Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tích Lũy Tư Bản Chủ Nghĩa Chủ Nghĩa.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.22 KB, 12 trang )

lOMoARcPSD|38545333

HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
PHÂN VIỆN MIỀN NAM

TRẦN THỊ THANH TRÂM
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ MIỀN ĐÔNG
CHỦ ĐỀ: TÍCH LŨY TƯ BẢN CHỦ NGHĨA CHỦ NGHĨA

BÀI THU HOẠCH: KẾT THÚC MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

KHĨA 65C15 KHỐI CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG (NĂM HỌC 2020 -
2021)

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 01/2022

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG TÍCH LŨY TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

1.1. Bản chất của tích lũy tư bản
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tư bản khơng những được bảo tồn mà

cịn khơng ngừng lớn lên, thể hiện thơng qua tích lũy tư bản trong quá trình tái sản
xuất mở rộng. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng phải biến một bộ phận giá trị
thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm và tư bản khả biến phụ thêm, do đó tích
lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là
giá trị thặng dư.



Như vậy, bản chất của tích lũy tư bản là q trình tái sản xuất tư bản mở
rộng khơng ngừng, thơng qua khơng ngừng tư bản hóa giá trị thặng dư.

Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa khơng những trở
thành thống trị, mà cịn khơng ngừng mở rộng sự thống trị đó.
1.2. Giá trị thặng dư - nguồn gốc của tích luỹ tư bản

Tái sản xuất là tất yếu khách quan của xã hội loài người. Tái sản xuất có hai
hình thức chủ yếu là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

Dưới chủ nghĩa tư bản, muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải sử dụng
một phần giá trị thặng dư để tăng thêm tư bản ứng trước.

Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy
tư bản.

Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy
tư bản

Như vậy nguồn gốc của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư – là lao
động của công nhân bị nhà tư bản chiếm không. Nói cách khác, tồn bộ của cải
của giai cấp tư sản đều do lao động của giai cấp công nhân tạo ra.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ tư bản

Quy mơ tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và
tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư
bản. Từ đó, các nhân tố quyết định quy mơ tích lũy bao gồm:

Thứ nhất, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư bằng cách cắt xén tiền công,

tăng thời gian sử dụng tư liệu lao động trong ngày thông qua các biện pháp
như kéo dài ngày lao động, tăng ca, tăng kíp. Việc nâng cao tỷ suất giá trị
thặng dư sẽ làm tăng khối lượng giá trị thặng dư nói chung, từ đó làm tăng
phần giá trị thặng dư dành cho tích lũy.

Thứ hai, nâng cao sức sản xuất của lao động. Việc nâng cao sức sản xuất
của lao động dẫn tới làm giảm giá trị hàng hóa, một mặt giúp cho nhà tư bản
có thể dành thêm giá trị thặng dư cho tích lũy, mặt khác giúp cho nhà tư bản
có thể mở rộng quy mơ sản xuất với lượng tư bản đầu tư như trước.

Thứ ba, chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu
dùng. Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà tồn bộ
quy mơ hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm;
còn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển
vào sản phẩm dưới dạng khấu hao. Trong quá trình hoạt động của tư bản sử
dụng, lượng giá trị khấu hao ngày càng tăng và có thể sử dụng để tái đầu tư
mở rộng sản xuất khi chưa cần phải tái tạo lại toàn bộ tư bản sử dụng.

Thứ tư, đại lượng tư bản ứng trước. Đại lượng tư bản ứng trước càng
lớn thì giá trị thặng dư càng nhiều, khả năng tích lũy để tái sản xuất mở rộng
theo chiều rộng và theo chiều sâu càng lớn.
1.4. Quy luật chung của tích luỹ tư bản chủ nghĩa

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

Q trình tích lũy tư bản dẫn đến một loạt các hậu quả, thể hiện các
quy luật phổ biến của tích lũy tư bản, bao gồm:


Thứ nhất, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng. Để tiến hành sản
xuất, nhà tư bản phải ứng ra những lượng tư bản bất biến và khả biến theo
những tỷ lệ nhất định, thể hiện cấu tạo giá trị của tư bản. Trong quá trình vận
động của tư bản, cấu tạo giá trị có thể thay đổi dưới tác động của sự thay đổi
của giá cả các yếu tố sản xuất, hoặc do sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư
bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản được quyết định
bởi cấu tạo kỹ thuật của tư bản và phản ánh những sự thay đổi của cấu tạo kỹ
thuật của tư bản. Cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cấu tạo hữu cơ
của tư bản có xu hướng không ngừng tăng lên cấu tạo hữu cơ được ký hiệu là
c/v.

Thứ hai, tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng. Tích tụ tư bản là
việc tăng quy mơ tư bản cá biệt bằng tích lũy của từng nhà tư bản riêng rẽ, nó
là kết quả tất yếu của tích lũy. Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của việc mở
rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối
lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ
nghĩa lại tạo khả năng thực tế cho tích lũy tư bản.

Sự phát triển của tích tụ tư bản thúc đẩy cạnh tranh, dẫn tới xuất hiện
sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành tư bản cá biệt lớn. Đó là tập trung tư
bản. Tập trung tư bản có thể diễn ra bằng con đường tự nguyện hay cưỡng
bức. Trong q trình tích lũy tư bản, tích tụ và tập trung tư bản ln thúc đẩy
lẫn nhau, có vai trò to lớn trong việc chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn
tư bản chủ nghĩa.

