Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.19 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
…..●●…..

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN

MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

CHỦ ĐỀ 2: Q TRÌNH HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ
ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

GVHD: ThS. Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ

Lớp: L12 Nhóm: 15

DANH SÁCH THÀNH VIÊN

STT1 HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Nguyễn Hoàng Phúc 2112044
2 2114450
3 Nhân Thiện Phúc 2114545
4 Ngơ Trí Qn 2114533
5 2114557
6 Đoàn Minh Quân 2114561
7 Trần Trung Quân 2114510
Võ Hồng Quân
Nguyễn Thanh Quang

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 2 năm 2024


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ BÀI TẬP LỚN
Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Nhóm/Lớp: L12 Tên nhóm: NHÓM 15

Đề tài:

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Kết quả

STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công (Nhóm tự đánh giá mức độ Ký tên

đóng góp của từng cá nhân)

1 2114450 NHAN THIỆN PHÚC Phần 2.2 100%
QUÂN Tổng hợp Word + Phần thuyết trình 100%
2 2114533 ĐỒN MINH QUÂN Phần 2.1 100%
QUÂN Phần 3.1 100%
3 2114545 NGƠ TRÍ QUÂN Phần Mở Đầu + Phần 1 100%

4 2114557 TRẦN TRUNG QUANG Phần 3.2 + Phần KẾT LUẬN 100%

5 2114561 VÕ HỒNG


6 2114510 NGUYỄN THANH

NHẬN XÉT,
ĐÁNH GIÁ CỦA

GIẢNG VIÊN

Họ và tên nhóm trưởng: Nguyễn Thanh Quang, Số ĐT: 0949116464, Email:

GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)

Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ Nguyễn Thanh Quang
1

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
B. PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................5

I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.......................................4

I.1. Bối cảnh lịch sử.....................................................................................................4
1.2.Cương lĩnh chính trị đầu tiên...............................................................................11
II. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ tháng 10-1930 đến tháng 5-1941. 15
2.1. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930).......................15
2.2 Q trình khắc phục hạn chế và hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc từ tháng 3-1945 đến tháng 5-1941.......................................................................20
III. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng

Dân tộc Dân chủ Nhân dân........................................................................................34
3.1. Những yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nội dung Chính cương
Đảng Lao động Việt Nam..........................................................................................34
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh của Đảng so với Cương lĩnh và Luận cương chính trị..38
KẾT LUẬN.....................................................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................45

2

A. PHẦN MỞ ĐẦU

Đất nước Việt Nam đã trải qua bao chặng đường dài khó khăn, gian khổ, để giành
được độc lập, thắng lợi. Vì đó “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt
Nam”. Vì thế với mỗi người dân Việt Nam nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng, việc
học tập và nghiên cứu lịch sử đường lối của Đảng là để hiểu được phần nào những chặng
đường khó khăn, gian khổ mà cách mạng đã đi qua. Đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
là một tài sản vô giá, là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội
lực,vượt qua thách thức khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc cách mạng giành độc lập
cho đất nước.

Nhìn lại quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta đã thấy Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò lãnh đạo tinh thần cách mạng triệt để, khi thắng lợi cũng
như lúc khó khăn, khi thành công cũng như lúc sai lầm khuyết điểm. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là một điều tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải
phóng dân tộc ở Việt Nam trong thời đại mới.

Để nhận thức rõ hơn về lịch sử Đảng, bài tiểu luận của nhóm em giải quyết vấn
đề“Q trình hồn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ cương lĩnh
chính trị đầu tiên đến chính cương Đảng lao động Việt Nam”. Nhóm em làm bài tiểu luận
này với mong muốn củng cố, tìm hiểu thêm kiến thức về quá trình hoàn chỉnh đường lối

của Đảng cho bản thân cũng như đó là sự cần thiết với thế hệ trẻ hiểu được, học tập lịch
sử Đảng không chỉ là tiếp thu kiến thức mà ta phải thấy được trách nhiệm của mỗi cá
nhân trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường mà Đảng đã lựa
chọn.Nhưng do chưa được tiếp xúc nhiều tài liệu, cũng như các kiến thức chuyên sâu liên
quan, nên không tránh khỏi các thiếu sót và hạn chế. Nên chúng em rất mong sự giúp đỡ
của thầy để tiểu luận trở nên tốt hơn.

