Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận văn học cổ đại trung quốc (tiên tần – tần hán – nguỵ tấn nam bắc triều)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.95 KB, 15 trang )

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

VĂN HỌC CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC

(Tiên Tần – Tần Hán – Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều)

A. TIÊN TẦN

1. Một số đặc điểm chung

Tiên Tần là thời kỳ trước đời Tần, tức là từ khởi thủy cho đến năm 221 TCN, trước khi
Tần Thủy Hoàng Đế thống nhất Trung Quốc.

Tiên Tần là thời kỳ manh nha, hình thành và bước đầu phát triển của văn học Trung Quốc,
những giá trị văn hóa được thiết lập trong giai đoạn này có ảnh hưởng sâu sắc đến các giai đoạn
sau.

Văn hóa thời Tiên Tần mang tính tổng hợp, văn học chưa hồn tồn thốt ly khỏi văn hóa
nên các tác phẩm văn học Tiên Tần khơng có sự phân biệt rạch ròi mà thường kết hợp giữa văn
– sử – triết, thi – nhạc – vũ.

Các tác phẩm văn học thời Tiên Tần thường là các sáng tác tập thể, do người đời sau thu
thập và chỉnh lý thành sách nên khó mà xác định ai là tác giả ban đầu, năm sáng tác, bản sáng
tác gốc.

2. Quá trình phát triển của văn học Tiên Tần

2.1. Xã hội nguyên thủy: Văn học truyền miệng

2.1.1 Bối cảnh lịch sử


Đây là giai đoạn đầu tiên và dài nhất của xã hội loài người. Sống chủ yếu bằng săn bắt, hái
lượm, công cụ lao động bằng đá thô sơ. Lồi người tri thức hạn hẹp, chưa có chữ viết.

2.1.2 Thể loại

Thơ ca, âm nhạc, vũ đạo

Vào thời kỳ này, văn học chưa hoàn toàn thốt ly khỏi văn hóa, cho nên các tác phẩm văn
học khơng có sự phân biệt rạch rịi mà thường kết hợp giữa thi – nhạc – vũ.

Âm điệu và định luật trong thơ ca có nguồn gốc từ tiết tấu lao động của con người. Người
xưa cho rằng khi âm khí q thịnh, thì dương khí bị tắc, khơng vận hành theo quy luật bình
thường, sẽ làm cho tinh thần u uất, dẫn đến không thư thái, gân cốt teo co lại, khiến con người
khơng khỏe mạnh, từ đó sáng tác ra vũ đạo để tăng cường khai thơng dẫn đạo, khơi thơng tích
tụ, u uất.

Người xưa tin rằng nhạc vũ chứa đựng sức mạnh vô cùng to lớn mạnh mẽ, có thể hiệu lệnh
quỷ thần, có thể dẫn đến sự cộng hưởng của thiên nhiên, gọi chim tiên thú lạ đến, làm trăm loài
thú nghe thấy âm thanh mà nhảy múa, làm cho thiên hạ hài hòa yên ổn.

Thần thoại, truyền thuyết

Thần thoại, truyền thuyết là kết quả từ sự khám phá tự nhiên của người xưa. Trong xã hội
tự nhiên, thiên nhiên vừa gần gũi vừa đe dọa con người, do đó đánh thức khát vọng khám phá,
lý giải và chinh phục thiên nhiên.

1

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2


Thần thoại, truyền thuyết ra đời từ nhu cầu giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội
của người cổ đại. Người nguyên thủy với khả năng tư duy hạn chế, không thể lý giải được các
hiện tượng tự nhiên nên đã giải thích mọi thứ bằng cách quy chiếu hoạt động của thế giới tâm
linh để hình thành thế giới bên ngồi. Tự nhiên trong trí tưởng tượng của họ đều là do các vị
thần tạo ra (thần trời, thần mưa, thần gió, thần sét, thần biển,...).

Ví dụ: Thần Nữ Oa trong truyền thuyết đã tạo ra nam và nữ vì thế bà trở thành vị nữ thần
cho họ kết đôi với cuộc hơn nhân. Từ đó bà trở thành hình tượng quan trọng trong việc thiết
lập chế độ hôn nhân, căn bản của xã hội loài người thời xưa.

2.2 Xã hội nô lệ

2.2.1 Bối cảnh lịch sử

Vào giai đoạn này đã xuất hiện Giáp Cốt Văn, ánh dấu bước đầu văn học từ văn học truyền
miệng chuyển sang văn học viết. Hình thái đầu tiên của văn học ở thời kỳ này là các bài bói,
chú ngữ, điệu nhảy dùng trong nghi lễ cúng bái.

2.2.2 Thể loại

Thơ

Tiêu biểu nhất là Kinh Thi. Kinh Thi là tập thơ gồm nhiều bài thơ được sưu tầm, do Khổng
Tử chỉnh lý. Khi Nho giáo được đề cao, được gọi là Kinh Thi (nghĩa là tập thơ được đặt vào
hàng kinh điển của Nho gia). Các tác phẩm trong Kinh Thi đều là lời ca theo âm nhạc thuộc
bốn bộ phận: Quốc phong, tiểu nhã, đại nhã, tụng.

Khổng Tử đánh giá rất cao về Kinh Thi: “Các trị sao khơng học Thi? Thi có thể cảm phát
tâm trí làm cho người ta phấn khởi, có thể nhận xét thấy rõ những điều hay dở của bản thân
mình, có thể biết cách sống chung với quần chúng, có thể biết cách xử trí khi gặp cảnh ốn

hận. Gần có thể ăn ở hết lịng hết sức với cha mẹ, xa có thể một lịng một dạ với quân vương.
Còn biết thêm nhiều tên chim muông cây cỏ”.

Kinh Thi vừa là tác phẩm văn học có giá trị vừa là một tấm gương phản ánh tình hình xã
hội Trung Quốc đương thời. Bộ thi thể hiện tính hiện thực, phản ánh cuộc sống giàu sang phú
quý của quý tộc, đối lập với cuộc sống cực khổ của nhân dân lao động. Bên cạnh đó, Nho giáo
rất phát triển vào thời kỳ này, do đó mà Kinh Thi được xem là một trong những tác phẩm văn
học tiêu biểu vào giai đoạn Tiên Tần và được các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục
tư tưởng.

2.3 Xã hội phong kiến

2.3.1 Bối cảnh lịch sử

Văn học Tiên Tần chủ yếu là văn học từ thời nhà Chu trở đi. Chính bối cảnh lịch sử đầy
biến động của nhà Chu, đặc biệt là thời Xuân Thu – Chiến quốc, đã hình thành một giai tầng
mới – tầng lớp kẻ sĩ (những tri thức có học vấn uyên bác, họ đưa ra hàng loạt các chủ trương
chính trị khác nhau nhằm ổn định xã hội). Từ đó đã nảy sinh sự hưng thịnh, phát triển tư tưởng
học thuật Bách gia chư tử.

