó, một nhánh của người Latin dựng nên
thành La Mã trên bờ sông Tibres nên được gọi là người La Mã - Roma).
- Tiếp sau đó, vào khoảng thế kỷ X TCN người Etrusque từ Tiểu Á
cũng thiên di đến bán đảo Ý, sống chủ yếu ở vùng giữa sông Ácnơ và sống
Tibres.
- Khoảng thế ky VIII TCN, người Hy Lạp cũng bắt đầu di cư đến Nam
bán đảo Ý và đảo Scicile, thiết lập nên nhiều thành bang như Xiraquyadơ,
Cuma, Tarentum,…
4
- Muộn hơn là sự thiên di của người Xentơ (Galia) ở phía Bắc dãy
Alpes tràn xuống định cư ở vùng đồng bằng sông Pô và Bắc bán đảo Ý.
Cho đến khoảng thế kỷ II TCN, cư dân trên bán đảo Ý cơ bản được phân bố
như sau:
+ Người Xentơ (Galia) ở miền Bắc, chủ yếu ở đồng bằng sông Pô.
+ Người Etrusque ở vùng giữa sông Ácnơ và sông Tibres.
+ Người Italiotes tập trung ở miền Trung và Nam bán đảo Ý.
+ Người Hy Lạp ở các thành thị ven biển phía Nam bán đảo Ý và đảo
Scicile. Người Italiotes với nhánh người Latin đi xây dựng thành La Mã giữ
vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử La Mã sau này.
2.2. Điều kiện kinh tế
2.2.1. Nông nghiệp
Nông nghiệp diễn ra trên hai lĩnh vực chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi.
*Trồng trọt:
Sản phẩm chủ yếu trong trồng trọt của người Hy Lạp là nho và ô liu,
cung cấp nguồn nguyên liệu cho các xưởng thủ công sản xuất rượu nho và ép
dầu. Việc trồng cây lương thực không phổ biến và năng suất cũng không cao,
tạo ra giá thành cao hơn giá nhập sản phẩm cùng loại từ nước ngoài (trên thực
tế, có những năm mất mùa, Hy Lạp phải nhập lúa mỳ của một số các quốc gia
trong khu vực).
Ở La Mã, do điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn nên việc phát triển trồng
trọt mạnh hơn so với Hy Lạp. Chính vì thế, sản phẩm trồng trọt của La Mã
cũng đa dạng hơn, gồm các loại cây ăn trái, lương thực, cây công nghiệp dài
ngày… Ở thời kỳ đầu, kinh tế nông nghiệp đã giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế, đặc biệt là sự phát triển của ngành chăn nuôi.
5
*Chăn nuôi:
Trong nông nhiệp, trồng trọt và chăn nuôi ở Hy Lạp - La Mã cổ đại đã
có sự phân chia khá rõ rệt. Chăn nuôi được tiến hành theo phương thức bầy
đàn không chuồng trại (khác với các quốc gia phương Đông cổ đại), do địa
hình có nhiều đồng cỏ rộng lớn, nhiều thung lũng an toàn, nguồn thức ăn
phong phú và mơi trường khí hậu tốt. Các sản phẩm chăn ni khá đa dạng và
phát triển, tạo ra một số sản phẩm thừa và được sử dụng như một phương tiện
trung gian để trao đổi hàng hóa, chứ khơng chỉ đơn thuần phục vụ cho sinh
hoạt hàng ngày (một nữ nô được định giá trị bằng bốn con bò). Các con vật
ni chủ yếu là cừu, dê, bị, ngựa, sơn dương…
Mọi sản phẩm nông nghiệp đều có thể trở thành hàng hóa đem ra thị
trường trao đổi.
2.2.2.Thủ công nghiêp
Với nguồn tài nguyên rừng, khoáng sản phong phú, ngành chăn nuôi
phát triển, thủ công nghiệp là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế Hy
Lạp- La Mã cổ đại. Các xưởng thủ công ra đời sớm để chế biến các sản phẩm
nông nghiệp và chăn nuôi, đặc biệt là sự xuất hiện ngành khai khoáng (ở Hy
Lạp cổ đại đã xuất hiện những hầm mỏ khai khống đầu tiên trong lịch sử lồi
người).