Đề tài sẽ giải quyết cũng như trình bày những bối cảnh lịch sử Việt Nam trong các
giai đoạn. Hiểu rõ được bản chất, thực trạng của đất nước Việt Nam bấy giờ. Hiểu rõ

3

chính sách chủ trương, quan điểm đường lối của Đảng, và q trình hồn chỉnh đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong việc xây dựng phát triển đất nước.

4

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.1. Bối cảnh lịch sử
- Chính sách cai trị của thực dân Pháp:

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt
được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy
thống trị ở Việt Nam.

a) Về chính trị:

Chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi

quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ tồn quyền Đơng
Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến
các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án,..., biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai.

Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu
tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm
độc,chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với
nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đơng Dương thuộc Pháp, xố tên nước
ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn
giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dịng họ, giữa dân tộc Việt Nam
với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.

Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm Việt Nam, Campuchia,
Lào,đứng đầu là viên Toàn quyền người Pháp. Thi hành chế độ chuyên chế, trực tiếp nắm
mọi quyền hành:

Dùng chính sách "chia để trị": thực dân Pháp chia rẽ 3 nước Đông Dương, rồi lập ra
xứ Đông Dương thuộc Pháp. Ở Việt Nam, Pháp thực hiện chia rẽ giữa 3 kỳ (theo chế độ

5

cai trị khác nhau). Chúng chia rẽ người Kinh và các dân tộc khác, giữa miền xuôi - miền
núi, giữa các tôn giáo... Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh, đứng đầu các xứ và tỉnh là các viên quan
người Pháp. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu. Đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam vẫn là
làng xã, do các chức tịch địa phương cai quản. Bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa
phương đều do thực dân Pháp chi phối. Thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, thẳng tay đàn
áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta và khủng bố, cấu kết với địa chủ. Thực dân
Pháp tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn.

b) Về kinh tế:


Nơng nghiệp: năm 1897, Pháp ép triều Nguyễn kí điều ước “nhượng” quyền “khai
khẩn đất hoang” cho chúng. Ngay sau đó, Pháp tăng cường cướp đoạt đất đai, lập các khu
đồn điền lớn để trồng cao su, thứ cây cơng nghiệp mà Pháp coi trọng khi đó.

Công nghiệp: chú trọng khai thác mỏ than và kim loại. Tuy nhiên Pháp không xây
nhà máy luyện kim tại Việt Nam, tất cả kim loại khai thác được chở về Pháp. Phần lớn
các xí nghiệp khai mỏ nằm trong tay những tập đoàn tư bản Pháp. Phương thức hoạt động
là tận dụng nhân công lao động rẻ mạt, sao cho chi phí sản xuất giảm xuống mức thấp
nhất để thu lợi nhuận cao.

Giao thông vận tải: xây dựng hệ thống đường giao thông hiện đại, vừa phục vụ làm
ăn lâu dài, vừa nhằm mục đích quân sự.

Thương nghiệp: Việt Nam trở thành thị trường độc quyền của tư bản Pháp, Pháp
độc quyền thu thuế xuất nhập khẩu. Tất cả hàng hoá Việt Nam mà Pháp cần đều phải ưu
tiên xuất sang Pháp, không được xuất khẩu sang nước khác, những hàng hoá mà Pháp
thừa ế hoặc kém phẩm chất so với hàng hoá của các nước khác thì Việt Nam vẫn phải
mua của Pháp.

Tiến hành chính sách khai thác để cướp đoạt tài ngun, bóc lột nhân cơng rẻ
mạt,mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của tư bản Pháp, độc quyền về kinh tế để dễ bề
ve vét, độc hành về thuế và phát hành giấy bạc, duy trì hình thức bóc lột phong kiến, kìm

6

hãm nền kinh tế Việt Nam trong vòng lạc hậu, làm cho kinh tế nước ta phụ thuộc vào
kinh tế Pháp.