2.3.2 Thể loại

2

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

Tản văn

Tản văn lịch sử: thuộc thể loại tự sự. Tác phẩm tiêu biểu là Tả truyện của Tả Khâu Minh.


Tản văn chư tử: thuộc thể loại thuyết lí. Tiêu biểu là tác phẩm Luận ngữ của Khổng Tử.
Đây là một bộ sách ghi lại ngôn hành của Khổng Tử, có chỗ ghi lại cả hành vi lời nói của các
môn đồ Khổng Tử.

3. Tiểu kết

Văn học tiên Tần là khởi nguồn của văn học Trung Hoa, là nền móng vững chắc cho “toà
nhà” văn học Trung Quốc. Tuy nhiên không phải sự mở đầu nào cũng non nớt, ấu trĩ mà giai
đoạn văn học này đóng vai trị rất quan trọng, rất tiêu biểu, có ảnh hưởng đến sự phát triển của
các giai đoạn văn học sau này và các nước trong khu vực.

B. TẦN HÁN

1. Nhà Tần (221 TCN - 206 TCN)

1.1 Bối cảnh lịch sử

Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất đất nước, chấm dứt tình trạng cát cứ xưng
hùng của sáu nước chư hầu phong kiến, lần đầu tiên xây dựng nên một chế độ phong kiến
chuyên chế tập quyền. Nhà Tần ra đời đã tạo điều kiện cho sự hình thành dân tộc Hán và sự
nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa.

Về chính trị, nhà Tần đã thống nhất Trung Hoa sau nhiều thập kỷ chiến tranh, tạo ra sự ổn
định chính trị và đơn nhất hóa quyền lực.

Về kinh tế, buôn bán chịu sự hạn chế nghiêm ngặt từ các chính sách sưu thuế nặng nề, mà
giao thương hàng hoá là một trong những con đường chính giúp cho việc trao đổi văn hóa thuận
lợi giữa các vùng miền, các nước lân cận, việc này đã khiến cho

Về văn hoá, triều đình nhà Tần đã thực hiện một loạt cải cách lớn về văn tự, thống nhất và

chuẩn hóa hệ thống chữ viết, dùng chữ tiểu triện và chữ lệ tương đối đơn giản, thuận tiện thay
cho chữ cổ vừa phức tạp lại không thống nhất. Việc này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển văn hóa và học thuật sau này. Hàng trăm trường phái tư tưởng bao gồm Nho gia, Đạo
gia, Pháp gia nở rộ trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, tuy nhiên, sau khi Tần Thủy Hồng
lên ngơi vào năm 221 TCN, ơng và cận thần của mình quyết định cai trị với một triết lý duy
nhất là Pháp gia và đàn áp các trường phái tư tưởng khác. Một trong những chính sách đàn áp
nổi bật thời đó là đốt sách chơn nho, Tần Thuỷ Hoàng ra lệnh đốt bỏ hết các bộ sách cổ quý
giá, kẻ nào không tuân lệnh mà lén lút giữ sách sẽ bị phạt nặng, văn hoá và học thuật bị tàn phá
nghiêm trọng.

1.2 Đặc điểm văn học

Trong việc cai trị đất nước, vua Tần dùng quan lại làm thầy, đốt sách, sách nhiễu các nho
sĩ, đồng thời thực hiện chính sách chun quyền văn hóa hà khắc và ngu dân, áp dụng tư tưởng
độc tôn pháp gia khiến cho con đường phát triển văn học triều Tần gặp nhiều khó khăn, khơng
nhận được nhiều quan tâm, việc tích lũy tinh hoa văn học dưới thời nhà Tần chưa có gì nổi bật,
phong phú. Chỉ có một số tác phẩm được lưu truyền như chiếu chỉ, kỷ niệm, văn bản pháp luật

3

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

và bia đá, tuy có phong cách và đặc điểm riêng nhưng nội dung tổng thể lại hạn hẹp và ít tài
năng văn chương, nhà văn thành đạt nhất chỉ có Lý Tư.

1.3 Thể loại

Dưới thời vua Tần, thể loại văn học chủ yếu được sáng tác là văn xi, vì định hướng của
triều đình nhà Tần coi trọng luật pháp hơn giáo dục sách vở, nên đa phần các tác phẩm thuộc
dịng văn xi chính luận, chủ yếu bàn về những vấn đề chính trị quan trọng đương thời, như

tường trình các chính sách của quan lại, biện pháp củng cố quyền lực nhà vua, sức mạnh quốc
phòng,... Xét về sự gọn gàng, hài hồ trong cách diễn đạt, sự trơi chảy của âm vần, âm điệu,
thể loại được nhận xét là tiền thân của tiểu luận chính trị nhà Hán.

2. Nhà Hán (206 TCN - 220)

2.1 Bối cảnh lịch sử

Nhà Tần dưới ách cai trị tàn bạo đã ra sức bóc lột, vắt kiệt sức lực, ép người dân khổ sở
mn phần dẫn đến nỗi ốn hận trong lịng nhân dân ngày một lớn, khởi nghĩa nông dân nổi
lên khắp nơi. Hạng Võ và Lưu Bang đã dựa vào các lực lượng khởi nghĩa để lật đổ nhà Tần,
sau cuộc phân tranh Sở - Hán, Lưu Bang đã đánh bại Hạng Vũ, lên ngơi hồng đế, lập nên triều
đại nhà Hán. Nhà Hán bắt đầu từ năm 206 TCN, chia làm hai thời kỳ: Tây Hán (206 TCN - 8)
và Đông Hán (25 - 219), giai đoạn giữa là triều đại nhà Tân (9 - 23) do Vương Mãng cướp ngơi
nhà Hán lập nên.

Về chính trị, nhà Hán sau khi ổn định trật tự xã hội đã ra sức xây dựng đất nước, mở rộng
quy mơ lãnh thổ và ảnh hưởng, tiến hành thơn tính các bộ lạc du mục để có được đồng minh
mới và nguồn cung bổ sung cho quân đội. Sự hình thành một quốc gia trung ương tập quyền
khiến cho các văn nhân thi sĩ đời Hán có tầm nhìn xa rộng hơn, từ đó cho ra đời các tác phẩm
lớn.

Về kinh tế, thời kỳ này kinh tế phát triển khá ổn định, mạnh mẽ với sự tăng trưởng chưa
từng có tiền lệ của dân số, quy mơ thành thị, thủ cơng nghiệp phát triển kích thích hoạt động
giao thương, các thành thị bn bán ngày một nhiều. Sự tăng trưởng kinh tế đã làm gia tăng sự
giàu có và lớn mạnh của một số gia đình và cơng chúng, và điều này đã tạo ra một tầng lớp
người có thể tài trợ và ủng hộ các hoạt động văn học.