Sự phát triển của ngành khai khoáng đã thúc đẩy các ngành nghề thủ
công nghiệp ra đời ngày càng nhiều như: nghề luyện kim, chế tạo vũ khí,
đóng tàu, đồ trang sức, đồ da, xương, đồ gỗ, đá, nhạc cụ, may mặc, dệt vải…
Các sản phẩm thủ cơng vì thế cũng phong phú và ngày càng tinh xảo hơn.
Quy mô sản xuất cũng lớn dần lên. Quá trình phân cơng lao động và chun
mơn hóa cũng đã diễn ra (trong các xưởng may, luyện kim…). Với loại đất
sét đặc biệt có ở một số vùng của Hy Lạp, nghề gốm đã xuất hiện rất sớm với
6
độ tinh xảo cao và với tài nguyên rừng phong phú, các xưởng sản xuất gỗ
cũng phát triển.
Lực lượng sản xuất chính trong nông nghiệp và các xưởng thủ công là
nô lệ - lực lượng lao động chủ yếu của cả xã hội - chỉ có một số ít thợ thủ
cơng là dân tự do (đa số là thợ giỏi, lành nghề sản xuất những mặt hàng tinh
xảo).
Mọi sản phẩm thủ công nghiệp cũng trở thành hàng hóa đem ra trao đổi
trên thị trường.
2.2.3. Thương nghiệp
Sự phát triển của nông nghiệp, nhất là thủ công nghiệp đã thúc đẩy kinh
tế thương nghiệp và mậu dịch hàng hải phát triển mạnh mẽ. Nằm ở một vị trí
địa lý thuận lợi (tiếp giáp với ba châu lụch Á, Phi, Au ngày nay), bờ biển dài
và khí hậu ơn hịa, thương mại mậu dịch của Hy Lạp- La Mã cổ đại đã sớm
mang tính quốc tế. Các hải cảng xuất hiện sớm cùng với sự ra đời của các đội
tàu buôn, dần dần hình thành nên các thương hội. Giữa các thương hội đã có
sự phân chia thị trường và mặt hàng buôn bán khá chặt chẽ.
Từ các hải cảng, người Hy Lạp - La Mã cổ đại xuất khẩu sang các quốc
gia lân bang những sản phẩm nổi tiếng như rượu nho, dầu ôliu, đồ gốm màu,
cẩm thạch, thiếc, chì, vải… (cấm xuất khẩu lương thực), và nhập khẩu về
lương thực, cá, da súc vật, giấy, thủy tinh… và đặc biệt là nô lệ.
Kinh tế thương nghiệp và mậu dịch hàng hải phát triển dẫn đến sự ra
đời của tiền tệ từ rất sớm. Hệ thống ngân hàng cũng đã xuất hiện dưới dạng
những cửa hiệu đổi tiền và cho vay lãi. Hệ thống tiền tệ ở Athens và Roma có
giá trị sử dụng khơng những ở trong nước mà còn ở các thị trường khác
(nhiều lái bn nước ngồi sau khi bán hàng ở Athens, họ chỉ chấp nhận đem
tiền Athens về nước).
7
Như vậy, có thể nói nền kinh tế hàng hóa tiền tệ (cổ điển) đã xuất hiện
từ rất sớm trong nền kinh tế của người Hy Lạp - La Mã cổ đại và được xem
như tiền đề tạo nên những đặc trưng của chế độ chiếm hữu nơ lệ điển hình của
hai quốc gia này. Sự phát triển mạnh mẽ của thủ công nghiệp, nhất là thương
nghiệp mậu dịch với các quốc gia khác tạo cho cư dân Hy Lạp - La Mã cổ đại
có điều kiện tiếp xúc và tiếp thu những thành tựu của nhiều nền văn minh
khác nhau. Thủ công nghiệp và thương mại chính là hai yếu tố chủ yếu thúc
đẩy nền kinh tế Hy Lạp - La Mã cổ đại phát triển một cách mạnh mẽ. Nền
kinh tế phát triển, cùng với sự giao lưu và tiếp thu các thành tựu từ các nền
văn minh khác nhau là một trong những tiền đề để người Hy Lạp - La Mã cổ
đại sáng tạo nên một nền văn minh rực rỡ trong lịch sử nhân loại.
