lOMoARcPSD|38545333
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TÊN ĐỀ TÀI
TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ BẢN
CHẤT CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
TRONG CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần : Triết học
Mã phách :……………………………..
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
PHẦN MỞ ĐẦU
1. L礃Ā do chọn đ t愃 i
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của tồn nhân loại. Làn sóng
văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả
năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự
tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm
con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng dễ
đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong thực tế, khơng ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong
chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hồn thiện con người
trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra
những tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện
nay. Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ khơng ai phủ nhận được vai trị ưu
trội và triển vọng của nó trong sự phát triển con người.
Vấn đề con người là nội dung cơ bản trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin nói chung và Triết học Mác - Lênin nói riêng vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển xã hội. Kế thừa những tư tưởng về con người của chủ nghĩa
Mác – Lênin, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về nhân tố con người trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, coi trọng việc phát huy tối đa sức mạnh
con người nhằm tạo động lực để giải phóng xã hội, giải phóng con người. Xuất
phát từ vị trí trung tâm và vai trị quyết định đối với thành công của sự nghiệp đổi
mới, vấn đề xây dựng con người và phát huy nhân tố con người đang được đặt ra
như một yêu cầu cấp bách. Nhằm đề cập đến một số quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về những giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người trong sự
nghiệp xây dựng phát triển đất nước hiện nay.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt là
vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện
nay rất quan trọng nên tơi đã chọn đề tài: “Trình bày quan điểm triết học Mác –
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
Lênin về bản chất con người và vấn đề phát huy nhân tố con người ở Việt Nam
hiện nay” để làm bài tiểu luận kết thúc học phần Triết học. Do thời gian và kiến
thức cịn có hạn nên bài tập sẽ khơng tránh khỏi những sai sót, mong thầy cơ
giảng viên góp ý để bài tập của tơi được tốt hơn. Tôi xin trân thành cảm ơn!
2. M甃⌀c đ椃Āch v愃 nhiệm v甃⌀ nghiên cứu
2.1. Mục đính nghiên cứu
Tiểu luận tập trung vào phân tích các quan điểm về con người và bản chất
con người trước chủ nghĩa Mác – Lênin.
Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất
con người.
Vận dụng những lý luận phân tích thực tiễn việc kế thừa và phát huy nhân
tố con người ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời đưa ra một số giải pháp để phát huy
nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện những mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:
Phân tích các quan điểm trước chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản
chất con người và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản
chất con người.
Liên hệ thực tiễn vấn đề con người và phát huy nhân tố con người ở Việt
Nam hiện nay. Đồng thời đưa ra những quan điểm, giải pháp phát huy nhân tố con
người ở Việt Nam hiện nay.
Khái quát chung các khái niệm, đặc trưng, chức năng vai trò về nhà nước pháp
3. ĐĀi tượng v愃 ph愃⌀m vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm của Mác – Lênin về con
người và bản chất con người.
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về con người và bản chất con người theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của bài tiểu luận, tôi đã áp dụng
phương pháp luận khoa học cùng với các các phương pháp nghiên cứu cụ thể, phù
hợp với từng nội dung nghiên cứu, như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, logic,v.v.. nhằm làm sáng tỏ
các vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, logic, được sử dụng trong toàn bộ nội
dung của tiểu luận.
5. BĀ c甃⌀c c甃ऀa tiऀu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thì nợi dung tiểu ḷn gồm 3 phần:
Chương 1: Một số quan điểm trước chủ nghĩa Mác – Lênin về con người
Chương 2: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người
Chương 3: Thực tiễn vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin về VẤN ĐỀ
CON NGƯỜI TRONG CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI
HOÁ ĐẤT NƯỚC
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRƯỚC CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI
I. Bản chất c甃ऀa con người.
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế
giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà ln được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu
phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế, trong nhiều đề tài khoa học của xã
hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại
đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học,... Từ rất
sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi
lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con
người.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong
chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một tiểu vũ
trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản chất vũ
trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của mn lồi, chỉ đứng
sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa
duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra, quy định, chi phối
mọi hoạt động của phần xác và linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật
thì ngược lại, họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn, khơng có linh
hồn nào là bất tử cả và quá trình nhận thức đó khơng ngừng được phát hiện. Càng
ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người và khơng ngừng khắc phục
lý luận trước đó.