Về văn hoá, nhà Hán sau khi lên nắm quyền cai trị đã nỗ lực cho tìm kiếm, thu gom lại
các cuốn sách đã bị đốt. Độc tôn Nho giáo, học thuyết Nho của Đổng Trọng Thư (từ Đông Hán

trở đi) được coi là hệ tư tưởng chính thống. Giai cấp thống trị đã áp dụng một loạt các biện
pháp có lợi cho sự phát triển của văn học, thêm vào đó là sự tăng cường sức mạnh đất nước, sự
tiến bộ xã hội, đã khiến văn học dưới thời Hán đạt được thành tựu nhất định. Tư tưởng sáng
tác của các tác giả, số lượng, chủng loại tác phẩm đều đạt đến mức độ hồn thiện, trình độ nghệ
thuật đều rất đáng chú ý. Văn học thời Hán trên nhiều phương diện tinh thần, quan điểm thẩm
mỹ, hình thức đều đã lưu lại tinh hoa muôn đời cho hậu thế.

2.2 Đặc điểm văn học

Thời đại nhà Hán chính là thời đại mà giá trị văn hoá bắt đầu được coi trọng. Văn học đã
trở thành món ăn tinh thần khơng thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân, số lượng các
tác phẩm rất dồi dào.

4

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

Văn học nhà Hán phản ánh tinh thần Nho giáo, với tư tưởng tôn giáo và đạo đức làm chủ
yếu. Các tác phẩm văn học thường tập trung vào việc khuyến khích đạo đức, xây dựng gia đình
hạnh phúc, trách nhiệm chính trị, và quan tâm đến lợi ích của cộng đồng.

Văn học nhà Hán còn là sự kết hợp giữa truyền thống và sáng tạo, văn học Hán đã kế thừa
và phát triển từ các triều đại trước đó, nhưng cũng mang những yếu tố sáng tạo riêng. Các tác
phẩm tiểu thuyết, truyện kỳ, và thơ ca được sáng tác theo phong cách và hình thức mới, đồng
thời giữ được tinh thần và giá trị truyền thống.

Văn học thời kỳ này thường mang tính lịch sử, kể lại và ghi chép về các sự kiện, triều đại,
và nhân vật quan trọng của thời kỳ Hán. Các tác phẩm văn học thường phản ánh cuộc sống
hàng ngày, sự phát triển xã hội, và những câu chuyện hư cấu dựa trên sự thật lịch sử.


Thể loại rất đa dạng, phong phú, bao gồm ca dao, truyện kỳ, tiểu thuyết, bài viết mang tính
triết học và thơ ca. Các nhà văn và học giả của thời kỳ này đã khai thác và phát triển các thể
loại văn học này để thể hiện tài năng sáng tác và truyền đạt thơng điệp của mình.

Văn học Hán đã có tầm ảnh hưởng rất lớn khơng chỉ trong lịch sử Trung Quốc, mà cịn
trong văn hóa châu Á nói chung. Các tác phẩm văn học nhà Hán đã được sao chép và truyền
bá trong suốt hàng thế kỷ, góp phần vào việc xây dựng cơ sở văn hóa và tri thức của Trung
Quốc và các quốc gia ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa.

2.3 Thể loại

Đời nhà Hán xuất hiện nhiều thể loại văn học mới đặt nền móng cho đời sau, những thể
loại đáng chú ý gây tiếng vang thời này gồm có phú, thi ca nhạc phủ, sử ký.

2.2.1 Phú

Hán phú là hình thức văn học điển hình nhất thời Hán, nằm trung gian giữa thơ ca và văn
xuôi, là loại văn yêu cầu từ ngữ trau chuốt, truyền tải tư tưởng rõ ràng, chủ yếu miêu tả tỉ mỉ
sự uy nghiêm, tráng lệ của cung điện, cảnh sinh hoạt hoàng gia, các cuộc tuần du, săn bắn của
nhà vua. Phú là thể văn hợp với cơng việc làm vui lịng bề trên, khơng cần ý tứ quá thâm sâu,
chỉ cần lời lẽ bóng bẩy, du dương, vì thế rất được ưa chuộng.

Vương triều nhà Hán phát triển toàn đến cực thịnh, thêm kẻ thống trị đề xướng, Hán phú
cũng bắt đầu tiến vào thời kì hưng thịnh, xuất hiện Hán phú danh gia Tư Mã Tương Như. Trong
6 bài phú nổi tiếng lưu danh cịn sót lại của ông, hai bài Tử hư phú và Thượng lâm phú là sáng
tác tiêu biểu nhất, đã xác lập nên cấu trúc một bài phú điển hình. Các tác giả sau này đã dựa
vào thể thức của hai bài phú này làm mẫu, chỉ thay đổi ngôn từ và đề tài.

Những bài phú đã thể hiện đầy đủ lãnh thổ rộng lớn, các đô thị phồn vinh, kiến trúc cung
đình tráng lệ, những thành tựu về văn hố và qn sự của nhà Hán. Vì phải tuân theo yêu cầu

ngôn từ hoa mỹ nên số lượng từ mới rất dồi dào, từ đó đã làm phong phú thêm kho tàng từ
vựng sáng tác, nhiều từ ngữ, câu cú mới được ra đời, nhiều bài văn, bài thơ ra đời sau năm
Kiến An đều lấy cảm hứng từ Hán phú về ngôn từ, phép tu từ và nghệ thuật kể chuyện. Sự phát
triển của Hán phú cũng đóng vai trị nhất định trong việc thúc đẩy sự hình thành các quan niệm
văn học, thời nhà Đơng Hán cũng bắt đầu tách văn học ra khỏi các ngành học thuật nói chung,
trải qua q trình thảo luận và tìm hiểu về các đặc điểm của văn học, khái niệm văn học ngày
càng trở nên rõ ràng hơn.

5

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

2.2.2 Thi ca Nhạc phủ

Thành tựu cao nhất về văn học thời Hán không chỉ có Hán phú mà cịn có thi ca Nhạc phủ,
thi ca có lịch sử lâu đời, từ thời cổ đại đã có địa vị quan trọng. Vua Hán tơn sùng Nho học, nên
rất tự nhiên chú trọng phát triển thi ca, trong đó chính sách quan trọng nhất là phát triển cơ cấu
âm nhạc - Nhạc phủ.