2.3. Tổ chức nhà nước:
* Hy Lạp:
Những yếu tố về điều kiện tự nhiên, dân cư, kinh tế dẫn đến sự hình
thành nhà nước ở Hy Lạp cổ đại có những sắc thái rất riêng biệt. Nhà nước
Hy Lạp cổ đại xuất hiện trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc và hầu như khơng
có sự can thiệp của bạo lực của bên ngoài. Chế độ tư hữu được hình thành và
phát triển dẫn đến sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc làm cho xã hội thị
tộc dần dần tan vỡ từng bước một.
Nhà nước Hy Lạp cổ đại xuất hiện dưới dạnh những quốc gia thành
bang (polis).
Các quốc gia thành bang hình thành là do điều kiện tự nhiên và xu thế
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế cơng thương nghiệp, mậu dịch hàng hải
của chính Hy Lạp. Hạt nhân cơ bản của mỗi thành bang là một thành thị, vừa
là trung tâm chính trị, vừa là trung tâm kinh tế công thương nghiệp và một vài
vùng phụ cận. Diện tích của một bang khơng lớn (khơng quá 8000km2) với
khoảng từ 30 đến 40 vạn dân. Mỗi thành bang đều có đặc trưng của một nhà
8
nước hồn chỉnh (đường biên giới lãnh thổ, chính quyền, quân đội, luật pháp,
hệ thống kinh tế, tiền tệ riêng. Là nền chun chính của giai cấp q tộc chủ
nơ, thiết chế chính trị, tổ chức nhà nước tựu chung phát triển theo hai thể chế:
Cộng hòa quý tộc tiêu biểu là thành bang Spart và cộng hòa dân chủ (dân chủ
đích thực) tiêu biểu là thành bang Athens.
+ Ở nhà nước Spart (sau khi người Spart-Đôrien chinh phục dân
Akêen), mọi công dân Spart nam từ 18 tuổi trở lên đều là thành viên của Đại
hội công dân.
+ Nhà nước Athens hình thành trên cơ sở tự nguyện của 4 bộ lạc hợp
thành, khơng có sự can thiệp, xâm lược của thế lực bên ngồi. Chính vì vậy,
nhà nước Athens được xây dựng theo hướng dân chủ chủ nơ. Nhà nước
Athens cũng có Đại hội cơng dân gồm các công dân tự do nam từ 18 tuổi trở
lên.
*La Mã
– Thời kỳ 753 – 510 TCN: thời kỳ Vương Chính.
Theo truyền thuyết, thành Roma do Romullus xây dựng vào năm 753
TCN trên bờ sông Tibres thuộc miền trung bán đảo Ý, nơi quần cư của 3 bộ
lạc người Latin. Mỗi bộ lạc này bao gồm 100 thị tộc, cứ 10 thị tộc được gọi là
một Curi (bào tộc). Các thành viên của các thị tộc này đều có quyền bình
đẳng với nhau về kinh tế, chính trị và được gọi là công dân Roma.
Quản lý xã hội thị tộc của người Roma thời kỳ này là 3 cơ quan: Đại
hội nhân dân (Curi), Viện nguyên lão (Senat) và “Vua” (Rex).
– Nhà nước La Mã cổ đại thời kỳ cộng hòa:
Khoảng giữa thế kỷ VI TCN, sau cuộc cải cách của Xecviut Tuliut, nhà
nước La Mã mới chính thức ra đời. Tuy vậy, cơ cấu bộ máy Nhà nước cộng
hịa La Mã được hình thành dần dần suốt mấy thế kỷ, cho đến thế kỷ III TCN
9
mới hoàn chỉnh. Năm 510 TCN, sau khi người Roma lật đổ Rex Tarquin kiêu
ngạo, La Mã bước vào thời kỳ Cộng hòa.