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội.
Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự nhiên, cải tạo
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
tự nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong quá trình tiến
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
hố, nhưng như thế khơng có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái tự
nhiên để khơng cịn một sự liên hệ nào với tổ tiên của mình. Con người là sản phẩm tự
nhiên, là kết quả của q trình tiến hố lâu dài của giới hữu sinh, đã là con người thì
phải trải qua giai đoạn sinh trưởng, tử vong, mỗi con người đều có nhu cầu ăn, mặc ở,
sinh hoạt…
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn con người
sản xuất và của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người là
chủ thể cải tạo tự nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ thuộc vào
tự nhiên và vừa tác động vào tự nhiên. Tình cảm thống trị tự nhiên chỉ có con người
mới khắc phục được tự nhiên bằng cách tạo ra những vật chất, hiện tượng không như
tự nhiên bằng cách tạo ra những vật chất, hiện tượng không như tự nhiên vốn có, bằng
cách đó con người đã biến đổi bộ mặt của tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ con
người. Một điều chắc chắn rằng có con người chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết
tuân theo và nắm bắt các quy luật của chính bản thân nó. Q trình cải biến tự nhiên,
con người cũng tạo ra lịch sử cho mình. Con người khơng những là sản phẩm của xã
hội mà con người còn là chủ thể cải tạo chúng. Bằng mọi hoạt động lao động sản xuất
con người sáng tạo ra tồn bộ nền văn hố vật chất, tinh thần. Bằng hoạt động cách
mạng, con người đánh dấu thêm các trang sử mới cho chính mình mặc dù tự nhiên và
xã hội đều vận động theo những quy luật khách quan, song quá trình vận động của con
người luôn xuất phát từ nhu cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất
định và do đó đã tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho
phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình. Nếu khơng có con người với tư cách là
chủ thể sinh động nhất của xã hội thì khơng thể có xã hội, khơng thể có sự vận động
của xã hội mà vượt lên tất cả chính là của cải vật chất.
II. Quan điऀm ch甃ऀ nghĩa Mác v con người.
Chủ nghĩa xã hội do con người và vì von người. Do vậy, hình thành mối quan
hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
hội nói chung, trong xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề khơng thể thiếu
được của thế giới quan Mác - Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể người
như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con
người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy
nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư
cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống... Điều đó giải
thích vì sao Mác cho rằng con người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị.
Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi
trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội;
Nhưng khác với họ, Mác, Anghen xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn, ngủ,
đi lại, yêu thích... Khơng cịn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội
hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hồ của
những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội
nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con
vật có bản năng gần giống với con người... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra
sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con
người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật,
con người sản xuất ra công cụ sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết
chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con
người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã
hội” Mác hồn tồn khơng có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc điểm sinh học
của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn thuần như một phần của
giới tự nhiên cịn bỏ qua, khơng nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác định
bản chất của con người, trước hết Mác nêu bật cái chung,
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
cái khơng thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở thành một
con người. Sau đó, khi nói đến “Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng
chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản
chất và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng đã khơng tán thành quan điểm
cho rằng mọi người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ơng viết “thực hiện một sự bình
đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn... Nói tới bình đẳng
thì đó ln ln là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chỉ khơng phải là sự bình
đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình phát triển
lịch sử xã hội lồi người là vì con người, vì cuộc sống ngày cnàg tốt đẹp hơn cho con
người, phát triển con người tồn diện và giải phóng con người, nói theo Anghen là đưa
con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, con người cuối cùng
cũng là người tơn tại của xã hội của chính mình, đồng thời cũng trở thành người chủ
của tự nhiên, người chủ bản thân mình. Đó là q trình mà nhân loại đã tự tạo ra cho
mình những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem lại sự phát triển
toàn diện, tự do và hài hoà cho mỗi con người trong cộng đồng nhân loại tạo cho con
người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình.