Buổi đầu, nhạc phủ được dùng trong trong dịp lễ tế, hoặc để ca tụng và giúp vui cho đế
vương. Về sau, do nó phơ diễn được ý thức, tình cảm của đủ loại giai cấp, nhất là giai cấp nơng
dân (vì những bài dân ca được tuyển chọn nhiều nhất), bởi thế, ngồi vai trị trên, nó cịn là một
thể loại sáng tác, một lối “hát xướng” được nhiều giới yêu chuộng.

Thi ca Nhạc phủ được xem là sáng tác từ dân gian, có sức sống mãnh liệt, thơng tục dễ
hiểu, trong sáng tự nhiên, phản ánh hiện thực cuộc sống, châm biếm kẻ thống trị, biểu đạt tình
cảm chân thực của quần chúng nhân dân lao động, nên có địa vị cao trong văn học sử Trung
Quốc, thường được ví là Kinh thi thời Hán.

Thi ca Nhạc phủ đã góp phần tạo dựng và hồn thiện thể thơ năm chữ, nó khơng chỉ ảnh

hưởng đến việc sáng tác thơ năm chữ của giới tri thức thời Đông Hán mà cịn trực tiếp đặt nền
móng cho sự phát triển của thơ ca Kiến An. Kể từ khi có Nhạc phủ cho đến thời kì cận đại, lúc
nào cũng có những sáng tác mơ phỏng Nhạc phủ, từ đó đã tạo nên một loại thơ đặc biệt trong
lịch sử thơ ca Trung Quốc.

2.2.3 Sử ký

Việc ghi chép sử ở Trung Quốc có từ rất sớm, thời nhà Chu đã xuất hiện chức vị quan sử,
song các cơng trình đó chưa thể trình bày lịch sử Trung Quốc một cách hồn chỉnh, chỉ ghi
chép một số sự kiện trọng đại, một số khu vực và thời đại.

Năm 106 TCN, Tư Mã Thiên nối nghiệp cha làm Thái sử lệnh và bắt đầu viết Sử ký - bộ
thông sử đầu tiên và đồ sộ nhất của Trung Quốc, ghi chép toàn bộ lịch sử từ đời Hoàng đế
(2689 TCN - 2597 TCN) đến niên hiệu Thái Sơ đời Hán Vũ Đế (104 TCN - 103 TCN). Sử ký
là hệ thống sách sử hoàn chỉnh đầu tiên do một cá nhân biên soạn, tồn bộ sách có 130 quyển,
hơn 52 vạn chữ.

Bộ Sử ký đã tổng kết được lịch sử mấy ngàn năm trước thời Hán Vũ Đế, miêu tả được bộ
mặt tinh thần của các nhân vật đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Tư Mã Thiên đã nghiêm khắc phê
phán hoặc hết lời ca ngợi những nhân vật đó. Những nhân vật bị lên án trong Sử ký như những
tên quan lại tàn ác đều bị người đời sau khinh bỉ, phỉ nhổ. Những nhân vật được tác phẩm ca
ngợi như Hạng Vũ, Tín Lăng quân, Hầu Doanh,..., đều được tri thức đời sau hâm mộ.Sử ký có
địa vị rất cao trong lịch sử văn học, có ảnh hưởng vơ cùng to lớn đối với đời sau, đặc biệt là
ảnh hưởng đối với việc sáng tác tiểu thuyết. Tác phẩm đã mở đầu một phong cách văn học mới,
là truyện ký lịch sử, sau này Trung Quốc trở thành nước viết nhiều truyện lịch sử nhất thế giới.
Một số nhân vật, cốt truyện, chi tiết là kho đề tài vô tận cho nghệ thuật văn học đời sau.

3. Tiểu kết

Văn học Tần Hán là một giai đoạn đặc biệt và quan trọng của văn học Trung Quốc, với sự

đa dạng thể loại, khám phá tri thức và triết lý, chú trọng vào sự thực tế, phong cách tinh tế và
sáng tạo, và tầm ảnh hưởng lâu dài.

6

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

C. NGỤY TẤN NAM BẮC TRIỀU

1. Bối cảnh lịch sử chung

Về xã hội

Ơng Tơng Bạch Hoa từng viết trong cuốn Mĩ học tản bộ: “Cuối thời Hán, Ngụy, Tấn và
Lục triều là những thời kỳ chính trị, xã hội hỗn loạn nhất ở Trung Quốc. Xã hội hỗn loạn dẫn
đến tư tưởng khơng có sự chun nhất.”

Trong suốt lịch sử thăng trầm của các triều đại Trung Quốc cổ đại, có hơn 30 triều đại lớn
nhỏ được thành lập và sụp đổ trong vòng chưa đầy bốn trăm năm. Chiến tranh liên miên đã dẫn
tới tình trạng hỗn loạn chính trị, dân số thời kì này đã giảm đi 80% làm cho văn học đã xuất
hiện nhiều chủ đề phản ánh sự loạn lạc.

Về kinh tế

Trong thời Ngụy Tấn, việc thôn tính đất đai trở nên nghiêm trọng mang lại quyền lực kinh
tế mạnh mẽ cho giới quý tộc. Những gia đình q tộc này kiểm sốt xã hội, chính quyền mạnh
mẽ dẫn đến tình trạng lũng đoạn về chính trị. Vì vậy văn học thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ
của bình dân với quý tộc.

Sự ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo


Tư tưởng văn học của thời kì này có thể được tóm tắt là: Sự trỗi dậy của huyền học, sự du
nhập của Phật giáo và sự hồi sinh của Đạo giáo

Vào thời nhà Ngụy, nhà Tấn và Lục triều, mặc dù việc giải phóng con người trên lĩnh vực
tư tưởng đã dẫn đến sự bác bỏ truyền thống Nho giáo tuy nhiên những quan niệm Nho giáo
truyền thống vẫn còn.

Tuy nhiên vào thời này, một số nhà tư tưởng đã cố gắng thay đổi Nho giáo ở thời nhà Hán,
dung hòa Nho giáo và Đạo giáo tạo nên Huyền học. Họ cố gắng từ bỏ sự áp bức tinh thần do
Nho giáo của nhà Hán gây ra, nhảy sang một thái cực khác, đó là mơ ước thoát khỏi ảnh hưởng
của xã hội đối với con người và theo đuổi tự do, độc lập.

Vì vậy, các tác giả của thời kì này theo đuổi chủ nghĩa cá nhân và văn chương duy mỹ.
Văn chương đã trở nên mang tính tự giác, ý thức con người tạo nên ý thức văn chương.

2. Đặc điểm văn học

Văn học Ngụy Tấn Nam Bắc Triều kéo dài khoảng 400 năm và trải dài qua 4 giai đoạn:
Văn học Kiến An, văn học Chính Thực, văn học nhà Tấn và văn học Nam Bắc Triều.