Ở thời kỳ này, nhà nước La Mã vẫn tồn tại Đại hội nhân dân, Viện
nguyên lão, nhưng đứng đầu nhà nước là 2 Quan chấp chính, thay cho Rex
trước đó.
Ngoài ra, Đại hội nhân dân và tầng lớp bình dân Pơlép cịn bầu ra Viện
giám sát (Viện quan bảo dân) để bảo vệ quyền lợi cho mình (lúc đầu gồm 2
người, sau tăng lên 7 người và cuối cùng là 10 ngươi). Viện này có quyền phủ
quyết những quyết nghị của quan lại quý tộc cao cấp, nếu những quyết nghị
ấy xâm phạm tới quyền lợi củ bình dân; bắt giữ và lấy cung những nhân viên
quan lại nhà nước khi cần thiết.
* Thời quân chủ chuyên chế: 30 TCN – 476 SCN.
Từ cuối thế kỷ II TCN, nhất là từ giữa thế kỷ I TCN, do sự đấu tranh
của quần chúng nhân dân trong nước, sự chống đối ngày càng mạnh của các
tỉnh, nhà nước La Mã ngày càng có xu hướng tăng cường chuyên chính.
Thêm vào đó là những mâu thuẫn giữa Đại hội nhân dân và Viện nguyên lão,
đã làm cho thiết chế nhà nước chuyển dần từ kiểu cộng hòa quý tộc sang kiểu
quân chủ chuyên chế. Người đứng đầu nhà nước La Mã lúc này là hoàng đế
và các quan lại trong bộ máy chính quyền trung ương. Dưới chính quyền
trung ương là các quan lại địa phương. Chính quyền trung ương đã thiết lập
được sự kiểm soát đối với địa phương một cách chặt chẽ hơn; quân đội được
tăng cường đáng kể, trở thành công cụ đắc lực bảo vệ quyền lợi cho giai cấp
chủ nô thống trị.
Như vậy, có thể nói, thiết chế nhà nước ở Hy – La thời cổ đại, dù biểu
hiện dưới dạng dân chủ chủ nơ, cộng hịa quý tộc hay quân chủ, người dân
vẫn được hưởng những quyền lợi dân chủ hơn cư dân Phương Đông cùng
10
thời. Đặc biệt, dười nhà nước cộng hòa dân chủ Athens, nền dân chủ đã đạt
đến đỉnh cao nhất trong lịch sử cổ đại.
2.4. Kết cấu giai cấp:
Sự phát triển sớm nền kinh tế hàng hóa tiền tệ (cổ điển), thương mại
mậu dịch đã làm cho quá trình tan rã của chế độ thị tộc diễn ra thêm nhanh
chóng. Chế độ tư hữu ngày càng lấn át quyền sở hữu công cộng của thị tộc.
Xã hội lúc này đã xuất hiện một số quý tộc thị tộc sở hữu nhiều tư liệu sản
xuất, sống dựa vào sức lao động của dân nghèo, đó chính là tiền thân của tầng
lớp q tộc chủ nơ ruộng đất sau này. Song song đó, sự phát triển của công
thương nghiệp làm cho một số người (không phải là quý tộc thị tộc) giàu lên,
và họ là tiền thân của tầng lớp quý tộc chủ nô công thương – tầng lớp có thế
lực nhất cả về kinh tế lẫn chính trị trong giới q tộc chủ nơ. Tầng lớp q tộc
chủ nơ hình thành đã hồn tồn thốt ly khỏi lao động chân tay. Chính vì thế,
họ có điều kiện chuyên tâm hơn trong lĩnh vực hoạt động trí óc, và chính họ
là lực lương chủ yếu sáng tạo ra những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Hy
Lạp – La Mã cổ đại.
Tầng lớp thứ hai là tầng lớp công dân. Họ là những công dân tự do
thuộc thành viên của các bộ lạc liên minh. Trước khi xuất hiện nơ lệ, chính họ
là lực lượng sản xuất chính của xã hội. Tầng lớp công dân thực chất là tầng
lớp trung gian, nhưng họ được nhà nước và pháp luật bảo vệ. Tầng lớp này
chiếm không nhiều trong xã hội, họ khơng bóc lột và cũng khơng bị bóc lột.