Xã hội bao giờ cũng tồn tại nhiều giai cấp đó điều quan trọng là giai cấp đó có
phục tùng được lịng dân hay khơng. Trải qua thời kỳ phát triển của xã hội loại người
chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp đáp ứng đầy đủ mọi quy luật của cuộc sống và đó
chính là lý do tại sao Mác lại lấy giai cấp vơ sản để nghiên cứu trong đó Mác tập trung
nghiên cứu con người vô sản là chủ yếu.
1.1. Quan điऀm triết học phương Đông v con người
Trước triết học Mác Lênin, vấn đề bản chất con người vẫn chưa được lý giải một
cách khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo mà cả chủ nghĩa duy
vật siêu hình cũng khơng nhận thức đúng bản chất con người.
Trong triết học phương Đông cũng tồn tại quan điểm cho rằng, con người và trời
có thể hồ hợp được với nhau (thiên nhân hợp nhất) đó là quan điểm duy tâm. Kế
thừa nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan, Đổng Trọng Thư cho rằng
con người và trời có thể thơng hiểu lẫn nhau (thiên nhiên cảm ứng) với mục đích
ứng dụng những quan điểm Nho gia vào đời sống xã hội. Đổng Trọng Thư đã làm
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản, qui cuộc đời con người vào vai trò quyết định
của “thiên mệnh”.
Phái Đạo gia với đại diện tiêu biểu là Lão Tử, quan niệm rằng con người sinh ra
từ “Đạo”. Do vậy con người phải “vơ vi” trong cuộc sống. Đó không phải là cái
thụ động, bất động mà là hành động theo bản tính tự nhiên của Đạo. Quan điểm
này thể hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia…
Như vậy, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông thể hiện
sự đa dạng, phong phú khi bàn về bản chất con người. Các quan niệm đó thiên về
vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Đó là quan niệm về con
người với biểu hiện của sự pha trộn giữa yếu tố duy tâm với tính duy vật chất
phác ngây thơ trong quan hệ với tự nhiên và xã hội.
1.2. Quan điऀm triết học phương Tây v con người
1.2.1. Quan điểm về con người thời cổ đại
Quan niệm duy vật chất phác, mộc mạc trong triết học tự nhiên của phái
nguyên tử luận về con người: Đêmơcrit cho rằng sự sống là q trình biến đổi của
bản thân giới tự nhiên. Trải qua quá trình biến đổi lâu dài từ vật thể ẩm ướt, dưới
tác động mơi trường phát sinh sự sống, hình thành sinh vật có linh hồn.
Quan niệm duy tâm về con người trong triết học: Phái Pitago quan niệm
con người chỉ là hiện thân của các con số và con số là cái có trước. Con số là nền
tảng, bản chất hiện tượng ý thức. Linh hồn con người cũng được cấu thành từ các
con số.
Rõ ràng, triết học Hi Lạp cổ đại khi nghiên cứu về con người, bước đầu đã
có sự tách biệt con người với tự nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết bên ngoài về con
người.
1.2.2. Quan điểm về con người thời trung cổ
Với sự thống trị của thần học thời trung cổ đối với triết học mà xuất hiện
quan niệm con người là sản phẩm của thượng đế sáng tạo nên. Mọi mặt cuộc sống
con người, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do thượng đế sắp
đặt. Lý trí anh minh của sáng suốt của thượng đế cao hơn trí tuệ nhỏ nhoi của con
người. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống, nhưng đành bằng lòng, can
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
phận với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thiên đường.
Đây là quan niệm duy tâm về bản chất con người.
1.2.3. Quan điểm về con người thời Phục hưng – Cận đại
Thời phục hưng - cận đại, triết học đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của nước,
xem con người như một thực thể có trí tuệ. Đó là yếu tố quan trọng nhằm giải
thoát con người khỏi thế lực thần học thời Trung Cổ áp đặt cho con người, tiến tới
giải phóng con người khỏi sự thống trị của cường quyền và thần quyền. Tuy
nhiên, chưa có một trường phái nào nhận thức đầy đủ cả về mặt sinh học và mặt
xã hội, thống nhất trong con người. Họ chỉ nhấn mạnh mặt cá thể mà xem nhẹ mặt
xã hội của con người.