2.1 Văn học Kiến An (thời Tam quốc 196 – 220 SCN)

2.1.1 Bối cảnh lịch sử

Văn học Kiến An ra đời vào cuối thời Đơng Hán, đó là thời kỳ hỗn loạn và chia rẽ chính
trị nhất trong lịch sử Trung Quốc, mâu thuẫn xã hội gay gắt. Trong bối cảnh đó, văn học Kiến
An nổi lên theo yêu cầu của thời đại và trở thành xu hướng chủ đạo của thế giới văn học lúc
bấy giờ. Nho giáo bị lung lay khiến các nhà văn có niềm u thích mãnh liệt với văn học, văn
học bước vào thời đại tự ý thức, sự giải phóng tư tưởng văn nhân và theo đuổi sự tự giác đã

thúc đẩy giới văn nhân bộc lộ tài năng của mình.

7

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

2.1.2 Thể loại

Thành tựu chính của văn học Kiến An là thơ năm chữ. Thơ của văn học Kiến An kế thừa
và phát triển tinh thần chủ nghĩa hiện thực của Thi ca Nhạc Phủ nhà Hán. Tức văn học có tác
dụng phản ánh hiện thực xã hội, bên cạnh đó thơng qua việc phản ánh sự hỗn loạn của thời đại
để thể hiện cảm xúc cá nhân của tác giả. Vì vậy thơ Kiến An là sự kết hợp giữa tính hiện thực
và trữ tình. Ngồi ra, thơ Kiến An đã có những thay đổi mang đặc trưng riêng của mình. Thơ
Kiến An khơng giữ lại phong cách thơ miêu tả cuộc sống cung đình thời nhà Hán, cũng khơng
giữ lại màu sắc tươi mới, trong sáng mà chuyển sang phong cách nghệ thuật phóng khống
buồn bã.

Thơ ngũ ngơn phát triển là vì như học giả Nguyễn Hiến Lê nói: “Trong tình cảnh hỗn độn
ấy, văn nhân khơng cịn nhàn để đẽo gọt câu văn, khơng cịn dùng phú để ca tụng vua chúa
nữa, mà hay viết thơ ngũ ngôn (cổ phong) để than thở cho thân thế hoặc miêu tả cảnh thăng
trầm trong xã hội, cho nên thi ca chiếm địa vị của phú, vì thơ dễ diễn tả tình cảm hơn phú.”

2.1.3 Chủ đề

Văn học Kiến An ra đời trên sự sụp đổ của nhà Hán và sự lung lay của Nho giáo nên nó
đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến xã hội và con người, phản ánh chân thực hiện thực xã hội
cuối thời nhà Hán cũng như tư tưởng tình cảm của giới nhân văn. Miêu tả hiện thực xã hội đen
tối, những cuộc đời bi thảm trong chiến tranh, khát vọng thống nhất đất nước, ca ngợi cuộc
sống hồ bình và mưu cầu một tương lai tốt đẹp hơn. Thời kì văn học Kiến An là thời kì tự giác
trong văn học, con người được phản ánh khơng chỉ có vai trị nghĩa vụ xã hội mà cịn có sở

thích cá nhân, cuộc sống riêng tư. Vì vậy, văn học cũng thể hiện được triết lý về cuộc sống hay
lý tưởng, hoài bão của tác giả trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.

2.1.4 Đại diện tiêu biểu

Tam Tào: Tào Tháo, Tào Phi, Tào Thực.

Tào Tháo là nhà văn kiệt xuất của văn học Kiến An, là người khai sáng phong khí mới cho
văn học Kiến An, Tào Phi chiếm địa vị quan trọng trong thơ thất ngôn, Tào Thực là người đầu
tiên ra sức sáng tác thơ ngũ ngôn, đưa thơ ngũ ngôn lên tầm cao mới chưa từng có.

蒿里行 Hao Lí Hành (Tào Tháo) là một bài thơ ghi lại sự kiện quân Quan Đông tấn công
Đổng Trác, phê phán hiện tượng quân Quan Đông chỉ quan tâm tranh giành quyền lực và chém
giết lẫn nhau, bày tỏ sự cảm thông với những người dân đang gặp hoàn cảnh khốn cùng. Thơ
của Tào Tháo gắn liền với đời sống và những trải nghiệm chân thực, vì vậy người ta nói đọc
thơ của Tào Tháo như đọc một bản lịch sử ngắn gọn về cuối nhà Hán.

2.2 Văn học Chính Thực (cuối thời nhà Ngụy 240 – 249)

2.2.1 Bối cảnh lịch sử

Sau khi nhà Tư Mã lên nắm chính quyền thì ra lệnh giết những người bất đồng ý kiến. Địa
vị của giới quý tộc ngày càng được củng cố, để che đậy hành động của mình, họ lại hết sức đề
cao lễ nghĩa Nho giáo, dẫn đến sự suy thoái nghiêm trọng về mặt đạo đức khiến nỗi đau tinh
thần của tầng lớp trí thức trở nên đặc biệt gay gắt và sâu sắc, nhiều nhà văn đã chết trong cuộc
tranh giành quyền lực khốc liệt này, lí tưởng chính trị của các nhà văn bị suy sụp và vỡ mộng.

8

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2


Vì vậy, dưới tình hình chính trị như thế này, giới trí thức dễ gặp nguy hiểm và tai họa, lui về
sống ẩn dật, lấy rượu làm thú vui là lựa chọn duy nhất của họ. Đồng thời, trong thời kì này,
huyền học trở nên phổ biến, chứa đựng tinh thần đi tìm chân lý trước các hiện tượng xã hội,
thoát khỏi lối suy nghĩ cứng nhắc, mê tín. Quyền tự do tinh thần của Trang Tử nhấn mạnh cũng
được các nhà huyền học coi trọng, huyền học đã không những trở thành tư tưởng trong đấu
tranh chính trị, mà cịn là phương tiện để giới trí thức thỏa mãn ham muốn của mình.

2.2.2 Thể loại

Thơ

Đặc điểm thơ Chính Thực là ủng hộ tư tưởng của Lão Trang. Do môi trường lịch sử, xã
hội cụ thể và sự tìm tịi không ngừng của nhà văn trong nghệ thuật thơ, thơ ngũ ngơn đã hồn
tồn thốt khỏi ảnh hưởng của Thi ca Nhạc phủ, làm phong phú thêm kỹ năng diễn đạt của thơ
ngũ ngơn. Mặt khác bởi vì tình hình chính trị nên thơ Chính thực thường sử dụng những hình
ảnh trừu tượng để vạch trần, chế giễu thói đạo đức giả.

Thơ chính thực chia thành hai trường phái của hai nhóm tác giả với phong cách nghệ thuật
khác nhau:

Thơ của Hà Yến, Vương Bật: đề cao Đạo Giáo, rời xa thực tế, không kế thừa truyền thống
văn học Kiến An.