Giữa tầng lớp công dân và nô lệ là những người thuộc tầng lớp Đêmốt
(Athens) và Pơlép (Roma). Thực chất, họ là những kiều dân nơi khác đến sinh
sống ở Athens và Roma, làm các nghề buôn bán và sản xuất các mặt hàng thủ
cơng nghiệp. Họ khơng có quyền cơng dân nhưng cũng không phải là nô lệ.
Tầng lớp này đã tiến hành nhiều cuộc đấu tranh nhằm địi quyền bình đẳng
với công dân và đã đạt được một số thành quả nhất định.
11
Tầng lớp xã hội thứ tư là những tầng lớp nô lệ. Đây chính là tầng lớp
đơng đảo nhất trong xã hội Hy Lạp – La Mã cổ đại. Họ chính là lực lượng lao
động chính làm ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng luật pháp Athens quy
định dù họ là nô lệ tư nhân hay là nô lệ của nhà nước đều bị thừa nhận là tài
sản riêng của chủ nô. Luật pháp thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu này. Thân
phận của học không được thừa nhận, họ được xem như những cơng cụ biết
nói, khơng có tài sản, khơng có gia đình, khơng có tên gọi.
Như vậy, ta có thể hình dung kết cấu giai cấp của xã hội Hy Lạp – La Mã cổ
đại, giống như một hình tháp có 4 tầng. Dưới cùng là tầng lớp nô lệ, đông đảo
nhưng thấp hèn nhất trong xã hội, kế đến là tầng lớp công dân tự do, bên trên
là tầng lớp quý tộc, và trên cùng là vua. Các tầng lớp này luôn tồn tại những
mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô là hết sức sâu sắc, tầng
lớp nô lệ bị chủ nơ bóc lột hết sức tàn nhẫn đã dẫn đến những cuộc vùng lên
của giai cấp nô lệ. Ở đây, sự bóc lột nơ lệ trở thành quan hệ bóc lột chủ đạo.
Chế độ chiếm hữu nơ lệ Hy Lạp– La Mã cổ đại được xem là hình mẫu điển
hình trong lịch sử nhân loại.
II/ Đặc điểm của tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại.
1. Đặc điểm của tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại
Trong lịch sử Hy Lạp - La Mã cổ đại, đặc biệt trong thời kỳ thành bang
tồn tại hàng trăm quốc gia với những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị - xã
hội, dân cư khác nhau. Sự khác biệt đó trong chừng mực nhất định phản ánh
những tính chất phong phú của những khuynh hướng phát triển của các quốc
gia - thành bang, của hiện thực chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại.
1.1. Đặc điểm của tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại
Theo Ernest Barker, nguồn gốc của tư tưởng chính trị bắt đầu từ thời
Hy Lạp cổ đại. Nói cách khác, tư tưởng chính trị Hy Lạp được coi là một
12
trong những lâu đời nhất trên thế giới. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến các thể
chế chính trị khơng chỉ thời cổ đại mà cả thời hiện đại. Lý do đơn giản cho
điều này là lý trí, quan điểm thế tục và quản lý hiệu quả các quốc gia thành
phố của người Hy Lạp. Trên thực tế, các quốc gia thành phố này đóng vai trị
là phịng thí nghiệm để thử nghiệm với các tổ chức khác nhau.
Tổ chức chính trị xã hội của các quốc gia thành phố Hy Lạp giống như
một xã hội thịnh vượng chung, trong đó có rất nhiều chia sẻ lẫn nhau về cuộc
sống và môi trường sống. Tơn giáo khơng có tác động đến cuộc sống của
người dân.
Toàn bộ cộng đồng Hy Lạp cho rằng nhà nước là một thể chế tự nhiên ra đời
vì sự phát triển đạo đức và cá nhân của cá nhân.