Thời cận đại, nhận thức về nguồn gốc và bản chất con người đã có một bước tiến
đáng kể, triết học duy vật và duy tâm đều phản ánh những vấn đề mới mẻ do thực
tiễn đặt ra.
Tiऀu kết chương 1
Tại chương 1 tôi đã khái quát các quan niệm triết học về con người của triết
học phương Đông và phương Tây trước chủ nghĩa Mác – Lênin. Triết học trước
Mác, khi quan niệm về con người dù đứng trên nền tảng thế giới quan nào cũng
không phản ánh đúng bản chất của con người. Họ đều xem xét con người một
cách trừu tượng: tuyệt đối hoá tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hố mặt
tự nhiên sinh học mà khơng thấy được mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy
nhiên, một số trường phái triết học, một số nhà triết học cũng đạt được những
thành tựu nhất định trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác
lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những vấn đề
có ý nghĩa tiền đề để Mác, Ăngghen và Lênin kế thừa và hình thành tư tưởng về
con người trong triết học Mác xít.
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
2.1. Khái niệm v con người v愃 bản chất con người
2.1.1. Khái niệm về con người
Định nghĩa về con người cho đến nay vẫn chưa được thống nhất cụ thể.
Việc đưa ra định nghĩa xác định với các góc nhìn khác nhau ở các khía cạnh thực
tiễn:
Dưới góc nhìn của khoa học: “Con người là lồi linh trưởng đơng đảo và
lan rộng nhất, đi bằng hai chân và có bộ não lớn phức tạp, thơng minh, có khả
năng ghi nhớ từng hồi. Là động vật có tính xã hội cao, có xu hướng sống trong
các cơ cấu xã hội phức tạp theo quan hệ hợp tác hoặc cạnh tranh”.
Theo thuyết tiến hóa: “Con người là động vật cao cấp, thông minh nhất,
nhưng con người cũng là lồi động vật mưu mơ, tàn ác nhất. Bởi lẽ, chẳng có con
nào chế tạo ra những thứ vũ khí tối tân nhất rồi đem đi giết đồng loại hàng loạt
như con người”.
Còn theo quan điểm Mác – Lênin về con người thì: “Con người là thực
thể sinh học xã hội. Con người là một sinh vật có tính xã hội, vừa là sản phẩm
cao nhất trong qua trình tiến hóa của tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể
sáng tạo mọi thành tựu văn hóa trên Trái đất”.
Triết học Mác chỉ rõ hai mặt, hai yếu tố cơ bản cấu thành con người là mặt
sinh học và mặt xã hội. Con người có mặt tự nhiên, vật chất, nhục thể, sinh vật,
tộc loại …Đồng thời, con người có mặt xã hội, tinh thần, ngôn ngữ, ý thức, tư
duy, lao động, giao tiếp, đạo đức. Con người là chủ thể hoạt động thực tiễn, con
người sáng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần, sáng tạo ra cả bộ óc và tư duy
của mình. Con người là một động vật cao cấp nhất, là sản phẩm của quá trình tiến
hóa lâu dài của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, tìm
thức ăn, nước uống từ trong tự nhiên, cũng phải đấu tranh để tông tại và sinh con
đẻ cái.
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
Tóm lại, Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt
xã hội. Hai mặt này vừa đối lập nhau, vừa quy định ràng buộc và làm tiền đề cho
nhau, trong đó mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt xã hội
quyết định bản chất con người.