Thơ của Nguyễn Cơ, Kỷ Khang: kế thừa văn học Kiến An, thể hiện đặc điểm của thời đại.
Thơ của họ có nội dung sâu sắc hơn, kỹ thuật nghệ thuật tinh xảo hơn và thành tựu của họ vượt
xa trường phái thơ của Hà Yến và Vương Bật.

2.2.3 Chủ đề


Thơ ca lúc này rất khác so với văn học Kiến An, những tác phẩm phản ảnh nỗi đau khổ
của người dân và bày tỏ khát vọng cao cả ít đi. Thay vào đó, các nhà thơ đã dùng hình ảnh trừu
tượng để thể hiện cảm xúc mãnh liệt của mình, cảm giác lo lắng, buồn bã, hoảng loạn trước
hiện thực cuộc sống. Ngoài ra, văn học còn châm biếm sự trụy lạc, suy đồi, tàn ác của giới cầm
quyền, phê phán lễ nghi và thói đạo đức giả của Nho giáo, tuy nhiên những tác phẩm này
thường không trực tiếp miêu tả cụ thể về nhân vật, sự kiện mà chủ yếu thể hiện những thăng
trầm do sự kiện lịch sử gây ra. Văn học cịn thể hiện mong muốn thốt khỏi hiện thực cuộc
sống, lui về sống ẩn dật, tôn sùng tự nhiên của các tác giả.

2.2.4 Đại diện tiêu biểu

Trúc lâm thất hiền, tiêu biểu Nguyễn Cơ và Kỷ Khang.

Không thể không nhắc đến bức thư 与山巨源绝交书 (Thư đoạn tuyệt quan hệ với Sơn Cự
Nguyên) của nhà văn Kỷ Khang. Bức thư này được viết sau khi biết tin Sơn Đào (山涛) muốn
tiến cử ông từ Tào Lang về làm tướng quân ở Trung Lang, trong thư bác bỏ đề nghị của Sơn
Đào, chỉ ra bản chất con người đều có ưu điểm riêng, bản thân ơng vốn lười biếng không thể
bị phép tắc xã giao kiềm chế, ràng buộc. Đồng thời việc ông nhấn mạnh việc tôn sùng tự nhiên
không chỉ là coi thường lễ nghi thế tục của tư tưởng Nho giáo mà còn thể hiện sự ngưỡng mộ
của ông đối với tư tưởng của Lão Trang. Tác phẩm này trở nên nổi tiếng vì nó phản ánh được

9

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

thái độ của Kỷ Khang nói riêng cũng như những Văn nhân thời bấy giờ nói chung, có xu hương
rời xa chính trị hỗn loạn lựa chọn lối sống ẩn dật, trở về với thiên nhiên.

2.3 Văn phong triều đại nhà Tấn (thời kì hưng thịnh từ năm 280 – 289)


2.3.1 Bối cảnh lịch sử

Về chính trị, có hai giai đoạn lịch sử của nhà Tấn. Nhà Tây Tấn là sự kế tục của Tào Ngụy
sau khi Tư Mã Viêm chiếm quyền lực. Nhưng sau đó bị rơi vào một cuộc nội chiến và cuộc
xâm lược của Ngũ Hồ. Các quốc gia nhỏ này đánh lẫn nhau và với nhà Tây Tấn. Sau Khi Tây
Tấn bị lật đổ, một số quan liêu chạy về phía nam đưa Tư Mã Duệ lên ngơi vua lập ra nhà Đơng
Tấn. Chính những biến động đó, huyền học phát triển mạnh mẽ, như một cái hầm trú cho các
trí thức lẩn trốn hiện thực.

Do sức ép của của chính trị và sự lẩn trốn của các tầng lớp tri thức, các tác phẩm khơng
cịn mang tính hiện thực như thời kỳ văn học Kiến An. Thời Tây Tấn tuy vẫn còn dư âm của
văn học Kiến An, nhưng phần lớn các nhà văn coi trọng hình thức và kỹ xảo.

Thời Tây Tấn, khơng có sự bắt buộc khuyến khích theo tư tưởng tơn giáo nào. Đạo giáo
đã trở nên thịnh hành và mang tư tưởng vạn vật thuận theo tự nhiên, thoát khỏi sự ảnh hưởng
của Nho giáo kinh điển và bước vào con đường văn học tự giác. Phản đối sự xâm phạm của
luật pháp đến bản chất con người. Một mặt, các học giả thời Tây Tấn khơng hịa nhập được với
mơi trường tư tưởng thoải mái và đa dạng, bị thúc đẩy bởi những ham muốn như danh vọng và
vật chất, họ hướng quan điểm của mình về cuộc sống đời thường tầm thường. Vì vậy, xuất hiện
nhiều tác phẩm về cuộc sống gia đình, vợ chồng, con cái,…

Đến thời Đơng Tấn, Huyền học hịa nhập với Phật Giáo. Vì vậy, tư tưởng của các nhà văn
cũng có sự thay đổi, tư tưởng thỏa hiệp với cái ác, khơng thích đầu tranh. Đặc sắc nhất là những
bài thơ về tiền nhân, thơ phong cảnh.

2.3.2 Thể loại

Thơ

Đặc điểm của thơ thời kỳ này là thơ ca trở thành bài giảng triết học duy tâm, đầy tính

thuyết giáo, khơ khan. Đa số là chủ nghĩa hình thức và thơ huyền ngôn.

Nguyên nhân chính những biến động về lịch sử, làm cho các sĩ tử thời bây giờ chán nản,
lẩn tránh hiện thực, họ theo huyền học như để quên đi sự tàn khốc của hiện tại, đem nỗi nhung
nhớ, mong ước vào những bài thơ.

Phê bình văn học

Chính vì những sáng tác của văn học thời kỳ này xem trọng chủ nghĩa hình thức, xem
trọng thẩm mỹ. Song song đó, điều tất yếu phê bình văn học cũng sẽ phát triển. Tuy các nhà
phê bình thời Tấn thường bất mãn với những khuynh hướng này nhưng lại có lúc khơng tránh
khỏi hùa theo khơng khí đó.

Văn biền ngẫu

Văn biền ngẫu khá thịnh hành trong thời kỳ này. Văn biền ngẫu thường sử dụng các yếu
tố đối ngẫu, trái ngược nhau để tạo thành những cặp câu có tính liên kết, chặt chẽ về mặt bố

10

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

cục. Văn biền ngẫu khơng phải là thơ, bởi một vế có thể gồm nhiều chữ, số lượng linh hoạt,
nhưng vế sau lại yêu cầu một sự đối đáp theo quy luật.