Thứ ba, tích lũy tư bản dẫn tới q trình bần cùng hóa giai cấp cơng
nhân làm thuê. Cùng với sự gia tăng quy mô sản xuất và cấu tạo hữu cơ của
tư bản, tư bản khả biến có xu hướng giảm tương đối so với tư bản bất biến,
dẫn tới nguy cơ thừa nhân khẩu dưới các hình thức nhân khẩu thừa lưu động,
nhân khẩu thừa tiềm tàng và nhân khẩu thừa ngưng trệ. Do đó, q trình tích

lũy tư bản có tính hai mặt, một mặt thể hiện sự tích lũy sự giàu sang về phía
giai cấp tư sản, và mặt khác tích lũy sự bần cùng về phía giai cấp cơng nhân
làm th.

Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái
là bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối
là cùng với đà tăng trưởng lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho
giai cấp cơng nhân làm th tuy có tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm tương đối so
với phần dành cho giai cấp tư sản. Bần cùng hóa tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm
tuyệt đối về mức sống của giai cấp cơng nhân làm th. Bần cùng hóa tuyệt
đối thường xuất hiện đối với bộ phận giai cấp cơng nhân làm th đang thất
nghiệp và đối với tồn bộ giai cấp công nhân làm thuê trong các điều kiện
kinh tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.

CHƯƠNG 2: VAI TRỊ CỦA TÍCH LUỸ TƯ BẢN TRONG Q TRÌNH
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TBCN
2.1 Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản

2.1.1Tích luỹ ban đầu, điểm xuất phát của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa

2.1.1.1 Hai điều kiện ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

Qúa trình phát triển của con người từ khi sinh ra cho tới nay gắn liền với quá
trình phát triển và thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất xã hội.Phương
thức sản xuất đầu tiên là cộng sản nguyên thuỷ, phương thức sản xuất này được

thay thế bởi phương thức sản xuất nô lệ tiếp đó là phuơng thức sản xuất phonng
kiến. Và từ giữa thế kỉ XV cho tới giữa thế kỉ XVII là thời kì bắt đầu tan rã của chế
độ phong kiến và thay thế bởi chế độ phong kiến là chế độ tư bản chủ nghĩa bắt đầu
ra đời. Chủ nghĩa tư bản ra đời trong lòng chế độ phong kiến.

Hai điều kiện cần và đủ để hình thành chủ nghĩa tư bản
+Tập trung trong tay một số ít người số tiền của lớn để lập ra các xí nghiệp

TBCN
+Có một lớp người hoàn toàn tự do về thân thể (quyền quyết định thân thể

mình) và đã bị mất hết tư liệu sản xuất.
2.1.1.1 Tích l ngun thuỷ tư bản,địn bẩy đẩy nhanh sư ra đời của

hai điều kiện
Gỉa định rằng trước tích luỹ tư bản chủ nghĩa đã có một sự tích luỹ "ban

đầu" -một tích luỹ khơng phải là kết quả của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, mà là xuất phát điểm của nó. Trong khoa kinh tế chính trị, sự tích lũy ban
đầu này đóng một vai trò cũng gần giống như vai trò của tội tổ tông trong thần học.
Và từ thời cái tội tổ tông đó đã bắt đầu sự nghèo khổ của số đơng người, là những
người dù có lao động hết sức cũng chẳng có gì để bán trừ bản thân họ ;và bắt đầu
sự giàu có của một số ít, dù đã thôi lao động từ lâu mà vẫn cứ giàu mãi lên. Nhưng
khi đã đụng đến vấn đề quyền sở hữu thì người ta có nghĩa vụ thiêng liêng là phải
theo đúng quan điểm của sách vở vỡ lòng cho tẻ con, là quan điểm duy nhất đúng
với mọi lứa tuổi mọi trình độ phát triển. Như mọi người đều biết, trong lịch sử hiện
thực thì sự xâm chiếm, nơ dịch, cướp bóc, tóm lại là bạo lực đã đóng một vai trò
lớn.

Tiền và hàng hoá, cũng giống hệt như tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt,

ngay từ đầu không phải là tư bản.Chúng cần được chuyển hoá thành tư bản. Nhưng
sự chuyển hố này chỉ có thể diễn ra trong những hồn cảnh nhất định thơi, những
hồn cảnh đó quy lại là :"hai loại hàng hoá rất khác nhau phải gặp nhau và tiếp
xúc với nhau - một bên là người có tiền, có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt,cần
mua sức lao động của người khác để làm tăng thêm giá trị đã chiếm được; bên kia
là những người lao động tự do,những người bán sức lao động của bản thân mình,
do đó là những người bán lao động ". Với việc chia thị trường hàng hoá thành hai
cực như vậy, thì những điều kiện cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng
được tạo ra."Quan hệ tư bản chủ nghĩa giả định phải tách rời người lao động với
quyền sở hữu những điều kiện thực hiện lao động" Qúa trình một mặt thì biến tư
liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt của xã hội thành tư bản, và mặt khác, biến những
người sản xuất trực tiếp thành những người lao động làm thuê. Do đó, cái gọi là
tích luỹ ban đầu chẳng qua chỉ là một quá trình lịch sử tách rời người sản xuất ra
khỏi tư liệu sản xuất(Nó là ban đầu vì nó là tiền sử của tư bản và của phương thức
sản xuất phù hợp với tư bản ). Cái đã đánh dấu thời đại trong lịch sử của tích luỹ
ban đầu là những sự đảo lộn làm đòn bẩy cho giai cấp các nhà tư bản đang hình
thành. Cơ sở của tồn bộ q trình này là sự tước đoạt ruộng đất của những người
sản xuất nông nghiệp, của nông dân .