2.1.2. Khái niệm về bản chất con người
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản
chất, “bản tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó
thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác
phâm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó
và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất con người khơng phải là một cái
gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hồ những quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa
mặt tự
nhiên và mặt xã hội nên. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con
người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật
của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ
sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất
được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hồ các quan hệ
xã hội”. Sau, thì khi nói đến “Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng
chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với
bản chất và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng đã không tán thành
quan điểm cho rằng mọ người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực
hiện một sự bình đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu
xuẩn... Nói tới bình đẳng thì đó ln ln là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa
vị chỉ khơng phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
2.2. Bản t椃Ānh c甃ऀa con người
2.2.1. Bản tính tự nhiên của con người
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ sau:
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của
Đácuyn về sự tiến hóa của các lồi.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự
nhiên cũng là “ thân thể vơ cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự
nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy
định sự tồn tại của con người và xã hội lồi người, nó là mơi trường trao đổi vật
chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con
người, lồi người ln ln tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi mơi
trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người,
loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên, con nguời không đồng
nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con
người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã
hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy,
bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người,
hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
2.2.2. Bản tính xã hội của con người
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau đây:
Một là, xét từ giác ngộ nguồn gốc hình thành con người, lồi người thì
khơng phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà có
nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính
nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua lồi động vật để tiến hóa và
phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác-
Lênin, nhờ đó mà có thể hồn chỉnh học thuyết về nguồn gốc lồi người mà tất cả
các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, lồi người thì sự
tồn tại của nó ln ln bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các qui luật xã hội.
Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng
và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
Ngồi mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể
sinh vật thuần túy mà không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất
của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các
nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Khơng những thế, trong nhiều
đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm
được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh
học, y học, triết học, xã hội học,... Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con
người và khơng ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý
nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
1.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mắt sinh vật với mặt xã hội.
2 Do nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt là vấn
đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước ta hiện nay.
Đảng và nhân dân ta đã và đang xây dựng và phát triển đất nước toàn diện về nhiều
mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào nhiều chiến lược con
người: Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
3 tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như trên thế giới ở nước ta
chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng và để phát triển đúng
hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người, khơng để con
người đi lệch tư tưởng tuy nhiên trong thực tế khơng ít người sẽ ngang đi tìm khả
năng phát triển nó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự
hồn thiện con người trong các tôn giáo và các hệ tư tưởng truyền thống. Có người
lại sáng tạo ra tư tưởng tôn giáo mới cho phù hợp với con người Việt Nam. Song
nhìn lại một cách khách quan và khoa học thì sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong xã hội Việt Nam có lẽ khơng ai có thể phủ nhận được vai trò ưu trội và triển
vọng của nó trong sự nghiệp phát triển con người, tạo đà cho bước phát triển tiếp
theo của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, thì một nước đang cịn ở tình
trạng phát triển chậm như nước ta không thể khơng xây dựng một chính sách phát
triển lâu dài, có tầm nhìn xa trơng rộng phát triển con người nâng cao chất lượng
của người lao động. Hơn bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác, lĩnh vực phát
triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ
nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương
lai con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước.
4 Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể vạch rõ được hướng đi đúng cho con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng
giải phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do
con người việt Nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp dụng
được, và chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính
thống của toàn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân
Việt Nam
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy
luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di
truyền, biến dị, tiến hóa…quy định phương diện sinh học của con người.
Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí.
Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất trong
đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ
giữa sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh
học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở;
nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng
các giá trị tinh thần.
Với phương pháp duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học với mặt xã hội cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài
vật. Nhu cầu sinh học phải được nhân hóa để mang giá trị văn minh con
người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội khơng thể thốt ly khỏi tiền đề của
nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau
để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên – xã hội.
1..2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những quan
hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con
người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Cả ba mối quan hệ đó, suy đén cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan
hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối
quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu
lên một mệnh đề nổi tiếng Luận cương về Phơbách: “Bản chất con người
không phải một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những mối quan hệ xã
hội”.
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
Luận đề trên khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi
điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điêu
kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong
tồn bộ các mối quan hệ xã hội đó ( như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan
hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con người mới bộc lộ
tồn bộ bản chất xã hội của mình.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích
của mình.