Phong trào biền ngẫu ấy chịu ảnh hưởng của đạo Phật. Văn nhân nhiều người ngày nào
cũng gõ mõ tụng kinh mà khi tụng thì phải tiếng bổng tiếng trầm, rồi khi đọc văn, họ quen
miệng, cũng ngâm nga và muốn văn dễ ngâm thì họ phải viết sao cho có vần, có điệu. Thời này
văn biền ngẫu chú trọng đến 4 thanh (bình, thượng, khứ, nhập) để câu văn thêm nhạc.


2.3.3 Chủ đề

Thơ ca thời kỳ này cực coi trọng tính thẩm mỹ, câu từ cầu kỳ, sử dụng nhiều điển tích,
phần đơng ủy mị. Chủ đề chủ yếu là kể về những câu chuyện cuộc sống thường ngày, nỗi niềm
của các nhà thi sĩ, rất ít bài thơ hùng hồn, đối diện với hiện thực ở thời kỳ này.

2.2.4 Đại diện tiêu biểu

Tạ Linh Vân (谢灵运) cha đẻ của phong cách thơ mới – thơ phong cảnh. Tác phẩm nổi
tiếng của ơng là Đăng Trì Thượng Lâu (登池上楼) vừa miêu tả cảnh vật một cách rõ ràng
những cũng đồng thời thể hiện tâm trạng của nhà thơ. Tạ Linh Vân rất giỏi miêu tả tỉ mỉ, đưa
thơ Trung Hoa từ việc bày tỏ tâm tư, khát vọng đến miêu tả cảnh vật, truyền tải cảm xúc, lồng
ghép cảnh vật và bắt đầu chú ý đến việc miêu tả âm thanh, màu sắc. Ông đã dùng thơ để giải
quyết muộn phiền trong nội tâm, ông nghiên cứu Phật giáo và khao khát lý thuyết Phật giáo
nên ông lồng ghép những quan điểm, quan niệm cuộc sống vào thơ phong cảnh để tăng thêm
nội hàm cho bài thơ. Ngoài ra, ông còn giỏi vận dụng những nhận xét huyền học để tăng thêm
chiều sâu cho thơ, đây là di sản của thời đại, có thể nói thơ ơng mang đậm chất thời đại. Vì vậy,
người đời sau đã nhận xét về thơ của ông như thế này: “Cảm xúc phải cực kỳ đẹp mới diễn tả
được sự vật, ngôn từ phải cạn kiệt mà theo đuổi cái mới”.

2.4 Văn học Nam Bắc Triều

Trong thời kì này, lãnh thổ Trung Quốc bị chia cắt hai miền Nam Bắc. Bắc triều kế thừa
Ngũ Hồ thập lục quốc, là triều đại tân hưng Hồ – Hán dung hợp, chính vì vậy liên tục có mâu
thuẫn giữa các dân tộc, chiến tranh không dứt, các giai cấp đối lập, còn Nam triều khá ổn định,
kinh tế tiếp tục phát triển ổn định. Nhân khẩu Trung Nguyên từ thời loạn Hoàng Cân và loạn
Vĩnh Gia đã liên tục dời về phương nam, mang theo sức lao động và kỹ thuật sản xuất, thế nên
khu vực Giang Nam phồn vinh hơn, khiến cho kinh tế Trung Quốc chuyển dịch về phương
nam. Đó là lý do tại sao văn học của Nam triều đạt được nhiều thành tựu hơn so với văn học
Bắc triều.


11

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

2.4.1 Nam triều

Văn học Nam triều là chỉ văn học của 4 triều: Tống, Tề, Lương Trần.

2.4.1.1 Chủ đề văn học

Chủ đề sáng tác văn học lúc này trở nên rất đa dạng, chủ đề phong cảnh, điền viên, du tiên,
cung đình và biên tái đều đã xuất hiện, đặt nền móng cho sự phát triển văn học sau này. Đồng
thời, văn học Nam triều thoát khỏi sự ràng buộc của triết học, đạo đức, phát triển độc lập (tách
ra khỏi lĩnh vực học thuật, có địa vị ngang hàng với Nho học, Huyền học và sử học), tìm tịi lý
luận các vấn đề khác nhau là yếu tố quan trọng cho sự phát triển của văn học thời kỳ này.

Văn học thời kì này chủ yếu đi theo hai xu hướng: lấy cung đình làm trung tâm để sáng
tác, chủ yếu để phục vụ cho mục đích giải trí trong cung đình; hoặc tìm kiếm sự mới lạ, bày tỏ
suy nghĩ, tình cảm và sở thích cá nhân trong cuộc sống đời thường (do yêu cầu phục vụ cho
việc chính trị hóa đã dần yếu đi).

Khuyết điểm cơ bản của văn học Nam triều là tác phẩm ít phản ánh những mâu thuẫn xã
hội và đời sống nhân dân, tâm trạng chính trị của nhà văn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này
là tình hình chính trị hỗn loạn, chế độ mơn phiệt ngăn cản con đường làm quan của các học trò
nghèo, giới quý tộc môn phiệt thống trị lĩnh vực văn học, mà đời sống các tác giả ở tầng lớp
cao hưng thịnh song tư tưởng suy thoái. Văn học quá chú trọng về mặt hình thức thẩm mỹ, nên
sáo rỗng về mặt nội dung.

Thời Lưu Tống (420 – 479): Văn chương phong cảnh với diễn đạt hoa mỹ trở nên phổ biến

và đạt đến một tầm cao nhất định.

Thời Nam Tề (479 – 502): Phong cách thơ Vĩnh Minh ra đời, đưa thơ cổ điển Trung Quốc
tiến một bước lớn trong q trình hồn thiện vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật. Thơ Vĩnh Minh
bắt đề cao nhịp điệu trong thơ, ngôn từ trở nên ngắn gọn và đơn giản hơn, loại bỏ sự cứng nhắc
và khó hiểu của thơ thời Lưu Tống.

Thời Tiêu Lương (502 – 557): Tiếp tục khám phá nghệ thuật thơ Vĩnh Minh, đồng thời
xuất hiện văn học phong cách cung đình. Phong cách cung đình được hình thành trong cung
đình, mơ tả cuộc sống cung đình, mối quan hệ nam nữ và cuộc sống ngơng cuồng, đề cao tính
giải trí. Phong cách này dần nổi lên và thống trị giới thơ ca cho đến thời Trần.

Thời Trần (557 – 589): Tiếp tục phát triển phong cách thơ Vĩnh Minh, đề cao vẻ đẹp hình
thức từ thời Tề, Lương, nhưng ngày càng trở nên cực đoan khiến cho các tác phẩm văn học trở
nên chỉ có hình thức thẩm mỹ và sáo rỗng về mặt nội dung.