Đặc biệt chúng độc quyền về muối, rượu và thuốc phiện:


Về muối: muối là một trong những thứ nhu yếu phẩm, đặc biệt lại là một sản phẩm
vô cùng quan trọng trong miếng ăn của người Việt Nam, là thành phần vô cùng cần thiết
trong việc dự trữ thực phẩm, chế biến món ăn và nấu ăn. Muốn muối cá, muối thịt, làm
nước mắm, muối dưa cải hay muối chua các thứ rau, tất cả đều phải có muối. Kho cá, kho
thịt, làm xôi, nấu cơm nếp, ăn cháo trắng lót lịng cũng phải có muối. Nói tóm lại, bất kỳ
món ăn nào cũng phải có muối. Chính vì thế mà đối với người Việt Nam, muối trở thành
một sản phẩm vơ cùng quan trọng khơng khác gì gạo. Hơn nữa, nước ta khơng có mỏ
muối. Vì thế, tất cả muối tiêu thụ ở nước ta đều được sản xuất qua phương pháp gạn lọc
nước biển bằng cách để cho nước bốc hơi bay đi hết, chất muối lắng xuống ở dưới rồi
gom lại thành từng thúng đem đi bán. Do tình trạng này, chỉ những vùng ven biển có bãi
cát lài lài, thoai thoải bằng bằng mới có điều kiện để sản xuất muối. Những vùng bờ biến
dốc đứng khơng có điều kiện sản xuất muối. Những yếu tố này đã khiến cho muối trở nên
khan hiếm ở trên thị trường. Biết được những yếu tố quan trọng này, các nhà làm chính
sách thuế khố trong chính quyền Liên Minh Pháp - Vatican nghĩ ngay đến biện pháp
nắm độc quyền phân phối muối. Qua chính sách đánh thuế bất nhân này, chúng đã thu vơ
về ngân quỹ của Liên Minh Pháp - Vatican một khoản tiền khổng lồ có thể đủ trả lương
cho 50% cơng chức ở Đông Dương.

Về rượu: Trong thực tế, rượu đã được coi như khá quan trọng trong nếp sống văn
hoá của bất kỳ xã hội nào dù là văn minh hay lạc hậu. Với các quốc gia Đông Phương
chịu ảnh hưởng của nền văn minh Khổng Mạnh, rượu đã trở thành một trong những yếu
tố vô cùng quan trọng trong nếp sống văn hoá của người dân. Cũng vì thế mà rượu hiện
diện trong hầu hết các ngày lễ lạc, đám cưới, đám tang, cúng tế và những cuộc hội ngộ
giữa các bạn bè thân thiết hay trong những bữa tiệc kẻ ở tiễn người đi hoặc trong bữa
cơm vui đón mừng người đi xa trở về, tất cả cũng đều phải có rượu. Ở nước ta, rượu cũng

7

vô cùng quan trọng, trong thời xưa, bất kỳ làng xóm nào cũng có một hay hai gia đình

sinh sống bằng nghề nấu rượu, rượu trở thành sản phẩm rất thơng dụng, khơng bao giờ
khan hiếm. Biết rõ tính cách quan trọng của rượu trong nếp sống văn hoá của người Việt
Nam là như vậy, với chủ trương cố hữu nắm trọn quyền kiểm soát tất cả mọi ngành sinh
hoạt trong xã hội, Giáo Hội La Mã và thực dân Pháp bèn quyết định nắm độc quyền sản
xuất và phân phối rượu, rồi cưỡng bách nhân dân ta hàng năm phải tiêu thụ số lượng rượu
theo đúng chỉ tiêu mà chúng đã đề ra. Với việc nắm trong tay độc quyền sản xuất rượu
trong nước, thực dân Pháp không chỉ thu về lợi nhuận hàng năm, mà cịn có khả năng
khống chế và đầu độc nhân dân ta.

Về thuốc phiện: Thuốc phiện bị coi như là một sản phẩm có tác hại vơ cùng nguy
hiểm cho những người hút và gia đình họ. Thế nhưng, từ khi dân ta rơi vào ách thống trị
của Liên Minh Pháp - Vatican, thuốc phiện lại do chính quyền chủ động nhập cảng, thiết
lập các cơ sở biến chế, tổ chức hệ thống phân phối, khuyến khích mở các tiệm hút và
tiệm bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc quyền buôn bán sản phẩm này.
Như vậy là chính quyền đã tạo điều kiện thuận lợi cho khá nhiều người mà đa số thuộc
thành phần khá giả dễ dàng a dua đua đòi rồi sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư
hại cả cuộc đời. Nhìn rộng ra, nếu quốc gia có q nhiều người nghiện hút thuốc phiện
như vậy,thì dân nước sẽ khơng cịn ý chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao
túng tự tung tự tác. Hậu quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi
vào cảnh lệ thuộc nước ngoài. Tuy nhiên, thiết nghĩ rằng, ngoài chủ trương làm tiêu tan ý
chí đấu tranh của dân tộc Việt Nam, Liên Minh Pháp - Vatican cịn có chính sách độc
quyền nhập cảng lậu và phân phối thuốc phiện vừa để lấy tiền chi phi cho bộ máy cai trị
tại Đông Dương, vừa để trả lương hậu hĩ cho công chức người Pháp trong bộ máy cai trị
này với mục đích khích lệ họ tích cực thẳng tay đàn áp và bóc lột dân ta chế và đầu độc
nhân dân ta.