Trong q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt
xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với
mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Khơng có hoạt động của con người thì
cũng khơng tồn tại quy luật xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ lịch
sử xã hội loài người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là tồn
bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thơng qua đó con người tiếp cận hồn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử , hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
các quy luật nhận thức hướng con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào
của lịch sử xã hội loài người.
1.3 Sự phát triऀn xã hội lo愃 i người trong n n kinh tế tri thức
Trong thời gian 150 năm, từ năm 1750 đến 1900 (thời kỳ của cách
mạng công nghiệp), chủ nghĩa tư bản và công nghệ đã chinh phục toàn thế
giới và tạo ra một nền văn minh thế giới mới. Nét mới quan trọng của tư bản
và các phát triển công nghệ trong thời kỳ này là nhịp độ lan truyền và ảnh
hưởng có tính tồn cầu của chúng đối với nhiều nền văn hóa, giai cấp và khu
vực địa lý. Nhịp độ và phạm vi đó đã biến tư bản thành “chủ nghĩa tư bản”,
và biến những tiến bộ về khoa học công nghệ thành cuộc “ Cách mạng công
nghiệp”. Chủ nghĩa tư bản và Cách mạng công nghiệp – do nhịp độ và quy
mô của chúng - đã tạo ra một nền văn minh thế giới mới.
Sự chuyển đổi này đã được thúc đẩy bởi những thay đổi căn bản về
ý nghĩa tri thức. ở cả phương Đông và phương Tây trước đây, tri thức được
quan niệm là phục vụ cho chính nó. Nhưng sau một khoảng thời gian ngắn, tri
thức đã được áp dụng vào tổ chức lao động, trở thành một nguồn lực có giá trị
sử dụng và trở thành một loại hàng hóa cơng cộng.
Sự biến đổi ý nghĩa của tri thức trải qua 3 giai đoạn:
Trong giai đoạn đầu (khoảng 100 năm), tri thức được áp dụng cho
các công cụ sản xuất, phương pháp sản xuất và sản phẩm. Điều này tạo ra
cuộc Cách mạng công nghiệp đồng thời cũng tạo ra điều mà Marx gọi là các
giai cấp mới, các cuộc đấu tranh giai cấp và gắn liền với chúng là Chủ nghĩa
cộng sản.
Trong giai đoạn thứ hai, bắt đầu từ khoảng cuối thể kỷ 19 và kết
thúc vào Chiến tranh thế giới thứ 2, tri thức được áp dụng cho tổ chức lao
động. Giai đoạn này tạo ra cuộc Cách mạng năng suất trong 75 năm và
chuyển những người vô sản trở thành tầng lớp trung lưu với thu nhập gần với
tầng lớp thượng lưu.
Giai đoạn cuối cùng thì tri thức đang được áp dụng cho chính bản
thân tri thức. Đó là cuộc cách mạng quản lý. Tri thức trở thành một nhân tố
sản xuất, làm giảm vai trò của cả vốn là lao động. Có thể là hấp tấp khi nói
rằng chung ta hiện nay đang ở trong “xã hội tri thức”- hiện nay chúng ta mới
chỉ có một nền kinh tế tri thức. Nhưng rõ ràng xã hội của chúng ta hiện nay
đã là “xã hội hậu tư bản”
Các phát minh trong thời trước cách mạng cơng nghiệp (chẳng hạn
như kính mắt) cũng đã được lan truyền rất nhanh nhưng chúng ta chỉ gắn với
một ngành, nghề thủ công hoặc một ứng dụng cụ thể nào đó. Những phát
minh trong thời cách mạng công nghiệp (chẳng hạn như động cơ hơi nước)
nhanh chóng được ứng dụng trên diện rộng và tác động đến tất cả các ngành,
nghề thủ công.
Chúng ta hiểu rằng những sự kiện lịch sử trọng đại bắt nguồn
không chỉ từ một nguyên nhân duy nhất và một cách giải thích duy nhất mà
thường là kết quả hội tụ của nhiều tiến triển riêng rẽ và độc lập. Có thể lấy ví
dụ về việc phát triển máy tính phải dựa vào rất nhiều phát minh khoa học
Downloaded by HANH LA ()
lOMoARcPSD|38545333
trước đó.