Ở Anh nó mang hình thức cổ điện, vì vậy nên chúng ta lấy nước Anh làm ví
dụ
2.1.2 Nội dung, đặc điểm của thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ(Điển hình ở Anh)

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

2.1.2.1 Sự tước đoạt ruộng đất của dân cư ở nông thôn
Màn mở đầu của sự đảo lộn đặt nền tảng cho phương thức tư bản chủ nghĩa
đã diễn ra trong ba mươi năm cuối thế kỉ XV và mấy mươi năm đầu thế kỉ XVI.

Biến đồng ruộng thành bãi chăn thả đã trở thành khẩu hiệu của các chúa
phong kiến. Nhà ở của nông dân và những chiếc nhà nhỏ của công nhân bị phá huỷ
đi bằng bạo lực noặc cho đổ nát để biến thành bãi chăn thả, ở đấy chỉ còn nhà của
chúa đất mà thơi. Trong thời kì này, cơ quan lập pháp cũng tìm cách duy trìmột
mức tối thiểu 4 a-cơ đất đai cho mỗi căn nhà nhỏ của người công nhân công nghiệp
làm thuê và cấm không nhận cho ngưoừi khác đến ở thuê trong nhà mình.
Trong thế kỉ XVI cuộc cải cách tôn giáo và sự cướp bóc hàng loạt những tài
sản của giáo hội tiếp theo sau nó đã đem lại một sự thúc đẩy ghê gớm cho quá trình
tước đoạt quần chúng nhân dân bằng bạo lực. Việc xoá bỏ các nhà tu kín đã đẩy các
người trong các nhà tu đó vào hàng ngũ vơ sản.
Vấn đề "rào ruộng đất của công xã ", việc rào đất của công xã rất phổ biến
và phần lớn những lãnh địa mới do việc rào đất mà có, dã bién thành đồng cỏ.
Khơng phải chỉ những đất bỏ hoang, mà lắm khi cả những đất đai đã trồng trọt
cũng đều bị địa chủ lân cận sáp nhậpdưới cớ rào đất.
Tóm lại, cướp đoạt tài sản của nhà thờ, nhượng đất đai nhà nước một cách
gian lận, ăn cắp đất đai của công xã, biến sở hữu phong kiến và sở hữu thị tộc thành
sở hữu tư nhân hiện đại bằng cách chiếm đoạt và khủng bố tàn nhẫn-đó là bấy
nhiêu phương pháp thơ mộng của tích luỹ banđầu-Chúng đã chinh phục đất đai cho
nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, đem ruộng đất gắn vào tư bản và tạo ra một
luồng cần thiết những người vô sản bị đặt ra ngồi vịng pháp luật để cung cấp cho
công nghiệp thành thị.

2.1.2.2 Phương pháp đẫm máu từ cuối thế kỉ XV nhằm chống những
người bị tước đoạt. Những đạo luật nhằm hạ thấp tiền công.

Pháp chế về lao động làm thuê- nhay từ đầu đã nhằm vào sự bóc lột cơng
nhân và trong q trình phát triển của nó ln luôn thù ddịch với công nhân. Pháp
luật đã quy định một biểu tiền công cho thành thị và nông thôn, cho cơng khốn và
cơng ngày. Cơng nhân nơng thơn phải làm thuê năm, công nhân thành thị làm thuê
"trên thị trường công khai". Cấm không được trả công cao hơn mức quy định, trái

lệnh thì bị phạt tù, những người lĩnh tiền công cao hơn lại bị phạt nặng hơn người
trả cơng.Ví dụ, theo điều 18 và 19 của quy chế Ê-li-da-bet về người học việc thì
người trả tiền cơng cao hơn bị phạt tù 10 ngày, còn người nhận tiền cơng đó bị phạt
21 ngày.Quy chế năm 1360 lại tăng mức trừng phạt hơn nữa và thậm chí cịn cho
phép chủ được dùng quyền cưỡng bức thân thể để bắt làm việc theo biểu tiền công
do pháp luật quy định.Các tổ chức liên kết công nhân bị coi là tội nặng kể từ thế kỉ
XIV cho đến tận năm 1825 .Những đạo luật nhằm làm giảm tiền công vẫn tiếp tục
có hiệu lực đồng thời với việc xẻo tai và dùng sắt nung đóng dấu vào "những người
mà khơng ai muốn thuê cả".

Trong suốt hơn bốn trăm năm, người ta sản xuất ranhững đạo luật chỉ quy
định mức cao nhất của tiền công tronh bất cứ trường hợp nào cũng không được
vượt quá. Những diều khoản trong các quy chế công nhân nói về giao kèo giữa thợ
và chủ, về thời gian xoá bỏ giao kèo... quy định rằng người chủ bội ước chỉ bị truy
tố về dân sự, còn người thợ bội ước lại bị truy tố về hình sự.