c) Về văn hoá:

8


Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hố, giáo dục thực dân; dung túng, duy trì
các hủ tục lạc hậu... Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở Đông
dương: “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà cịn bị hành
hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu... chúng tôi phải sống
trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tơi khơng có quyền tự do học tập”.

Ngu dân về giáo dục và đầu độc về văn hoá là một trong những biện pháp hỗ trợ
đắc lực cho công cuộc khai thác ở Việt Nam. Thực dân Pháp thực hiện chính sách giáo
dục chỉ nhằm mục đích đào tạo đội ngũ thông dịch viên và những người phục vụ trong bộ
máy chính quyền thuộc địa, đồng thời từng bước truyền bá chữ Pháp và chữ Quốc
ngữ,hạn chế ảnh hưởng của chữ Hán. Các trường học được tổ chức với ba bậc: bậc ấu
học ở xã, bậc tiểu học ở phủ, huyện và bậc trung học ở tỉnh. Học sinh theo học trong hệ
thống các bậc học này, ngoài việc được trang bị các kiến thức khoa học phổ thông cịn
phải học tiếng Pháp. Các bậc học càng cao thì mơn tiếng Pháp và các kiến thức về văn
hố Pháp càng trở thành bắt buộc.

Đi cùng với chính sách ngu dân, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách
đầu độc, truỵ lạc hố đối với người dân, đặc biệt là thanh niên với mọi thủ đoạn. Những
thói hư tật xấu được chính quyền các cấp ra sức dung dưỡng. Nạn cờ bạc được khuyến
khích bằng cách cho mở các sịng bạc để thu thuế. Ngồi những sịng bạc cơng khai có
tính chất thường xuyên, tổ chức quy mô ở Chợ Lớn, Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Lào
Cai cịn có nhiều sịng bạc kín được tổ chức ở các dịp chợ phiên, ở những vòng đua ngựa
ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn…

Tệ nạn uống rượu không bị hạn chế mà thậm chí nhân dân cịn bị bắt phải uống một
loại rượu nặng độ do hãng rượu độc quyền Phông ten sản xuất trên cả nước. Loại rượu
này có nồng độ từ 40-45 độ và được nấu từ những loại gạo rẻ tiền rồi sau đó pha thêm
chất hố học. “Cứ 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng
cũng trong số 1.000 làng đó lại chỉ vẻn vẹn 10 trường học... Hàng năm người ta cũng đã
tặng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà và trẻ con”.


9

Thuốc phiện đã trở thành một công cụ hữu hiệu để đầu độc người dân, đặc biệt là
giới trẻ. Chúng mở các cơ quan thu mua và các công ty bán thuốc phiện một cách công
khai.Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh trích đăng bức thư của
Tồn quyền Đông Dương Xarô gửi viên Công sứ dưới quyền: “Tôi trân trọng u cầu
ơng vui lịng giúp đỡ những cố gắng của Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý
bán lẻ thuốc phiện và rượu... Để tiến hành việc đó tơi xin gửi ơng một bản danh sách
những đại lý cần đặt trong các xã đã kể tên...” 2. Chính quyền các cấp đã tìm mọi cách để
ép các viên chức từ công sứ cho tới các nhân viên văn phòng tăng mức tiêu thụ rượu và
thuốc phiện lên mức cao nhất có thể.

Nạn mại dâm cũng được thực dân Pháp dung túng và trở nên phổ biến ở các thành
phố lớn... Ở nông thôn và miền núi, các hủ tục về ma chay cưới xin cịn tồn tại, nạn bói
tốn, đồng bóng, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề.

Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hố, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân hố sâu sắc.

Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp
bức nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân
hố,một bộ phận địa chủ có lịng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu
tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.

Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng
của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến

tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và
quyền sống tự do.

10

Giai cấp công nhân: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân
Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà Nội, Sài
Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh.

Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân, nạn nhân của
chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp
cơng nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân.Giai cấp công nhân Việt
Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân
Việt Nam là: “ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam,và vừa lớn lên nó đã sớm
tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin”.

Giai cấp tư sản Việt Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp...
Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp vả tư sản người Hoa cạnh
tranh, chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ
bé, yếu ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam khơng đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.

Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những
người làm nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng
lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành
những người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lịng u nước, căm thù đế quốc, thực dân,
lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ bên ngồi truyền vào. Vì vậy, đây là lực
lượng có tinh thần cách mạng cao.

Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội

Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra
đời của hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác
nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực
dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt
Nam:mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu

11

thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến.
Trong đó mâu thuẫn chủ yếu nhất là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xoá bỏ chế độ
phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nơng dân.
Trong đó,chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

1.2.Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo
con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp
ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần
tinh thần dân tộc.

Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm (Thái Lan) đang tìm đường về nước thì
nghe tin Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phân liệt, những người Cộng sản chia
thành nhiều phái, Người lập tức trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong
trào cách mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu tập đại biểu của hai nhóm (Đơng
dương và An Nam) và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung

Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 06-01-1930. Sau nhiều ngày thảo luận, đến ngày 03-
02-1930, Hội nghị đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng
sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và
Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.

1.2.1 Chánh cương vắn tắt

Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản
làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Cịn về nơng nghiệp một ngày một

12

tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản
xứ khơng có thế lực gì ta khơng nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa
chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

A. Về phương diện xã hội
a) Dân chúng được tự do tổ chức
b) Phổ thông giáo dục theo nông công hoá
B. Về phương diện chính trị
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam được
hoàn toàn độc lập
b) Dựng ra chính phủ cơng nơng binh
c) Tổ chức ra quân đội công nông.
C. Về phương diện kinh tế
a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái
b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, vv.) của tư bản đế

quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ cơng nơng binh quản lý
c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo
d) Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo
e) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp
f) Thi hành luật ngày làm tám giờ
1.2.2. Sách lược vắn tắt

13

I. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp của mình, phải làm cho giai cấp của mình lãnh đạo được dân chúng.

II. Đảng phải thu được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo
làm thổ địa cách mạng đánh lại bọn đại địa chủ và phong kiến.

III. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác
xã)khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.

IV. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân
Việt, để kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú nơng, trung, tiểu địa chủ
và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản các mạng (Đảng lập Hiến, v.v.) thì phải đánh
đổ.

V. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, khơng khi nào nhượng bộ
một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp, trong khi tuyên truyền
khẩu hiệu “nước An Nam độc lập”, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp.

1.2.3. Chương trình tóm tắt của Đảng


Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân
và làm cho họ đủ năng lực lãnh đạo quần chúng.

Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn
địa chủ và phong kiến.

Đảng giải phóng cơng nhân và nơng dân thốt khỏi ách tư sản.

Đảng lôi kéo tiểu tư sản, tri thức và trung nơng về phía giai cấp vơ sản, Đảng tập
hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư sản bậc trung, đánh đổ các Đảng phản cách mạng
như Đảng Lập Hiến, v.v…

14

Không bao giờ Đảng lại hi sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho
một giai cấp khác.

Như vậy nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm
vụ,lực lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập
Đảng. Cụ thể, về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Cương lĩnh xác định ba nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống
phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Cụ
thể:

Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt
Nam được hồn tồn độc lập, dựng ra Chính phủ công-nông-binh và tổ chức quân đội
công nông.


Về kinh tế, tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ
mới;tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở
mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm
tám giờ.

Về văn hố, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thơng giáo dục
theo hướng cơng nơng hố.

Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân,nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách mạng
ruộng đất; lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng… đi vào phe vô sản giai cấp; Đối với
phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
thì phải đánh đổ. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua Đảng
Cộng sản. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ
phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.

15

Về mối quan hệ quốc tế, Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới; phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản
trên thế giới, nhất là với quần chúng vô sản Pháp.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo
con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp
ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần
tinh thần dân tộc. Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để
giành chính quyền về tay nhân dân đi tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.