Nhà nước được coi là một phương tiện để kết thúc. Con người được coi
là một công dân độc lập của xã hội tự quản và có sự bình đẳng hồn hảo cũng
như các cơ hội và quyền lợi. Hơn nữa, một số quốc gia thành phố Hy Lạp đã
thực hành các hình thức chính phủ khác nhau như quý tộc, quân chủ và dân
chủ.
Người Hy Lạp tin tưởng vững chắc vào một xã hội đạo đức. Theo quan
điểm của họ, một nhà nước thành phố không chỉ là một cơ quan tự cung tự
cấp, mà còn là một cơ quan tự quản. Cuộc sống của một người đàn ơng được
kỳ vọng là có đạo đức vì nhà nước được coi là một tổ chức đạo đức.
Một số tính năng độc đáo của các quốc gia thành phố Hy Lạp cổ đại như sau:
Nhà nước thành phố được quản lý trực tiếp do các lãnh thổ nhỏ của nó,
Nhà nước thành phố là một nhà thờ cũng như một nhà nước,
Nhà nước thành phố tự túc và tự trị, và công dân được hưởng tự do, và
13
Nhà nước thành phố là một cơ quan giáo dục, đạo đức và chính trị; có
sự tham gia tích cực của người dân vào các hoạt động chính trị, và có sự hài
hịa lớn hơn ở các quốc gia thành phố.
Người Hy Lạp đã rất coi trọng luật pháp nhờ khả năng suy nghĩ hợp lý
của họ.
Khái niệm quyền công dân được tổ chức ngày nay không phải là sự tiếp
nối từ người Hy Lạp. Trên thực tế, có sự khác biệt rõ rệt giữa quan niệm về
quyền công dân của người Hy Lạp và quan điểm hiện đại. Quyền cơng dân
khơng chỉ là thanh tốn thuế, quyền thực hiện bỏ phiếu hoặc tuân theo pháp
luật. Đó là sự tham gia trực tiếp vào các vấn đề chính trị của nhà nước, vì
người Hy Lạp khơng tin vào hệ thống đại diện.
Tuy nhiên, không phải tất cả các thành viên của xã hội đều được trao
cơ hội tham gia vào các vấn đề chính trị của nhà nước. Những người nơ lệ, trẻ
vị thành niên, người già và ở một số quốc gia thành phố, phụ nữ không được
phép tham gia hoặc khơng có quyền cơng dân vì người ta tin rằng họ không
thể thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Ngay cả các lớp làm việc, cả có tay
nghề và khơng có kỹ năng, đều bị từ chối quyền cơng dân vì họ thiếu sự nhàn
hạ, và với điều này, lý luận và một tâm trí đầu cơ.
Hệ thống quản trị ở các quốc gia thành phố Hy Lạp cổ đại không thống
nhất mặc dù có giới hạn lãnh thổ và dân số giống hệt nhau. Ba hình thức quan
trọng của chính phủ là trong thực tế ở các quốc gia thành phố khác nhau, viz.,
Chế độ quân chủ, quý tộc và dân chủ.
Người Hy Lạp có một niềm đam mê lớn về lý trí, đức tính và kiến thức.
Họ gắn liền với ý nghĩa quan trọng đối với các cuộc thảo luận để đạt được sự
thật. Tồn bộ cuộc điều tra chính trị được thực hiện thông qua các cuộc thảo
luận và đối thoại.
14
Về phương pháp luận, họ có thể được xem là những người tiên phong
cho việc áp dụng các phương pháp tiếp cận quy nạp và suy diễn để phân tích
các hiện tượng chính trị. Không thể chối cãi rằng các nhà tư tưởng Hy Lạp đã
để lại một dấu ấn không thể phai mờ về truyền thống trí tuệ của các nhà triết
học chính trị kế tiếp của thời trung cổ, hiện đại và đương đại ở phương Tây.