2.1.2.3 Sự ra đời của người Phécmie tư bản chủ nghĩa.
Ta hãy tự hỏi: vậy thì lúc ban đầu do đâu mà có các nhà tư bản.

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

Sự hình thành những người phecmie, thì có thể nói rằng chúng ta có thể lấy
tay sờ thấy được, vì nó là một q trình kéo dài trong nhiều thế kỉ.Người Phecmie
được hình thành từ rất xa xưa. Cuộc cách mạng công nghiệp trong khoảng 30 năm
cuối thế kỉ XV và kéo dài trong gần suốt cả thế kỉ XVI đã làm cho người Phecmie
giàu lên một cách nhanh chóng. Việc chiếm đoạt những bãi chăn nuôi của công xã
cho phép người Phecmie tăng đàn súc vật của mình lên rất nhiều mà hầu như khơng
phải tốn kém gì cả.Sự giảm giá khơng ngừng của các loại kim loại quý, và do đó

của tiền nữa, đã đem lại những quả bằng vàng cho người Phecmie. Sự lên giá
khơng ngừng của lúa mì, len, thịt, tóm lại là tất cả sản phẩm nông nghiệp, làm tăng
thêm tư bản bằng tiền của người Phecmie mà anh ta chẳng phải mất cơng sức gì,
cịn địa tơ anh ta phải trả lại được kí kết theo giá trị đồng tiền cũ. Như vậy là cùng
một lúc người Phecmie đã làm cả giàu trên lưng của những người công nhân làm
thuê cho họ, lẫn trên lưng người địa chủ quý tộc. Vì vậy khơng có gì đáng lấy làm
lạ là cuối thế kỉ XVI ở Anh dã hình thành nên một giai cấp"những người Phecmie
tư bản chủ nghĩa" giàu có đốivới thời đó.

2.1.2.4 ảnh hưởng ngược trở lại của cuộc cách mạng nơng nghiệp đối
với cơng nghiệp, sự hình thành thị trường trong nước cho tư bản công nghiệp.

Việc tước đoạt và xua đuổi dân cư nông thôn ra khỏi ruộng đất không
ngừng hết đợt này đến đợt khác, đã cung cấp cho công nghiệp ở thành thị ngày
càng nhiều đám người vơ sản hồn tồn đứng ngồi quan hệ phường hội.Tình hình
dân dư nơng thơn đọc lập tự mình cày cấy trở lên thưa thớt, thì khơng phải chỉ
tương ứng với sự đông đặc thêm của giai cấp vô sản cơng nghiệp. Mặc dù số người
cày cấy ruộng đất có giảm đi, ruộng đất bây giờ vẫn mang một số sản phẩm như
trước hay nhiều hơn trước, vì cuộc cách mạng về quan hệ sở hữu ruộng đất đã dẫn
theo sự cải tiến các phương pháp canh tác, sự hiệp tác rộng lớn hơn, sự tập trung
các tư liệu sản xuất...

Việc tước đoạt và đuổi một bộ phận dân cư nông thôn khơng những giải
phóng cơng nhân, giải phóng tư liệu sinh hoạt và tư liệu lao động của họ cho tư bản
cơng nghiệp, mà cịn tạo ra thị trường trong nước nữa. Thật vậy, chính những sự
kiện biến những người tiểu nông thành công nhân làm thuê, và biến tư liệu sinh
hoạt và tư liệu lao động của họ thành yếu tố vật thể của tư bản , thì cũng đồng thời
tạo ra tạo ra thị trường bên trong cho tư bản. Vậy là, đi đôi với sự tước đoạt những
người nông dân độc lập trước đây và với việc tách họ ra khỏi cá tư liệu sản xuất, thì
cũng diễn ra sự tiêu diệt nghề phụ nông thôn và quá trình tách rời cơng trường thủ

cơng với nghề nơng. Và chỉ có sự tiêu diệt nghề phụ ở nơng thơn mới có thể làm
cho thị trường bên trong của một nước có được cái quy mơ và sự ổn định cần thiết
cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

2.1.2.5 Sự ra đời của nhà tư bản công nghiệp( hệ thống thuộc địa, chế
độ cơng trái, hệ thống thuế khố..)

Sự ra đời của nhà tư bản cơng nghiệp khơng có tính chất dần dần từng bước
như sự ra đời của người Phecmie. Một số ít thợ cả nhỏ phường hội thủ cơng, một số
đông hơn những thợ thủ công nhỏ độc lập, hay thậm chí cả những cơng nhân làm
th nữa, cũng đã trở thành nhà tư bản nhỏ, rồi dần dần nhờ mở rộng sự bóc lột lao
động làm thuê và đẩy mạnh tích luỹ tư bản một cách tương xứng mà trở thành
những nhà tư bản thực thụ.Thời thơ ấu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thường
hay có tình hình giống như thời thơ ấu của thành thị thời trung cổ, tức là cái thời
mà vấn đề ai trong số những nông nô chạy trốn sẽ là ông chủ, ai sẽ là đầy tớ, phần
lớn những quyết định tuỳ theo ai là kẻ đã bỏ trốn sớm hơn. Nhưng bước di chậm

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

như rùa của phương pháp này đã không làm sao đáp ứng được nhu cầu buôn bán
của thị trường thế giới mới, do những phát kiến lớn cuối thế kỷ XV tạo ra.