2.4.1.2 Thể loại

Thơ

Chủ yếu miêu tả cuộc sống quý tộc, cung đình. So với các thời kì trước, thơ ca thời này có
xu hướng theo đuổi cái đẹp hình thức, ngày càng chú ý đến nhịp điệu trong thơ, do sự phát
triển của Phật giáo và việc dịch kinh Phật đã thúc đẩy sự phát triển của âm vận học, trong quá
trình dịch, người ta phát hiện ra tiếng Hán có bốn thanh điệu, từ đó họ bắt đầu điều chỉnh thanh
luật trong thơ ca. Tuy nhiên, vì quá tập trung vào hình thức nên nội dung dần trở nên sáo rỗng.

12

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2


Văn biền ngẫu

Thời Nam Bắc triều, văn biền ngẫu chiếm giữ một vị trí rất quan trọng trong văn học, lấn
át các loại văn khác như tản văn. Thể loại này quan tâm tới cách luật, sử dụng điển cố. Nội
dung phần nhiều thoát ly sinh hoạt thực tế, biểu đạt một chút phú quý nhàn sầu. Nhìn chung
văn biền ngẫu chỉ chú trọng về hình thức. Nhược điểm lớn nhất của nó là rất gị ép trong diễn
tả tư tưởng, tình cảm. Cũng bởi đây là thời kì theo đuổi tính thẩm mỹ, khám phá vẻ đẹp hình
thức của thơ ca nên thể loại trở nên phổ biến hơn hết.

Tiểu thuyết

Chịu ảnh hưởng của danh sĩ thanh đàm, thúc đẩy sự xuất hiện của tiểu thuyết dật sự, có
thể phân thành “tiểu thuyết chí quái” và “tiểu thuyết chí nhân”.

Lý luận văn học

Thời Nam Bắc Triều là thời kỳ hoàng kim trong lịch sử phê bình văn học Trung Quốc, các
nhà văn nổi tiếng lần lượt cho ra đời những kiệt tác, đề xuất lý luận của họ đều xuất sắc, phê
bình văn học trở thành một thể loại độc lập. Có thể nói, văn học khơng ngừng phát triển và phê
bình văn học đã đánh dấu sự trưởng thành của văn học. Bởi lúc này văn học đã thốt khỏi xiềng
xích của Nho giáo, bắt đầu đi theo xu hướng tìm ra ý nghĩa cho sự tồn tại độc lập của nó. Việc
khám phá các hình thức, thanh luật trong thơ ca đã thúc đẩy sự phát triển lý luận văn học.

2.4.2 Bắc triều

2.4.2.1 Chủ đề văn học

Nếu văn học Nam triều mang thiên hướng hoa lệ tinh tế, thì phong cách Bắc triều mang
thiên hướng hào phóng thơ khống. Các tác phẩm của Bắc triều thiên về chủ nghĩa hiện thực
hơn là lãng mạn, thường miêu tả và phản ánh đời sống hiện thực của nhân dân.


Vì miền Bắc chiến tranh liên miên, tình hình chính trị rối ren khiến cho đời sống nhân dân
bấp bênh. Đồng thời, các dân tộc sống ở đây vốn đến từ phương Bắc, đã quen với cuộc sống
du mục trên thảo nguyên nên tính cách và quan niệm sống cũng cởi mở hơn rất nhiều so với
phương nam. Bên cạnh đó, văn học miền Bắc cịn chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi Nho giáo kinh
điển, do giai cấp thống trị đề cao Nho giáo, thiết lập nghi lễ triều chính theo Nho giáo, nên
phong cách cũng có xu hướng bảo thủ, coi trọng sự đơn giản, trung thực.

Ở phương Bắc, giai cấp thống trị là người từ các dân tộc khác, thiếu kinh nghiệm chính trị,
do vậy đã trọng dụng thế tộc người Hán, dẫn đến việc chọn lọc vay mượn văn hóa hai bên, lâu
dần hình thành nên sự kết hợp giữa các nền văn hóa. Họ ưa thích văn phong của Nam triều,
song vẫn tiếp thu có chọn lọc, họ ủng hộ phái lí luận, bài trừ văn học cung đình sa đọa và phù
phiếm. Vì vậy văn học của Bắc Triều có sự mơ phỏng Nam Triều về mặt hình thức nhưng khác
hồn tồn về mặt nội dung.

Nhìn chung, miền Bắc không phải là mảnh đất màu mỡ để phát triển văn học vì những
người biết chữ đều đã xuống phía Nam, chỉ cịn lại những học giả nho giáo ở phía Bắc.

2.4.2.2 Thể loại

13

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

Văn xuôi: Đơn giản và tập trung vào lợi ích chính trị bởi các triều đại phương Bắc cai trị
bằng Nho Giáo địi hỏi văn chương phải có tính thực tiễn và lợi ích chính trị. Đời sống được
phản ánh trong văn xi Bắc triều ln có tính tích cực, mạnh dạn và lành mạnh.

Văn biền ngẫu: Có học hỏi kỹ năng sáng tác văn biền ngẫu của Nam Triều, tuy còn non
nớt nhưng đã tạo nên nét độc đáo của văn xuôi Bắc Triều.


3. Tiểu kết

Văn học Nam triều phát triển khá mạnh, mà văn học Bắc triều lại khơng có q nhiều
thành tựu nổi bật, tương đối nghèo nàn, có thể nói là tụt hậu rất nhiều so với văn học Nam triều.

Văn học Nam triều chủ yếu là thơ và văn biền ngẫu, tính trữ tình cao, hình thức hoa mỹ,
tao nhã, trong khi đó văn học Bắc triều tuy có học tập phong cách sáng tác của Nam triều,
nhưng lại chú trọng giá trị thực tiễn trong các tác phẩm hơn, nổi bật nhất là thể loại văn xi
với lối viết phóng khống, mạnh mẽ, từ ngữ súc tích, lối viết đơn giản, ngắn gọn.

14

Văn học Trung Quốc-03 Nhóm 2

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung Quốc, NXB Trẻ, 1997
2. TS. Trần Lê Hoa Tranh, Giáo trình Lịch sử Văn học Trung Quốc, Khoa Ngữ văn và Báo chí,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, 2001
3. TS. Nguyễn Đình Hảo, TS. Nguyễn Thanh Châu, Giáo trình Văn học Trung Quốc, Trường
Đại học Đà Lạt, 2005
4. Phùng Hồi Ngọc, Giáo trình Văn học Trung Quốc, Khoa Sư phạm, Đại học An Giang, 2011
5. Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ, Lịch sử Văn học Trung Quốc tập 1,2, NXB Giáo dục, 2007
6. 罗世琴,试论魏晋南北朝时期音乐与文学关系的变迁,中国政府大学学报,2011

LINK THAM KHẢO
1. />2. />3. />4. />5. />6. />7. />8. />9. />
15



×