Tuy nhiên, có một nhân tố rất quan trọng mà khơng có nó thì tư
bản và tiến bộ kỹ thuật có lẽ khơng thể có tác động lan truyền mang tính xã
hội và rộng khắp đến thế trên thế giới. Đó là sự thay đổi căn bản ý nghĩa của
tri thức vào những năm 1700 và một thời gian ngắn sau đó.
Vào thời kỳ Plato (những năm 400 trước công nguyên) có 2 học
thuyết ở phương Đông và 2 học thuyết ở phương Tây về ý nghĩa và chức
năng của tri thức. Nhà hiền triết Socrates, người phát ngôn của phái triết
học Plato, cho rằng chức năng của tri thức là vì chính tri thức: sự phát triển
tri thức, đạo đức và tinh thần của cá nhân. Địch thủ của ông ta, nhà triết học
Protagoras lại cho rằng mục đích của tri thức là làm cho người có tri thức
có thể hiểu được những gì cần phải nói và làm thế nào để nói chúng. Theo
Protagoras, tri thức có nghĩa là logich, ngữ pháp và hừng biện (tu từ).
Ở phương Đơng cũng có hai học thuyết tương tự về tri thức. Đối với
Khổng giáo, tri thức là biết được những gì cần nói và làm thế nào để nói
chúng là con đường dẫn tới tiến bộ và thành công trên trần thế. Theo Đạo
Lão và phái Thiền (Phật giáo) thì tri thức là vi tri thức, và là con đường đi
đến sự thông thái và khôn ngoan.
Khác với những người đương thời của mình của mình ở phương
Đông, tức là những người theo Khổng giáo ở Trung Quốc, những người coi
thường bất cứ những gì khơng thuộc nghiên cứu sách vở, cả Socrates lẫn
Protagoras đều coi trọng kỹ thuật (techne) mặc dù cả hai ông này đều cho
rằng kỹ thuật không phải là tri thức dù nó có đáng khâm phục đến đâu. Kỹ
thuật gắn với một ứng dụng cụ thể và khơng có tính ngun tắc để áp dụng
cho tất cả các trường hợp.
Nền tảng tạo ra 3 giai đoạn của tri thức – Cách mạng công nghiệp,
Cách mạng năng suất, và Cách mạng quản lý – là sự thay đổi về căn bản ý
nghĩa của tri thức. Chúng ta đã chuyển từ chỗ tri thức là số ít lên tri thức là
số nhiều.
Tri thức theo kiểu truyền thống là một thức chung chung. Còn tri
thức bây giờ là những kiến thức cần thiết cực kỳ chuyên sâu.
Khác với cách hiểu về tri thức trong thời kỳ Plato như đã nói ở trên,
tri thức bây giờ được hiểu là tri thức thơng minh cho chính nó trong hoạt
động. Cái mà bây giờ chúng ta hiểu về tri thức chính là thơng tin thực tế đối
với hoạt động, thông tin nhấn mạnh đến kết quả. Những kết quả này nằm
ngoài một cá nhân- nằm trong một xã hội và một cộng đồng.
Để có thể thực hiện được cơng việc, tri thức phải có tính chun mơn
hóa cao. Đây chính là lý do giải thích tại sao trước đây người ta lại coi tri
thức chuyên sâu có vị trí tầm thường như kỹ thuật và kỹ xảo. Nó khơng học
được cũng khơng dạy được; nó cũng khơng có một ngun tắc chung nào.
Nhưng ngày nay, chúng ta không gọi những tri thức chuyên sâu này là “bí
quyết”, chúng ta nói đó là “những mơn học”. Đây chính là một sự thay đổi
lớn hơn bất cứ sự thay đổi nào trong lịch sử tri thức.
Mỗi mơn học sẽ chuyển một “bí quyết” thành một phương pháp luận,
sẽ chuyển từng kinh nghiệm riêng lẻ thành một hệ thống và chuyển giai
thoại thành thông tin. Mỗi môn học sẽ chuyển các kỹ năng thành các thứ có
Downloaded by HANH LA ()