Chế độ phong kiến ở nông thôn, chế độ phường hội ở thành thị đã cản trở
việc tư-tiền tệ-được hình thành. Những trở ngại này bị xoá bỏ cùng với việc giải tán
những đoàn tuỳ tùng phong kiến, cùng với việc tước đoạt dân cư nông thôn và đuổi
họ đi từng phần một.

Việc tìm thấy những vùng mỏ vàng và mỏ bạc ở châu Mỹ, việc tuyệt diệt

người bản xứ, bắt họ làm nô lệ và chôn vùi họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu đi
chinh phục và cướp bóc mièn Đơng Ân , việc biến châu Phi thành khu cấm để săn
bắt buôn bán người da đen, -đó là buổi bình minh của thời đại sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Những quá trình thơ mộng ấy là những yếu tố chủ yếu của tích luỹ ban đầu.
Tiếp ngay sau đó là cuộc chiến tranh thương mại của các nước châu Âu mà chiến
trường là trái đất.

Chế độ thuộc địa, quốc trái, gánh nặng thuế khoá, thuế quan bảo hộ, chiến
tranh thương mại..., tất cả những mầm non ấy của thời kì cơng trường thủ cơng
chính cống đã phát triển lên một cách ghê gớm trong thời kì thơ ấu của nền đại
cơng nghiệp. Sự ra đời của đại công nghiệp đã được đánh dấu bằng sự ăn cướp
hàng loạt trẻ em một cách tàn bạo. Các cơng xưởng mộ cơng nhân cho mình cũng
dùng bạo lực như hải quân của vua mộ lính thuỷ vậy.
2.2 Tích lũy tư bản trong thời kỳ CNTB hiện đại.
2.2.1 Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Tích lũy nguyên thuỷ là xuất phát điểm của chủ nghĩa tư bản thì với chủ
nghĩa tư bản hiện đại nó lại là điều kiện sống còn, điều kiện thúc đẩy sự phát triển
của chế độ này.Tích lũy tư bản là quy luật tất yếu của chủ nghĩa tư bản, nó tồn tại
song song với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản là phương thức sản
xuất xã hội mà ở đó tồn tại những người cịn được gọi là các nhà tư bản khơng bao
giờ hài lịng với số tư bản họ có. Mục tiêu của các nhà tư bản là ln ln tối đa
hố lợi nhuận và họ làm mọi cách để đạt được mục tiêu này.Tích lũy là con đường
tất yếu mà chủ nghĩa tư bản đi qua là vì lẽ này. Khi nhà tư bản mua tư liệu sản xuất,
thuê công nhân để tiến hành sản xuất họ thu được một khối lượng giá trị thăng dư,
nhưng nhà tư bản khơng bao giờ hài lịng với giá trị thặng dư này. Họ sẽ tìm cách
tăng nó lên băng cách biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Cứ thế
quá trình này diễn ra liên tục và quy mô của nhà tư bản không ngừng mở rộng. Quy
mô mở rộng nhà tư bản sẽ mua thêm tư liệu sản xuất và thuê thêm lao động. Song
nếu chỉ đơn thuần tăng giá trị thặng dư như vậy thì nhà tư bản khơng cịn là nhà tư

bản nữa. Họ sẽ tìm cách hạn chế bộ phận khả biến xuống tương đối so với bộ phận
bất biến. Và để làm điều đó họ sẽ dùng số tư bản mà họ tích lũy được( từ giá trị của
người khác làm ra) để đầu tư cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất mà quy mô
mở rộng của tư bản là điều kiện tạo ra vô cùng thuận lợi. Và cứ thế như một chuỗi
logic sản xuất ra giá trị thặng dư, tích luỹ tư bản để tăng quy mô, để tăng quy mô
dẫn tới sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất và lại tiếp tục phục vụ
cho việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Xã hội tư bản không ngừng phồn thịnh hơn.
Qúa trình này lại khiến cho lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát triển đúng
theo xu hướng lịch sử tất yếu của nó.
2.2.2 Xã hội hố nền sản xuất ngày càng cao.

Như đã trình bày ở trên tích luỹ tư bản tất yếu dẫn đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất với trình độ cao lại dẫn tới q trình xã hội hố nền sản xuất.

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

Thật vậy lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới mâu thuẫn, sản phẩm sản xuất
ra thì ngày càng tập trung ít vào một số ít người trong khi đó sản phẩm đó lại ngày
càng được mang tính xã hội cao.Lực lượng sản xuất phát triển tất yếu dẫn tới sự
phân công lao động xã hội ngày càng tách biệt và rõ ràng(phân công cả về mặt xã
hội nói chung hay trong cơng trường sản xuất nói riêng). Lúc này sản phẩm sản
xuất ra khơng chỉ là sản phẩm cá biệt của bất kì cá nhân nào nữa mà nó địi hoỉ sự
kết hợp của nhiều người thậm chí của cả xã hội. Sản phẩm nó đã mang tính xã hội
hay nền sản xuất đã ngày càng được xã hội hố. Chính điều này gay lên mâu thuẫn
trong lòng của chủ nghĩa tư bản, dẫn tới xu hướng lịch sử của phương thức sản xuất
này.
2.2.3 Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản.


Khi tích luỹ nguyên thuỷ đã tạo ra những điều kiện để ra đời CNTB thì việc
tiếp tục tước đoạt những kẻ tư hữu, sẽ mang một hình thức mới. Bây giờ kẻ cần
phải bị tước đoạt không phải là người lao động kinh doanh độc lập nữa mà là nhà
tư bản đang bóc lột số đơng cơng nhân.