Tuy rằng, nội dung Cương lĩnh vẫn cịn một vài vấn đề về sau khơng hồn tồn phù
hợp với thực tiễn Việt Nam hoặc có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác
nhau,song với sự bổ sung của Luận cương Chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được hồn
thiện hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản
dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực
hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng
thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nơng dân. Vì vậy, Đảng đã đồn kết được những lực
lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, cịn các đảng phái của các giai cấp
khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của
giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường”.

II. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ tháng 10-1930 đến tháng 5-1941
2.1. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930)

2.1.1. Hoàn cảnh ra đời

Luận cương chánh trị do đồng chí Trần Phú (1904 - 1931) dự thảo từ mùa hè đến
mùa thu năm 1930, sau khi được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về
nước, cử bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận
Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) Quốc tế Cộng sản về Đảng Cộng sản và cách

16

mạng dân chủ tư sản kiểu mới; các tài liệu, văn kiện Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng
(2-1930) và khảo sát các phong trào công nhân, nông dân một số tỉnh, thành phố: Hà Nội,
Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, khu mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả...

2.1.2. Nội dung, ý nghĩa lịch sử và hạn chế


Luận cương chính trị của Đảng (thường gọi là Luận cương cách mạng tư sản dân
quyền) đã phân tích đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên
những vấn đề cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân
cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.

Luận cương vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương là: lúc
đầu cách mạng Đông Dương là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có tính chất thổ địa
và phản đế, “tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau
khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn
mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.

Ngoài ra, luận cương còn khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là:
Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có
quan hệ khăng khít với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa
chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi, và có phá tan được chế độ phong kiến thì
mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong 2 nhiệm vụ này, “Vấn đề thổ địa là cái cốt
của cách mạng tư sản dân quyền” và là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

Về lực lượng cách mạng, giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư
sản dân quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo
nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc
và địa chủ chống lại cách mạng, còn tư sản cơng nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải
lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc.

17

Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ cơng nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản
thương gia thì khơng tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia

chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các
phần tử lao khổ ở đơ thị như những người bán hàng rong, thợ thủ cơng nhỏ, trí thức thất
nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.

Về phương pháp cách mạng, để đạt được mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là
đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay cơng nơng thì phải ra sức
chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”. Võ trang bạo động để giành
chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.

Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, cách mạng Đông
Dương là một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới, vì thế giai cấp vơ sản Đơng Dương
phải đồn kết gắn bó với giai cấp vơ sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp,và
phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa,
nhất là Trung Quốc và Ấn Độ nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh
cách mạng ở Đông Dương. Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới.

Về vai trò lãnh đạo của Đảng sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện cốt yếu
cho thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập
trung, mật thiết liên hệ với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp
vô sản ở Đơng Dương, đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

2.1.3. So sánh Luận cương chính trị của Đảng (10/1930) và Cương lĩnh chính trị
(2/1930)

a) Điểm giống nhau giữa luận cương chính trị và cương lĩnh của Đảng

Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích


18

chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ
cách mạng nối tiếp nhau khơng có bức tường ngăn cách. Phương hướng chiến lược đã
phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.

Mâu thuẫn cơ bản, đều chỉ ra hai mâu thuẫn cơ bản của nước ta trong thời điểm đó
là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Hai mâu thuẫn này được ngầm thể hiện
thông qua hai nhiệm vụ cách mạng là đánh đế quốc và đánh phong kiến. Trong đó, đánh
đế quốc để giản quyết mâu thuẫn dân tộc, đánh phong kiến để giải quyết mâu thuẫn giai
cấp.

Về nhiệm vụ cách mạng, đều thực hiện hai nhiệm vụ là chống đế quốc, đánh phong
kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân tộc.

Về lực lượng cách mạng, đều chỉ ra lực lượng nòng cốt của cách mạng Việt Nam là
công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nịng cốt và cơ bản đơng đảo trong xã hội
góp phần to lớn vào cơng cuộc giải phóng dân tộc nước ta.

Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế
giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình

Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng
Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”. Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện
đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.


b) Điểm khác nhau giữa luận cương chính trị và cưỡng lĩnh của Đảng

19


×