1.2. Đặc điểm của tư tưởng chính trị La Mã cổ đại
Nhà nước La Mã cổ đại xuất hiện tương đối sớm và trải qua một thời kì
phát triển lâu dài. Lịch sử La Mã cổ đại gắn liền với các cuộc đấu tranh gay
gắt giữa các tầng lớp xã hội khi quan hệ thi tộc bước vào giai đoạn tan rã
hồn tồn và sự hình thành vào quan hệ chiếm hữu nơ lệ. Tư tưởng chính trị
pháp lí ở La Mã cổ đại được hình thành trong điều kiện phát triển tột đỉnh của
phương thức sản xuất chiếm hữu nơ lệ và sau đó là sự sụp đổ của nó. Các mâu
thuẫn giữa nơ lệ và chủ nô đạt đến độ sâu sắc và đồng thời diễn ra các cuộc
đấu tranh gay gắt giữa các chủ đất lớn và chủ đất nhỏ, các tộc trưởng và thi
dân về vấn đề ruộng đất và quyền lực chính trị. K.Marx nhận xét rằng: “có thể
hồn tồn coi lịch sử bên trong của nước Cộng hòa La Mã là cuộc đấu tranh
của tiểu điền chủ và đại điện chủ, đương nhiên là dưới dưới dạng thay đổi đặc
biệt do chế độ nô lệ tạo nên”(1). Các mâu thuẫn xã hội sâu sắc càng trầm
trọng thêm do có các cuộc đấu tranh trong nội bộ thượng tầng giai cấp thống
trị, giữa quý tộc thị tộc và quý tộc công nghiệp thương mại.
Trong tư tưởng thống trị của La Mã cổ đại, các vấn đề về nhà nước;
nguồn gốc;thiết chế và hình thức của nó; các vấn đề về nơ lệ; địa vị pháp lí
của các tầng lớp khác nhau của người tự do; việc bảo vệ sở hữu cá nhân... có
vị trí quan trọng. Tư tưởng chính trị - pháp lí của La Mã cổ đại có nhiều nét
với Hy Lạp cổ đại, song so với Hy Lạp, tư duy chính trị của La mã nghèo nàn
hơn. Theo một số tác giả thì sự tiếp nhận quan điểm của của Platong hay
Aristote của người La Mã rất non yếu và hạn chế, và vì những nguyên do sau:
15
Thứ nhất, người La Mã vốn có tinh thần thực tiễn nên nền cộng hòa đã
sản sinh ra những con người cầm quyền nhà nước, những cố vấn pháp lí,
những nhà hùng biện, những qn lính trung thành với các cơng việc thực tế
và các bài học của họ, lo lắng đến các sự kiện hơn là soạn thảo ra các lí
thuyết.
Thứ hai, người La Mã rất năng động lại chịu sự tác động của chiến
tranh, bởi những cuộc hội nghị của chính trưởng và bởi việc theo đuổi những
vinh dự mà đã làm, họ xa cách những duy lí. Phạm vi lãnh thổ rộng là sản
phẩm của những chinh phục mà La Mã đã tiến hành trên thế giới cũng không
thuận lợi cho việc nghiên cứu lí luận.
Thứ ba, người La Mã có tính kiêu căng, họ tự tôn sùng họ quá mức nên
họ chỉ quan tâm đến lịch sử của riêng họ mà không quan tâm đến nghiên cứu
các thiết chế của các dân tộc khác vì họ cho rằng đó chỉ là những dân tộc bị
họ đánh bại hoặc phải phụ thuộc vào họ nên không đáng tìm hiểu học hỏi.
Tuy vậy, ở La Mã thời kì này cũng đã xuất hiện một số khuynh hướng
tư tưởng đại diện cho các giai cấp, các tầng lớp khác nhau như tư tưởng của
những người nô lệ khởi nghĩa, tư tưởng của nền dân chủ chiếm hữu nô lệ, tư
tưởng của các luật gia La Mã...
2. Những chính trị gia tiêu biểu của tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã
cổ đại
2.1. Hêrôđôt (484 - 425 trước công nguyên)
Hêrôđôt được coi là "người cha của chính trị học". Ơng đưa ra các loại
hình thể chế chính trị và chỉ ra ưu điểm cũng như hạn chế cuả từng loại hình.
Đó là: qn chủ, quý tộc, và dân chủ.