Sự tước đoạt đó được thực hiện qua sự tác động của quy luật nội tại của bản
thân nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng cách tập trung tư bản. Một số nhà tư bản
đánh quỵ nhiều nhà tư bản. Song song với sự tập trung đó, hay là việc một số ít nhà
tư bản tước đoạt số đơng nhà tư bản đó, thì đồng thời hình thức hiệp tác của quá
trình lao động với quy mô ngày càng lớn, việc áp dụng khoa học vào kĩ thuật một
cách có ý thức, việc khai thác đất đai một cách có kế hoạch, việc biến tư liệu lao
động thành những tư liệu lao động chỉ sử dụng được một cách tập thể, việc tiết
kiệm tất cả các tư liệu sán xuất bằng cách sử dụng chúng với tư cách là những tư
liệu sản xuất của lao động kết hợp, việc lôi cuốn tất cả các dân tộc vào mạng lưới
thị trường thế giới, và đi đôi với cái đó là tính chất quốc tế của chế độ tư bản chủ
nghĩa, cũng phát triển. Con số những tên trùm tư bản tiếm đoạt và nắm độc quyền
tất cả những cái lợi của q trình chuyển hố đó ngày càng giảm đi khơng ngừng,
thì nạn nghèo khổ, áp bức, nơ dịch, thối hố, bóc lột càng tăng thêm, những sự
căm phẫn của giai cấp công nhân một giai cấp đang ngày càng không ngừng đông
đảo hơn, ngày càng được cơ cấu của bản thân quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
huấn luyện, đoàn kết và tổ chức lại cũng tăng lên. Sự tập chung tư liệu sản xuất và
xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng khơng cịn thích hợp với cái vỏ tư
bản chủ nghĩa của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra. Giờ tận số của chế độ tư bản
chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt.

Phương thức chiếm hữu tư bản chủ nghĩa do phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đẻ ra, và do đó cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa, là sự phủ định đầu
tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một
q trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi

phục lại chế độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những
thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hợp tác và sự chiếm hữu công
cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra.

Dĩ nhiên, việc biến chế độ tư hữu phân tán dựa trên cơ sở lao động của bản
thân các cá nhân thành chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là một quá trình lâu dài,
gian khổ và đau đớn hơn nhiều so với việc biến chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
thực tế đã dựa trên một quá trình sản xuất xã hội, thành chế độ sở hữu xã hội. ở kia
là một số ít kẻ tiếm đoạt đi tước đoạt quần chúng nhân dân, cịn ở đây thì quần
chúng nhân dân đi tước đoạt một số ít những kẻ tiếm đoạt.

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

CHƯƠNG III: VẬN DỤNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUY MƠ
TÍCH LŨY CỦA CÁC DOANH NGHIÊP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY

Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế,
nhất là hơn 20 năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá cao, sản xuất phát
triển, có tích luỹ từ nội bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để giữ được tốc
độ tăng trưởng cao trong những năm tới sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc tích lũy,
huy động vốn cho nền kinh tế. Nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng Việt Nam muốn
phát triển đạt tốc độ theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động tích luỹ trong
nước, tăng cường nó có hiệu quả với vốn nước ngồi và đầu tư phải có hiệu quả
cao để hệ số ICOR chỉ ở mức 2,5 và mức tăng trưởng phải ít nhất là trên 8% một
năm, như vậy thì thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam có thể tăng gấp 45
lần trong vịng một thế hệ. Việt Nam có thể lựa chọn các tình huống tăng trưởng
tuỳ theo mức tích luỹ trong nước và mức đầu tư trên GDP cũng như hiệu suất sử

dụng vốn. Việt Nam muốn đẩy nhanh tốc độ CNH - HĐH nền kinh tế cần huy động
tối đa khơng chỉ nguồn vốn tiền mặt cịn nằm rải rác trong dân cư mà còn cần phải
huy động các nguồn tài lực, những kinh nghiệm quản lý, và tất cả các quan hệ bang
giao cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế. Chúng ta sẽ xem
xét thực trạng và giải pháp tích lũy vốn ở Việt nam hiện nay.
1. Tại sao phải tích lũy vốn

Trong đường lối CNH, HĐH đất nước do Đại hội VIII của Đảng đề ra, vấn
đề tích luỹ vốn để tiến hành CNH, HĐH có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương
pháp, nhận thức chỉ đạo thực tiễn. Ai cũng biết rằng để CNH, HĐH cần phải có
vốn. Hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát
rất thấp, trong khi đó tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa lại phải cần nhiều
vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy đất nước và khu vực đã thoát khỏi
khủng hoảng, nhưng nước ta vẫn là một nước nghèo, chậm phát triển thì vấn đề tích
lũy vốn là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa tiên quyết đối với tồn bộ
q trình xây dựng, tại đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã khẳng định: “luôn chủ
trương tự lực cánh sinh xây dựng, phát triển kinh tế, cơng nghiệp tích lũy vốn từ
nội bộ kinh tế là chủ yếu”. Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam muốn
phát triển và đạt tốc độ theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động và tích lũy
vốn trong nước, tăng cường có hiệu quả với nguồn nước ngồi và đầu tư có hiệu
quả cao. Họ đã tính tốn rằng để tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm
khoảng 8 - 10% thì tổng đầu tư trong nước của Việt Nam phải đạt từ 20 - 35%, từ
nay đến 2020 để đạt được sự tăng trưởng GDP với tố độ cao như vậy đòi hỏi phải
đẩy nhanh hơn nữa q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng đất
nước ta đang đứng trước một bài tốn vơ cùng nan giải đó là tình trạng thiếu vốn về
mọi mặt (vốn lao động, vốn tín dụng, vốn đầu tư phát triển) cần phải giải đáp của
nền công nghiệp: muốn phát huy tối đa nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo
bồi dưỡng nhân tài để phát huy tối đa cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa
thì phải đầu tư cho GDP đẩy nhanh ứng dụng khoa họ công nghệ vào sản xuất cũng
như xây dựng cơ sở hạ tầng không thể thiếu vai trò của vốn.


Mặt khác chúng ta đang tiến tới hiệp định GEPT/AFTA (ASEAN) và tham
gia vào khu vực tự do hoá thương mại Châu Á TBD (APEC) để đứng vững được
chúng ta phải có sức cạnh tranh trên mọi thị trường trong và ngoài nước. Theo
Marx “sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản, nếu muốn duy trì tư bản của mình thì

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

phải làm cho tư bản ngày càng tăng lên mãi và hẳn không thể nào tiếp tục làm cho
tư bản đó ngày một tăng lên đượcnếu khơng có một sự tích lũy ngày càng nhiều
thêm”.
2. Thực trạng vấn đề tích lũy vốn ở Việt Nam

Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì q trình
tích lũy vốn cịn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh
tế dẫn đến việc tổ chức doanh nghiệp khơng thể phát huy hết khả năng của mình,
nhiệm vụ tích tụ và tập trung vốn khơng đạt được hiệu quả. Từ khi chuyển đổi nền
kinh tế, đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thu nhập quốc dân tăng lên…
tuy nhiên nó vẫn cịn q nhỏ bé so với nền kinh tế thế giới. Một trong những
nguyên nhân chính là thực trạng tích lũy vốn của ta chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển, quy mô vốn của các doanh nghiệp thấp.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày 01/01/2004, cả nước có
72.012 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558 tỷđồng (nếu
quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy mơ vốn của các doanh nghiệp ở
Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế
giới). Trong đó doanh nghiệp Nhà nước chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh nghiệp
cả nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,55%, doanh nghiệp có vốn đầu
tưnước ngồi chiếm 21,44% tổng vốn các doanh nghiệp cả nước. Xét riêng đối với

mỗi doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ.

Thực tế cho thấy tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm và
đầu tư thấp, nhiều hộ gia đình và khơng ít doanh nghiệp cịn đầu tư chưa hiệu quả,
nguồn vốn khơng được luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của nhà nước
tăng lên nhưng cịn dàn trải, lãng phí, thị trường vốn, tiền tệ chậm phát triển, lãi
suất tín dụng chưa phù hợp với việc đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn, vì
thế cịn hạn chế đầu tư phát triển. Việc quản lý sử dụng vốn cịn phân tán, khơng
tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng như nhân tài vật lực để giải quyết những cơng
trình thiết yếu của nền kinh tế. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng của thị trường
chứng khốn cho thấy đây là một kênh huy động vốn thật sự hấp dẫn và rất đáng
kể.
3. Các giải pháp thúc đẩy quá trình tích lũy ở Việt Nam
3.1.Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng

Vì mục tiêu của xã hội là không ngừng tái sản xuất mở rộng, tăng thêm sản
phẩm xã hội, nâng cao mức sống của người dân mà chúng ta phải xác định cho
được quan hệ giữa quỹ tích lũy và tiêu dùng. Tương quan giữa tích lũy và tiêu dùng
được coi là tối ưu khi sử dụng được các tài sản hiện có, thực hiện được mức tích
lũy có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao ổn định mà cuối cùng vẫn
đảm bảo tăng tiêu dùng. Việc phân chia này tùy thuộc vào nhu cầu nền kinh tế ở
từng thời kỳ nhất định. Đồng thời phải khuyến khích mọi người khơng ngừng tiết
kiêm, tích lũy.
3.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn

Để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, trước hết chúng ta phải xác định rõ
từng đối tượng được cấp vốn, từ đó phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý cho các
ngành nhằm tạo ra hiệu quả sử dụng vốn cao hơn.

Đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ khơng nên cấp vốn tồn bộ

mà nên tiến hành cổ phần hố doanh nghiệp, nhờ vậy doanh nghiệp sẽ có trách
nhiệm hơn với đồng vốn của mình, đồng thời chính nhờ có cổ phần hoá mà tạo điều

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

kiện cho các chủ doanh nghiệp phát huy mọi năng lực cũng như khả năng quản lý
của họ từ đó sẽ nâng cao rất nhiều hiệu quả sử dụng vốn.