Quân chủ: là thể chế độc quyền của một người là vua. Vua có cơng lập
quốc vì nước vì dân. Cho nên vua có quyền cấm tất cả những ý kiến phản
16
biện, phản kháng. Chính những đặc quyền và quá lạm dụng khiến vua dễ trở
thành tội lỗi.
Quý tộc: là thể chế đuơc xây dựng trên cơ sở cầm quyền của một nhóm
người ưu tú nhất của đất nước vì lợi ích chung. Tuy nhiên thể chế này dễ có
sự khác biệt bất hồ, chia bè phái dẫn đến tranh dành tàn sát lẫn nhau.
Dân chủ: là thể chế mà quyền lực do đông đảo nhân dân nắm bằng con
đường bỏ phiếu để bầu ra những chức vụ công cộng một cách đúng đắn, xây
dựng nhà nước trên nguyên tắc cơ bản: tất cả cả đều bình đẳng trước pháp
luật. hạn chế là ở những dân số có trình độ thấp thì rất có thể họ bầu ra những
lãnh đạo kém hiểu biết, dễ bị kích động, từ đó xảy ra tình trạng vơ chính phủ.
Ý nghĩa: Hêrôđôt thiên về loại hình thể chế qn chủ. Song ơng cho
rằng thể chế chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp những đặc trưng tốt nhất của
3 loại hình nói trên. Ông là người đầu tiên chỉ ra và so sánh những loại hình
thể chế khác nhau, làm cơ sở cho chính trị học, là tiền đề sản sinh
2.2. Xênơphơn (427 - 355 trước Công nguyên)
Ơng thuộc tầng lớp q tộc. Tư tưởng chính trị của ông thể hiên ở quan
niệm về thủ lĩnh chính trị.
Bàn về thủ lĩnh chính trị, ơng cho rằng: thủ lĩnh chính trị là người biết
chỉ huy, giỏi kĩ thuật, giỏi thuyết phục, biết cảm hoá người khác. Nhưng
người thủ lĩnh phải có những phẩm chất đặc biệt như biết bảo vệ lợi ích
chung, có khả năng tập hợp sức mạnh của quần chúng.
Ý nghĩa: ông là người đầu tiên đưa ra quan niệm về NT và quan niệm
về thủ lĩnh chính trị
2.3. Platon (427 - 347 trước Công nguyên)
17
Ông là nhà chính trị xuất sắc. Tư tưởng chính trị của ơng được phản
ánh trong các tác phẩm: Nước cộng hoà, các đạo luật…
Quan điểm chính trị: Platon cho rằng chính trị là nghệ thuật cai trị, cai
trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị. Chính trị phải là sự chuyên
chế, tất cả các cá nhân phải phục tùng quyền uy. Tự do chỉ dẫn đến hỗn loạn
gây tai hoạ cho đời sống công dân.
Xã hội lý tưởng của Platon là xã hội được trị vì bởi sự thơng thái. Ơng
chia xã hội thành 3 hạng người:
Các nhà triết học thơng thái đảm nhận vai trị lãnh đạo, cai quản nhà
nước.
Tầng lớp chiến binh bảo vệ an ninh xã hội.
Tầng lớp nông dân, thợ thủ công làm ra của cải vật chất đảm bảo cuộc
sống cho xã hội.
Ông chủ chương xố sở hữu cá nhân vì một xã hội lý tưởng. Đó là khởi
nguồn của chủ nghĩa cộng sản không tưởng.
Quan điểm chính trị của Platon có nhiều mâu thuẫn: vừa địi hỏi xố bỏ
tư hữu vừa muốn duy trì chế độ xã hội đẳng cấp. Ơng đưa ra mơ hình xã hội
lý tưởng nhưng lại bảo vệ tầng lớp quý tộc, chủ nơ. Tuy vậy, ơng đã có những
quan điểm cụ thể và hệ thống chính trị, sự phát triển của xã hơi nói chung.
2.4. Aritxtốt (384 - 322 trước Công nguyên)
Theo Aritxtot, nhà nước xuất hiện tự nhiên, được hình thành do lịch sử.
Con người là động vật chính trị.
Nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước là sự tiếp
tục chính quyền trong gia đình. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân
18