Việc đồng vốn cóđược sử dụng hiệu quả hay không một phần lớn phụ thuộc
vào yếu tố con người. Vì thế cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ
năng lực và trách nhiệm cao. Đồng thời nhà nước cũng cần phải xem xét lại mơ
hình tổ chức quản lý, chú ý đến đội ngũ cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ
có thể phát huy mọi năng lực của mình. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh quyết
liệt nguồn vốn FDI trong khu vực cũng như trên thế giới thì việc thiết lập một cơ
chế tổ chức gọn nhẹ khơng chồng chéo có hiệu quả cũng tạo ra khả năng cạnh tranh
lớn.
3.3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư
nước ngồi

Tích luỹ vốn trong nước có nhiều giải pháp nhưng giải pháp hàng đầu là
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn này sẽ đóng vai trị quan trọng để
giải quyết các nhu cầu chi của nhà nước về chi thường xuyên, chi cho đầu tư phát
triển và cho phát triển công nghiệp. Vì vậy nâng cao hiệu quả tích luỹ, tích tụ và
tập trung vốn qua ngân sách nhà nước là hết sức cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn
lớn lao. Một biện pháp để tăng cường lượng vốn là thơng qua các tổ chức tín dụng
và ngân hàng. Đây là hai hình thức tích luỹ vốn có hiệu quả tương đối cao do có thể
thu hút được vốn cịn nhàn dỗi trong nhân dân.


Để thực hiện được ngày càng tốt các nghiệp vụ của mình, một mặt ngân
hàng cần phải tự đổi mới phương thức phục vụ khách hàng mở rộng các hình thức
tiết kiệm qua bưu điện cải tiến các thủ tục đảm bảo an tồn bí mật và ổn định cho
tiền gửi của khách hàng, đồng thời chính phủ cũng cần có biện pháp nâng cao lãi
suất nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn dỗi trong dân. Đặc biệt là hệ thống
ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân để tích tụ và tập
trung vốn được thuận tiện. Mặt khác, việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong
nước từ các nguồn tài nguyên quốc gia và từ những tài sản cơng cịn bỏ phí vừa là
mục tiêu vừa là biện pháp cơ bản trước mắt và lâu dài để chúng ta tăng thêm nguồn
vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cần nghiên cứu lại các quy định về đất và
quyền sử dụng đất kết hợp hài hoà với các tổ chức thị trường liên quan.

Trong thời gian tới phải tìm cách để khai thác cao nhất hiệu quả nhất nguồn
vốn từ tài sản cơng. Đó là cơ sở vật chất trực tiếp sẵn có mà chúng ta có thể huy
động bằng cả hiện vật hoặc huy động bằng tiền trở thành nguồn thu trực tiếp của
ngân sách Nhà nước là cơ sở ban đầu cần thiết để gọi vốn đầu tư nước ngoài. Và
một biện pháp mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn thông qua thị
trường chứng khốn. Đây là hình thức tích tụ và tập trung vốn rất có hiệu quả đang
được các nước phát triển áp dụng. Chính thị trường chứng khốn là một hình thức
của thị trường vốn, và nếu thị trường chứng khốn hoạt động tốt thì nó sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế.

Ngoài nguồn vốn tích luỹ trong nước thì trong hồn cảnh hiện nay khi nền
kinh tế mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì một nguồn vốn có vai trị đặc
biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp
và vốn đầu tư gián tiếp trong đó vốn đầu tư trực tiếp có ý nghĩa vơ cùng lớn đối với
sự phát triển của nền kinh tế trong nước.

Vì thế mà chúng ta cần phải có chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc
biệt là vốn của các nước phát triển.

Kết luận

Downloaded by HANH LA ()

lOMoARcPSD|38545333

Qua lý luận tích lũy tư bản, ta thấy rằng cùng với sự phát triển của xã hội,
tích lũy ngày càng đóng vai trị cần thiết. Nhờ tích lũy mà của cải xã hội khơng
ngừng tăng lên. Tuy nhiên trong từng giai đoạn lịch sử tích lũy lại mang những bản
chất khác nhau: dưới chủ nghĩa tư bản, tích lũy là phương tiện để giai cấp tư sản
bóc lột lao động làm th, tích lũy càng nhiều lao động làm thuê càng bị bóc lột
nặng nề gây mâu thuẫn đối kháng không thể giải quyết được, trong chủ nghĩa xã
hội, tích lũy là phương tiện làm tăng của cải, tích lũy càng cao thì đời sống của
nhân dân càng được cải thiện.

Riêng đối với Việt Nam, để đạt những thuận lợi cùng với việc vượt qua
những thách thức trong cơng nghiệp hiện đại hóa đất nước, trước hết phải có nguồn
vốn dồi dào và quan trọng là việc sử dụng vốn như thế nào để đạt hiệu quả. Sự phát
triển bền vững và liên tục của nền kinh tế cũng tạo áp lực, thách thức đòi hỏi mỗi
người dân, mỗi doanh nghiệp…không chỉ biết làm giầu cho mình mà cịn phải làm
giầu cho tồn xã hội. Quy luật cạnh tranh đã bắt buộc bất cứ một doanh nghiệp nào
cũng phải không ngừng mở rộng vốn đầu tư để phát triển doanh nghiệp. Mà con
đường duy nhất là phải tích lũy ngày càng nhiều hơn để tái sản xuất mở rộng. Mặt
khác việc thu hút vốn đầu tư nước ngồi sẽ có tác động rất lớn. Có như vậy chúng
ta mới từng bước thực hiện thành công công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phát
triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, sớm đạt mục tiêu dân giàu nước
mạnh.

Downloaded by HANH LA ()



×